Showing posts with label Thích Như Điển. Show all posts
Showing posts with label Thích Như Điển. Show all posts

Monday, February 18, 2019

QUAN ÂM QUẢNG TRẦN - Thích Nữ Giới Hương

Sách designed by Uyên Nguyên - Lotus Media, Inc.

THÍCH NHƯ ÐIỂN: Người xưa thường nói rằng: "Học hải vô nhai, cần thị ngạn; thanh không hữu lộ, chí vi thê". Nghĩa là: Biển học không bờ, siêng là bến; trời xanh có lối, chí là thang". Mãi cho đến bao giờ, khi nắp quan tài chưa đậy lại, thì lúc ấy con người mới không cần học hỏi nữa; nhưng nếu con người vẫn còn sống, bắt buộc chúng ta phải học hỏi nhiều điều; nghĩa là: học những gì cần phải học để sự hiểu biết của chúng ta được phong phú hơn.

Vào cuối năm 2017 Ni sư Giới Hương ở Hoa Kỳ có nhờ tôi đọc, chỉnh sửa nếu có những lỗi chính tả cũng như ý của câu văn cho hai quyển sách "Luân Hồi trong Kinh Lăng Nghiêm" và "Quan Âm Quảng Trần". Tôi cũng hơi lo, vì thời gian gấp quá; nhưng quyển trước, tôi đã đọc xong và cũng đã viết lời giới thiệu rồi. Lần nầy nhờ đi Nga với hai nơi là Saint Peterburg và Moscow để dự lễ Khánh Thành chùa Thảo Đường từ ngày 18 đến 30 tháng 10 năm 2017; nên tôi đã lợi dụng cơ hội nầy, ban ngày thực hiện những Phật sự tại địa phương và ban đêm về lo đọc sách, sửa lỗi chính tả và cuối cùng viết lời giới thiệu. Sách nầy dày hơn sách trước; nghĩa là sách có 452 trang, mà tôi phải đọc trong 4 ngày từ 18 đến 22 tháng 10 mới xong, vì lẽ sách có nhiều điểm cần phải quan tâm và chỉnh sửa và hôm nay ngày 22 tháng 10 năm 2017 trên chuyến tàu tốc hành từ Saint Peterburg đến Moscow, tôi đã hoàn thành lời giới thiệu nầy.

Sách có 6 chương. Chương đầu giới thiệu về lịch sử của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát của Việt Nam, Trung Hoa và Đại Hàn theo tinh thần Phật Giáo Đại Thừa; với những câu chuyện tưởng như đơn giản dễ hiểu; nhưng khi vào các chương 2,3,4,5... thì độc giả phải dùng trí lực không ít, vì lẽ Ni sư đã kết hợp tánh nghe của Quan Âm thuộc về Nhĩ Căn Viên Thông để hình thành tác phẩm nầy. Lẽ ra nội dung của tác phẩm nầy liên hệ trực tiếp với Kinh Lăng Nghiêm; nhất là phần 25 Vị Thánh trình bày về sở tu, sở chứng của mình; nhưng Ni sư đã khéo léo kết hợp để đưa chung vào tác phẩm "Quan Âm Quảng Trần" nầy để cho có cơ hội làm quen với cả hai tác phẩm cùng một lúc. Vì lẽ tác giả của sách nầy đã minh chứng về Tánh Không một cách quá tỉ mỉ; khiến cho chúng ta không thể nào không đọc chương nầy một cách thích thú được. Đến phần Đức Đại Thế Chí Bồ Tát đi cầu pháp niệm Phật A Di Đà, chúng ta mới thấy tác giả đã khéo léo kết hợp tư tưởng Tịnh Độ để giới thiệu đến những độc giả đó đây, nhằm phổ biến tư tưởng nầy đến với mọi độc giả của mình.

Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cuối cùng chỉ chấp nhận pháp tu Quan Âm trong 25 pháp tu của các Vị Thánh; bởi vì chỉ có Phản Văn Tự Kỷ mới là phần chính của tánh nghe mà Đức Phật muốn gạn hỏi Ngài A Nan qua 7 cách đi tìm tâm; còn nàng Ma Đăng Già thì đã liễu ngộ tánh nầy, ngay trước cả A Nan, vì Ngài A Nan chỉ chuyên tâm nghe, học, hiểu; nhưng phần hành trì chưa thấu đáo; nên Ngài A Nan vẫn còn là một bậc đa văn hữu học; chứ không phải là bậc Vô Học Tỳ Kheo hay Tỳ Kheo Ni, khi những vị nầy đã liễu ngộ được pháp tu Quan Âm nầy.

Phần Ngài Ưu Ba Ly đi tìm tự tánh của chính mình cũng đã vượt qua khỏi cả 8 ông Hoàng tử muốn đi xuất gia, mặc dầu họ đã đến gặp Phật trước cả Ưu Ba Ly; nhưng tám Vị nầy phải qua một tuần lễ gạn lọc tâm để thanh tẩy những ngã mạn, tà kiến khi còn là những ông Hoàng tử của xứ Ca Tỳ La Vệ. Vì vậy cho nên người xưa đã đặt một bài kệ để tán dương hạnh nầy của Ngài Ưu Ba Ly như sau:
Đắc độ thân tiền bát vương tử
Lăng Nghiêm hội thượng chứng viên thông 
Hoằng tuyên luật giáo Tỳ Ni tạng
Phật pháp do như tự thế long.

Nghĩa:
Đắc độ cả trước 8 ông Hoàng
Lăng Nghiêm pháp hội chứng thần thông 
Hoằng truyền giới luật, tạng Thanh Văn
Phật pháp từ đây đà hưng thịnh.


Toàn văn cũng như ngữ nghĩa của quyển sách nầy tác giả muốn giới thiệu đến các pháp tu từ tiệm đến thứ. Đó là pháp Sa Ma Tha, Tam Ma và Thiền Na. Nếu hành giả nào đi trọn vẹn được quảng đường tiệm rồi đến thứ trong việc tu học như thế nầy thì Đại Viên Cảnh Trí của A Lợi Da thức đã viên thành nhiệm vụ của mình là đưa hành giả từ chỗ sơ cơ về đến bờ giác ngộ giải thoát. Tôi xin trân trọng giới thiệu tác phẩm giá trị nầy đến với Quý độc giả khắp muôn phương và theo tôi, nếu quý vị nào có duyên đọc quyển nầy trước thì cũng nên tìm đọc quyển "Luân Hồi trong Kinh Lăng Nghiêm" thì sẽ được bổ túc cho nhau về việc đi tìm Tâm nầy; hoặc ngược lại, nếu vị nào đọc quyển "Luân Hồi trong Kinh Lăng Nghiêm" trước thì cũng nên tìm đọc quyển "Quan Âm Quảng Trần "nầy để cả Lý và Sự được viên dung.

Tôi biết rằng quyển sách nầy cũng đã được Ni sư Thích Nữ Giới Hương cho dịch sang Anh Văn để giới thiệu đến những độc giả chuyên đọc Anh ngữ. Đây là một việc làm không đơn giản, vì Tánh Không và tự tánh Di Đà không phải là một việc đơn giản để người ngoại quốc hiểu và thực hành; nhưng với trách nhiệm là một Giáo sư Đại học Phật giáo Việt Nam với học hàm Tiến sĩ, bận rộn cho không biết bao nhiêu công việc, mà Ni sư đã hoàn thành được cả hai tác phẩm nầy bằng hai ngôn ngữ cả Việt lẫn Anh văn, quả là một việc quá phi thường. Cho nên tôi mong rằng các độc giả hãy cố gắng đọc từ trang đầu đến trang cuối để được lợi lạc nhiều hơn.

(Viết xong lời giới thiệu nầy vào lúc 16 giờ ngày 22 tháng 10 năm 2017 trên chuyến tàu tốc hành chạy từ Saint Peterburg về Moscow, Liên Bang Nga.)

Nếp Sống Tỉnh Thức của Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV - Thích Nữ Giới Hương

Sách designed by Uyên Nguyên, Lotus Media Inc. 

THÍCH NHƯ ÐIỂN: Ðức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng là một vị Thánh Tăng trong hiện kiếp, hầu như ít có người Phật Tử nào trên thế giới mà chẳng biết hay nghe đến danh tiếng của Ngài, ngay cả những người không phải là Phật Tử. Trên từ các bậc Quân Vương, Hòang Hậu, Tổng Thống, Thủ Tướng; dưới cho đến những người cùng đinh trong xã hội Ấn Độ, Tây Tạng v.v... không ai là không biết đến Ngài. Ngài là biểu tượng của lòng từ bi và trí tuệ, bình đẳng cũng như hài hòa. Đây là một vị Bồ Tát tái sanh vậy.

Ai đã có duyên gặp được Ngài hay đọc sách của Ngài rồi thì không thể nào không có một ấn tượng sâu xa nào đó. Nhất là nụ cười và những lời giáo huấn đơn giản, nhưng sâu sắc của Ngài. Năm 1959 Ngài chính thức có mặt tại Ấn Độ và suốt hai mươi năm như vậy Ngài lo ổn định đời sống tại Dharamsara, thuộc miền Bắc Ấn Độ, cho chính Ngài cũng như cho dân chúng Tây Tạng đang tỵ nạn tại đó. Đến năm 1979 Ngài bắt du hành sang Hoa Kỳ và cũng trong năm nầy ngoài việc tiếp xúc với các chính giới Hoa Kỳ, Ngài đã nhận tước hiệu Tiến Sĩ Triết Học Phật Giáo tại Đại Học Đông Phương (University of Oriental Studies, LA, USA) do cố Hòa Thượng Tiến Sĩ Thích Thiên Ân, Viện Trưởng Viện Đại Học nầy trao tặng. Đây là niềm vinh dự của Phật Giáo Việt Nam chúng ta tại Hải Ngọai lúc bấy giờ. Rồi kể từ đó đến nay, riêng Phật Tử và chư Tăng Ni Việt Nam của chúng ta ở trong cũng như ngoài nước có không biết bao nhiêu là cơ hội để được tiếp xúc, học hỏi, đãnh lễ, cúng dường Ngài. Đây là một phước báu của chúng ta.

Riêng chúng tôi và chùa Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc đã được vinh dự đón tiếp Ngài hai lần vào ngày 18 tháng 6 năm 1995 và ngày 20 tháng 9 năm 2013 cũng như vô số lần khác tại Ấn Độ, Hamburg, Frankfurt, Schneverdingen v.v… mỗi lần như thế chúng tôi thấy được ấm áp, có sự gia trì từ Ngài. Đồng thời chúng tôi cũng có duyên để đọc rất nhiều sách viết về Ngài như: Nước tôi và dân tôi, tự do trong lưu đày v.v… đặc biệt chúng tôi cũng đã viết lời tựa cho quyển sách dịch từ tiếng Anh “My Son, the Dalai Lama 14“ do Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng dịch sang Việt Ngữ. Nay có Ni Sư Thích Nữ Giới Hương, Trụ Trì chùa Hương Sen tại Hoa Kỳ đã viết và dịch xong tác phẩm “Nếp sống tỉnh thức“ của Ngài gồm 2 tập. Tập 1 dày 192 trang khổ A4 và tập thứ 2 dày 298 trang cũng khổ A4. Thật ra đây là lần tái bản thứ 3 chứ không phải là lần đầu tiên; nhưng Ni Sư Giới Hương mới nhờ tôi viết lời giới thiệu. Do vậy tôi phải cất công đọc hai tập sách nầy trong nhiều ngày liền để viết nên lời giới thiệu nầy.

Luận án Tiến Sĩ của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương viết bằng tiếng Anh có liên quan về Tánh Không và khi Cô cho chuyển dịch sang Việt ngữ, tôi cũng đã đọc và đã viết lời giới thiệu cho luận án giá trị nầy. Văn phong dịch thuật rất trôi chảy, lịch lãm cũng như uyên bác, lột tả hết được những ngôn từ Phật Học qua sự chuyển dịch. Ấy là một sự thành công. Thứ đến, những lời dạy của Ngài là vàng, là bạc, là kim cương qua cái nhìn từ bi và trí tuệ, dưới nhãn quan Phật học, khó có một chính trị gia hay một nhà Thần Học nào có thể qua khỏi được những nhận xét về cuộc đời, phương cách sống được như vậy. Ví dụ như câu chuyện về sức khỏe. Ngài bảo “khi người ta còn trẻ, người ta dùng rất nhiều thời gian và sức lực để đi kiếm cho thật là nhiều tiền và đến khi già, người ta dùng rất nhiều tiền để đi mua sức khỏe“. Đó là một chân lý mà ít ai quan tâm để ý đến; nhưng sau khi nghe hay đọc được rồi, thì đây chính là một công án, mà mỗi người trong chúng ta nên tự giải đáp về đời sống nan giải có liên quan đến sức khỏe của mình. Từ chương 1 đến chương 3 tác phẩm nầy đã giới thiệu về đất nước Tây Tạng, Tiểu Sử của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 cũng như sự truyền thừa của 14 đời Đạt Lai Lạt Ma từ thế kỷ thứ 14 đến nay. Đồng thời Ni Sư cũng đã cố công dịch lại tất cả những giải thưởng mà Ngài đã nhận lãnh được trên thế giới. Qua đây, chúng ta thấy được việc giải Nobel Hòa Bình của Thụy Điển và Na Uy cấp cho Ngài năm 1989 là một điều hiển nhiên vậy.

Từ chương thứ 4 đến chương thứ 9 là nội dung có liên quan đến trí tuệ, tình thương, giáo dục, chính trị, văn hóa, Tôn Giáo, ngọai giao, bệnh tật, khổ nạn của chúng sanh v.v… tất cả đều được thể hiện qua những bài giảng của Ngài. Đa phần là những câu hỏi và những câu trả lời ngắn gọn, nhưng rất súc tích, hàm chưa phẩm hạnh của một bậc Đạo Sư có cả Pháp Học và Pháp Hành. Cô Giới Hương có công chia ra từng chương một và gồm nhiều đề tài khác nhau, được sắp theo thứ tự A, B, C… khiến cho người đọc dễ nắm bắt vấn đề khi cần tham khảo. Đặc biệt nhất ở chương cuối Cô đã dịch những Pháp Ngữ của Ngài qua Tác Phẩm “The Joy of Living and Dying in Peace“ rất là tuyệt vời. Do vậy, tôi xin tán dương, ca ngợi để viết nên lời giới thiệu chân thành nầy. Một bữa ăn ngon, người ta chỉ có thể no đủ trong mấy tiếng đồng hồ; nhưng một khái niệm và nhận chân về trí tuệ, nếu chúng ta nắm bắt được từ lời dạy của Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ được lợi ích suốt đời. Đây là món ăn tinh thần mà người Phật Tử xuất gia cũng như tại gia không thể nào không quan tâm được.

Dịch sách và viết sách không phải là vấn đề giản đơn chỉ là trau chuốt những con chữ cho độc gỉa đọc, hiểu và tìm tòi, mà ở đây còn là vấn đề niềm tin vào một Tôn Giáo nữa. Dịch không thừa mà cũng không thiếu ý chính của Tác Gỉa. Đó là bổn phận của người dịch và người viết sách. Nay Ni Sư Giới Hương đã làm được hai nhiệm vụ nầy. Quả là điều tuyệt diệu. Nếu ai đó chỉ nhìn qua đề tựa của quyển sách rồi khen đẹp, khen hay; chẳng khác nào chúng ta nhìn những món ăn ngon được bài trí trên bàn, nhưng chúng ta chưa cầm đũa để thưởng thức những món ăn ấy. Vậy xin mời bạn, kể cả những người thuộc các Tôn Giáo khác hãy ngồi ngay vào bàn tiệc tinh thần nầy để đọc, nghiền ngẫm, tra cứu những lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, để chúng ta cùng thẩm thấu, đón nhận những món ăn tinh thần cao qúy nầy.

Xin kính mời chư Tôn Đức cùng tất cả Qúy Phật Tử và những người khác Đạo hãy dành một ít thời gian để đọc qua dịch phẩm nầy. Chắc rằng sẽ mang đến cho Qúy Vị nhiều lợi lạc trong đời sống tâm linh của mình.

Viết xong lời giới thiệu nầy vào ngày 4 tháng 2 năm 2016 tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc.

Thích Như Điển,
Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover.

Saturday, November 24, 2018

HOA TRONG ĐÁ, LÁ MUÔN NGÀN


HOA TRONG ĐÁ, LÁ MUÔN NGÀN
   
1.
Phước Lâm chốn cũ Chùa thiêng
Tầm sư học đạo khắp miền Hội An
Hoa trong đá, lá muôn ngàn
Rời quê xứ Quảng
Lỡ làng tử sinh
Giới-Định-Tuệ Kim Quang Minh
Thoát vòng tục lụy hồi sinh Niết Bàn!

2. 
Thu Bồn lạnh bến đưa người
Mưa rơi đưa tiễn nụ cười lữ tăng 
Viên thành đạo nghiệp pháp đăng

3. 
Lưng trời Viên Giác tích xưa
Cây Đa chốn cũ hồn đưa nhau về

4.
Phù Tang mấy độ anh Đào
Có-không còn-mất thuở nào vỡ toang
Ai về vạt nắng chiều loang 
Tỉnh ra cũng đã huy hoàng rong rêu

5. Chở bốn tâm rộng lớn
Tặng người khắp trần gian

6. Buồn vui danh lợi không màn
Trầm luân khổ ải muôn ngàn độ sinh

7. Anh Đào như tuyết trắng rơi
Quanh ta cũng đã mấy thời chuông vang

8. Bảy mươi năm
Đông Tây đi hết
Hành vô hạnh hành 

9. 
Thanh lương hỡi ngọn gió Đông
Thuyền từ bến giác Tánh Không ngút ngàn
Tam vô lậu học thanh nhàn

10. 
Sông Leine nước chảy
Ai cũng đến và đi
Rỗng không bao nhiêu cõi 
Nắm tuyết lưu luyến gì 

11. 
Trăng sáng không phân biệt
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội 
Tâm rõ ràng thường biết

12. 
tác Như lai sứ, 
hành Như lai sự
kinh Điển Viên Giác 
luận Điển giác viên.

Tâm Thường Định

Friday, June 1, 2018

Đọc “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” Bản Dịch HT Thích Như Điển Nguyên Giác

Bìa sách - Htr. Quảng Pháp

Đọc “Thiền Lâm Tế Nhật Bản”
Bản Dịch HT Thích Như Điển
Nguyên Giác

Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
Tất cả góp ý của người điểm sách nơi đây chỉ để hy vọng làm sáng tỏ ý Thiền, tuy bản thân người điểm sách chỉ là một người học còn non kém và tu chưa sâu.
Đứng về mặt lịch sử, tác phẩm hiển nhiên là một thẩm quyền lớn.
Thứ nhất, vì, theo dịch giả, bản thân “ngài Matsubara Taidoo phải gom góp tài liệu trong bao nhiêu năm mới viết xong cuốn sách nầy, vì Ngài không đề cập trong tác phẩm. Nhưng chúng tôi chắc rằng kinh nghiệm cả một đời người mới viết được một trong những tác phẩm có giá trị như thế.”
Thứ nhì,  Hòa Thượng Thích Như Điển từng du học bên Nhật Bản, và là người rất cẩn trọng chữ nghĩa, thường dịch sát nghĩa, tuy rằng Hòa Thượng khiêm tốn giải thích rằng, trích:
“Tôi có thể đoan chắc rằng tôi dịch tác phẩm nầy của Ngài Matsubara đúng trên 80% ý chính của ông. Ngoại trừ một số chữ không nắm rõ ý chính, kính mong những vị giỏi tiếng Nhật có thể bổ khuyết cho chỗ dịch thiếu sót của chúng tôi...” (ngưng trích)
Nếu lên mạng dò tìm, chúng ta sẽ thấy ngài Matsubara Taido (viết một chữ o, có khi viết chữ o với dầu huyền ở trên) là tác giả nhiều sách về Thiền Nhật Bản. Hiển nhiên, có thêå suy đoán rằng ngài Matsubara có một thẩm quyền tham khảo đối với học giơi quôác tế về lĩnh vực riêng của Thiền Nhâät Bản..
Trong khi đó, trình độ tiếng Nhật của Hòa Thượng Thích Như Điển siêu xuất hơn người.
Bản thân Hòa Thượng giải thích trong Lời Nói Đầu:
“Tôi đến Nhật vào ngày 22 tháng 2 năm 1972 và rời Nhật ngày 22 tháng 4 năm 1977 để sang Đức. Trong hơn 5 năm trường đó, tôi học Nhật Ngữ tại trường Yotsuya khoảng 9 tháng, sau đó thi đỗ vào phân khoa Giáo Dục của Đại Học Teikyo ở Hachiojì, Tokyo. Sau khi tốt nghiệp Đại Học Teikyo, tôi đã thi đỗ vào Cao Học Phật Giáo tại Đại Học Risso. Trong hơn 5 năm ở Nhật, tôi có hơn 4 năm ở chùa Honryuji, tại Hachioji, Tokyo thuộc Tông phái Nhật Liên Tông. Trong thời gian ấy tôi có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với tiếng Nhật nhiều, trong đời sống hằng ngày như giao tiếp, làm việc, tụng kinh, cúng đám, cầu an, cầu siêu, đám ma, cưới hỏi. Ngay cả những tập tục khác của người Nhật, tôi cũng học làm quen. Để rồi từ đó tôi có một cái vốn ngữ vựng rất lớn và rất tự tin về khả năng Nhật ngữ của mình. Được diễm phúc như thế là nhờ sự chăm sóc và đùm bọc của Thầy Oikawa...”(ngưng trích)
Do vậy, kết luận rằng tác phẩm “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” có thẩm quyền như một  sử liệu. Tất cả các sự kiện, các nhân vật, các thăng trầm của Thiền Lâm Tế Nhật Bản đều có thể dựa vào sách này.
Tuy nhiên, có một điểm xin phép nêu lên, trong cách sử dụng chữ, có thể vì ngài Như Điển dịch quá sát nghĩa, có thể làm cho độc giả sơ học  bối rối.
Và cũng có thể vì ngài Như Điển đã rời Việt Nam quá lâu, nên sử dụng hai chữ Nam Truyền và Bắc Truyền để chỉ cho Thiền của Huệ Năng và Thần Tú.
Hai chữ Nam Truyền và Bắc Truyền  tại VN bây giờ cũng thường gọi là Nam Tông và Bắc Tông, chỉ cho hai khuynh hướng Theravada và Mahayana.
Trong khi có thể gọi kiểu Trung Hoa xưa “Nam Năng, Bắc Tú” bằng nhóm chữ Thiền sư Huệ Năng ở phương Nam và Thiền sư Thần Tú ở phương Bắc sẽ không làm nhầm lẫn.
HT Thích Như Điển viết trong sách này là, trích:
“...Thần Tú đắc Thiền với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn xiển dương Thiền Pháp ở miền Bắc Trung Hoa như Trường An và Lạc Dương. Dòng Thiền nầy của Thần Tú được gọi là Thiền Bắc Truyền hay Bắc Tông. Còn Huệ Năng, người đồng môn với Thần Tú, nhỏ hơn đến 30 tuổi, cũng đắc được yếu chỉ của Thiền Tông từ Tổ Hoằng Nhẫn nhưng đi về phía Nam để hoằng truyền Thiền Phái, nên Thiền của Huệ Năng được gọi là Thiền Nam Truyền hay Thiền Nam Tông....
Về sau, Thiền phái Bắc Truyền Thần Tú suy vi, phái Thiền Nam Truyền của Huệ Năng lại ngày càng phát triển mạnh mẽ. Theo một số khảo sát nghiên cứu cho biết dần dần những bậc nhân tài ở Thiền Pháp Bắc Truyền của Thần Tú trống vắng, ngược lại, phái Thiền Nam Truyền lại thích nghi được với con người và phong thổ...”(ngưng trích)
.
Sách “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara cũng dẫn ra bài kệ Thiền Tông:
Giáo ngoại biệt truyền,  
Bất lập văn tự,  
Trực chỉ nhân tâm,  
Kiến tánh thành Phật.
Và ghi rằng, trích:
“...Bất lập văn tự có thể là phương thức của Thiền để nói hiểu rõ về ngôn ngữ và văn tự. Song vấn đề chính yếu vẫn là ai ai cũng có tánh Phật, cũng có khả năng để thành Phật.” (ngưng trích)
Trong cương vị người đọc sách, xin nêu ý kiến rằng “bất lập văn tự” có lẽ không mang nội dung muốn làm “hiểu rõ về ngôn ngữ và văn tự.”
Ngắn gọn, “bất lập văn tự” là nêu lên ý ly nhất thiết tướng, xa lìa tất cả các tướng, lúc đó mới nắm được thực tướng vô tướng. Bởi vì văn tự là vin vào tướng mà dựng lập.
Đó là chỗ của tịch lặng...
Lấy thí dụ đơn giản, chư tổ nói rằng như người uống nước, ấm lạnh tự biết, không nói chi được. Tương tự, vị ngọt của nước mưa khác với vị ngọt của nước giếng, nước suối... Biết khác, mà không nói minh bạch được. Nơi đây, ngôn ngữ không thể nói gì được, huống gì là nói tới cảnh giới trí huệ bất khả nghĩ bàn.
.
Tới đây xin nói về con vịt trời.
Trong sách “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara kể chuyện, trích:
“...có câu chuyện Thiền, đối thoại giữa Mã Tổ Đạo Nhất với đệ tử Ngài là Tổ Bách Trượng; khi hai người đang đi trên đường.
Thấy con vịt trời hãi sợ bay lên, vì nghe tiếng động bước chân. Mã Tổ hỏi Bách Trượng:  
- “Cái gì vậy?”  
Bách Trượng trả lời:  
- “ Con vịt trời” Mã Tổ hỏi:  
- “Đâu rồi?”  Bách Trượng trả lời:  
- “Bay mất rồi”.
Trong khi Bách Trượng suy nghĩ để trả lời cho Thầy, không hiểu sao tự nhiên Ngài Mã Tổ bốp mũi Ngài Bách Trượng một cái. Ngài Bách Trượng la:  
- “Đau quá.”  
Ngay lập tức Mã Tổ hỏi  
- “Đã bay mất rồi, thì làm sao đau được.”
Ngài Bách Trượng thấy con vịt trời nhưng chẳng nghĩ mình là con vịt trời. Thế nhưng Ngài Mã Tổ, sư phụ của Ngài Bách Trượng đã nối kết con vịt trời với Ngài Bách Trượng như đồng nhất một tiêu điểm và chỉ rằng: “Vịt trời là Bách Trượng. Bách Trượng là vịt trời”...”(ngưng trích)

Như thế, ngài Matsubara kể lại khác với bản gốc trong Bách Trượng Ngữ Lục.
Bản Việt dịch của Thầy Thích Duy Lực từ Bách Trượng Ngữ Lục, trích như sau:
“...Một hôm sư theo hầu Mã Tổ, có một bầy vịt trời bay qua, Tổ nói:
"Là gì vậy?" - Sư nói: "Vịt trời". Tổ nói: "Đi đâu rồi?" - Sư nói: "Bay qua rồi". Tổ bèn quay lại nhéo mũi Sư một cái, Sư đau la thất thanh. Tổ nói: "Sao nói bay qua rồi!".
Sư ngay đó tỉnh ngộ, rồi liền trở về phòng thị giả khóc to thảm thiết....”(ngưng trích)

Trong Bích Nham Lục (Một Trăm Công Án Thiền Tông), bản Việt dịch của HT Thích Mãn Giác kể về Tắc Thứ 53, nhan đề “Con Vịt Trời của Mã Đaị Sư” -- trích như sau:
“THÙY: Khắp nơi không ẩn, toàn cơ độc lộ, gặp chuyện không vướng, luôn luôn có cơ duyên xuất thân. Trong câu vô tư, chỗ nào cũng có ý giết người. Song thử nói xem, rốt cuộc cổ nhân an nghỉ ở chỗ nào? Thử nêu lên xem.
CỬ: Một lần kia Mã Đại Sư tản bộ với Bách Trượng, thấy có bầy vịt trời bay qua. Mã Đại Sư hỏi, “Cái gì vậy?” Bách Trượng nói, “Vịt trời.” Mã Đại Sư nói, “Bay đi đâu vậy?” Bách Trượng nói, “Bay đi mất rồi.” Mã Đại Sư bèn bẹo mũi Bách Trượng. Bách Trượng đau quá kêu lên. Mã Đại Sư nói, “Đã từng bay đi đâu?” (ngưng trích)

Xin phép trình bày, trong Bích Nham Lục viết: “Đã từng bay đi đâu.” Và Bách Trượng Ngữ Lục viết: “Sao nói bay qua rồi!”
Như thế, không có ý nói “Vịt trời là Bách Trượng. Bách Trượng là vịt trời”...
Mà chỉ nói rằng, cái được thấy (con vịt trời bay rồi) nhưng cái thọ tưởng (mũi bị bóp đau, làm kêu lên) vẫn còn đó...
Chỉ vào con vịt trời và bóp mũi cho đau chính là “Trực chỉ nhân tâm.”
Có lẽ ý chư tổ là như thế.

Tương tự, nơi trang 123 sách “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara, bản dịch của Ngài Như Điển viết, trích:
“Tiếp theo “Triệu Châu Vô Tự” là một công án ghi rõ trong tác phẩm “Vô Môn Quan”của Trung Hoa, trong đó có viết về Hoà Thượng Triệu Châu tịch năm 897 một câu chuyện như thế nầy:
Có người học Thiền hỏi:  
- Bạch Ngài, con chó có Phật Tánh không?
Triệu Châu đáp:
- Không.
Chữ Không trở thành công án. Thông thường, không đối lại với có, bởi vì cả hai khái niệm không và có vẫn thuộc tương đối. Thật ra, chữ không ở đây không có nghĩa là không, cho nên không thể dùng lý luận để giải quyết công án được. Nếu dùng tri thức tương đối để nhận ra, thì phải dùng cái lực khác để phá vỡ nó đi.”(ngưng trích)
Ngài Matsubara viết về chữ Không như thế cực kỳ tuyệt vời. Vì như thế đúng với lời bình của ngài Vô Môn Huệ Khai (1183-1260), tác giả Vô Môn Quan, trong đó Tắc đầu tiên là “Con Chó Của Triệu Châu,”  trích (bản dịch Dương Đình Hỷ):
“Cử :
Một ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Con chó có Phật tánh không?
-Không!
.
Bình :
Tham thiền phải qua cửa tổ, diệu ngộ phải tuyệt đường tâm. Cửa tổ không qua, đường tâm chẳng dứt thì như tinh linh nương vào cây cỏ. Thử hỏi thế nào là cửa tổ? Chính là một chữ Không, gọi là Cửa không cửa của thiền vậy.”(ngưng trích)
.
Như vậy, xa lìa cả có và không là thế nào?
Thực ra, bất kỳ ai trì tụng Kinh Kim Cương đều có thể nhận ra rất đơn giản:
-- chỉ cần thay chữ “con chó” bằng chữ “chúng sinh tướng”...
-- và thay chữ “Phật Tánh” bằng chữ “Thực tướng Vô tướng” là tức khắc thế giới sáng rực trước mắt.
Lúc đó, tất cả các pháp đều rỗng rang vô tướng... Hễ còn vướng vào tướng nhân, tướng ngã, tướng chúng sinh... là cứ xoay vòng cõi này thôi.
Hễ lấy sắc tướng và âm thanh mà cầu Phật, dù là cầu Phật Tánh đều là tà đạo.
Đức Phật nói trong Kinh Kim Cương: nhược kiến chư tướng phi tứớng, tức kiến Như Lai. Nếu thấy các tướng không phải là tướng, tức là thấy Như Lai.
.
Câu hỏi rằng, Đức Phật có dạy công án không?
Xin trả lời: Đức Phật dạy công án, và dạy khó vô cùng tận.
Chư Tổ Trung Hoa và Việt Nam đưa các công án về đời thường, cầm gậy đưa ra, hay chỉ vào vịt trời, hay chỉ vào cây bách trước sân, hay chỉ vào bà già bán bánh, hay nói về con trâu còn kẹt cái đuôi nơi cửa sổ, hay chỉ vào con chó... đều là hình tượng hóa các công án của Đức Phật.
Đức Phật dạy công án khó thế nào? Khó tới mức rất trừu tượng, không còn thấy hình tướng gì nữa, vì đưa tất cả  hình tướng trở về vô tướng: Đức Phật chỉ vào tứ đại (đất nước gió lửa), vào ngũ uấn (sắc thọ tưởng hành thức) -- nghĩa là, những gì rất mực trừu tượng, không còn tướng mạo gì cả.
Và tất cả, đều chỉ vào thực tướng vô tướng, nơi đó là Không, là Vô Ngã... là thấy tướng mà không phải là tướng, mới đúng là thấy Như Lai.
Trong sách ngài Matsubara cũng tuyệt vời là khi kể truyện về ngài Bạch Ẩn Huệ Hạc, với bài “Toạ Thiền Hoà Tán” -- xin trích mấy câu tuyệt vời như sau:
“...30) Ngay nơi tự tánh chứng biết  
Tự tánh tức vô tánh  
Việc ấy rời hý luận  
Nhân quả nhất như đà mở cửa  
Chẳng hai chẳng ba mà thẳng lối  
(35) Âm thanh vô tướng vẫn là tướng  
Đến đi đều chẳng có  
Vô niệm chính là niệm  
Múa hát cũng đều là tiếng pháp  
Rộng mở tam muội Không và Vô ngại...”(ngưng trích)
.
Để nói ngắn gọn, tác phẩm  “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” có giá trị lớn về sử liệu, sẽ giúp người hậu học dò tìm các sự kiện, các diễn tiến và các nhân vật Thiền Lâm Tế Nhật Bản. Tác phẩm cần có trong các tủ sách về Phật giáo Nhật Bản và về Thiền Lâm Tế Nhật Bản.
Người điểm sách trân trọng cảm ơn tác giả Matsubara và dịch giả HT Thích Như Điển đã để lại một sử liệu giá trị.

Tìm mua sách này, xin vào Amazon.com và gõ chữ “thien lam te nhat ban”...