Saturday, January 25, 2020

200 Năm Nguyễn Du Qua Đời, Đọc ‘Phân Kinh Thạch Đài’

Ảnh: Internet

200 Năm Nguyễn Du Qua Đời,
Đọc ‘Phân Kinh Thạch Đài’

Huỳnh Kim Quang

Năm nay, 2020 đánh dấu 200 năm thi hào Nguyễn Du qua đời (1820-2020). Trang Từ Điển Bách Khoa www.newworldencyclopedia.org đã xếp thi hào Nguyễn Du ngang hàng với thi hào Homer của Hy Lạp và thi hào Shakespeare của Anh Quốc.
Hiện nay Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du đã được dịch sang ít nhất 20 thứ tiếng trên thế giới. Đặc biệt hầu như người Việt nào cũng đều biết đến Truyện Kiều và đều nằm lòng nhiều câu thơ trong Truyện Kiều. Học giả Phạm Quỳnh đã từng nói rằng “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn.” Điều đó đủ thấy tác phẩm Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du có tầm ảnh hưởng sâu rộng cỡ nào đối với nền văn học, văn hóa và thể mệnh của dân tộc Việt Nam. 
Nhân năm mới Canh Tý và đặc biệt tưởng niệm 200 năm thi hào Nguyễn Du qua đời xin đọc lại một bài thơ chữ Hán mà ông đã làm lúc đi chu du tại Trung Hoa vào khoảng những năm từ 1787 đến 1790 để chia sẻ một bài thơ mà trong đó thi hào Nguyễn Du biểu lộ không chỉ kiến thức mà cả sự chứng đắc Phật Pháp cao siêu của ông. Đó là bài “Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” [Đài Phân Kinh của Thái Tử Lương Chiêu Minh].
Thi hào Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tức ngày 3 tháng 1 năm 1766. Ông mất ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn, tức ngày 16 tháng 9 năm 1820, hưởng dương 54 tuổi.
Theo Tiến Sĩ Phạm Trọng Chánh trong bài viết “Nguyễn Du, Từ Thái Nguyên Sang Vân Nam Cuối Năm 1787,” được đăng trên trang mạng  www.chimvie3.free.fr,  từ năm 1787 đến 1790 Nguyễn Du hết bệnh quy y thành nhà sư Chí Hiên, hành trang bên mình là quyển Kinh Kim Cương chú giải của Lê Quý Đôn. Theo gương Lý Bạch đi chu du khắp Trung Quốc, Nguyễn Du lên Trường An và xuống Hàng Châu, ban ngày di ngao du thắng cảnh, tối trú ngụ một ngôi chùa, trên đường đi tụng kinh Kim Cương làm công quả kiếm ăn. Nguyễn Du đến Trường An (sáng tác Mạn Hứng I, II, Dương Phi Cố Lý, Bùi Tấn Công Mộ, Phân Kinh Thạch Đài) đến Hàng Châu, nơi hẹn với Nguyễn Đại Lang là miếu Nhạc Phi. Nguyễn Du trú ngụ tại chùa Hổ Pháo gần đó nơi Từ Hải từng tu hành, nơi đây Nguyễn Du nghe chuyện Từ Hải và có được quyển Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Nguyễn Du đọc say mê và quyết chí diễn ca thơ nôm. Nguyễn Du ở nơi này khá lâu nên viết 5 bài thơ (Nhạc Vũ Mục Mộ, Tượng Tần Cối I, II, Tượng Vương Thị I, II.). 
Tiến Sĩ Phạm Trọng Chánh cho chúng ta biết 2 điều lý thú. Thứ nhất, Nguyễn Du đã từng đi tu làm tu sĩ Phật Giáo với Đạo Hiệu Chí Hiên tại Trung Hoa, ít nhất 3 năm và luôn luôn mang theo Kinh Kim Cương bên mình để đọc. Có lẽ vì thế, trong bài thơ “Phân Kinh Thạch Đài,” Nguyễn Du nói là ông đã đọc Kinh Kim Cương cả ngàn lần. Thứ hai, Nguyễn Du đã sáng tác bài thơ “Phân Kinh Thạch Đài” vào những năm từ 1787 đến 1790 trong chuyến lãng du của ông ở Tàu. Bài thơ này nằm trong tập “Bắc Hành Thi Tập” của Nguyễn Du.
Về bài thơ Phân Kinh Thạch Đài, Tiến Sĩ Phạm Trọng Chánh trong bài “Nguyễn Du Qua Đình Tô Tần” được đăng trên trang www.vanhoanghean.com.vn cho biết rằng Nguyễn Du viết các bài Đình Tô Tần, và Phân Kinh Thạch Đài tại cựu kinh đô Lạc Dương năm 1789-1790. Khi đi sứ Nguyễn Du có đi ngang qua tỉnh Hà Nam, qua huyện An Dương, nhưng không đến Lạc Dương. Đình Tô Tần lập ở quê hương Tô Tần là Lạc Dương.  Lạc Dương có ngôi chùa Bạch Mã là chùa đầu tiên của Trung Quốc, lập năm 65 sau công nguyên, có lẽ Phân Kinh Thạch Đài nhà Tùy nằm nơi này. Tôi có đến Trường An năm 2009 tìm Phân Kinh Thạch Đài nơi chùa Đại Hồng Nhạn và Tiểu Hồng Nhạn, nơi Trần Huyền Trang dịch kinh nhưng không ai biết.
Theo các chú giải, Thái Tử Lương Chiêu Minh là con của Vua Lương Võ Đế (502-549) thời nhà Lương trong giai đoạn Nam Bắc Triều tại Trung Hoa. Vua Lương Võ Đế, theo truyền thuyết đã từng gặp Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma (đến TQ khoảng năm 520 sau tây lịch). Thái Tử Lương Chiêu Minh được cho là người học rộng và thích nghiên cứu. Ông là tác giả cuốn sách “Văn Tuyển.” 

梁昭明太子分經石臺 

梁朝昭明太子分經處,
石臺猶記分經字。
臺基蕪沒雨花中,
百草驚寒盡枯死。
不見遺經在何所,
往事空傳梁太子。
太子年少溺菸文,
強作解事徒紛紛。
佛本是空不著物,
何有乎經安用分。
靈文不在言語科,
孰為金剛為法華。
色空境界茫不悟,
癡心歸佛佛生魔。
一門父子多膠蔽,
一念之中魔自至。
山陵不涌蓮花臺,
白馬朝渡長江水。
楚林禍木池殃魚,
經卷燒灰臺亦圯。
空留無益萬千言,
後世愚僧徒聒耳。
吾聞世尊在靈山,
說法渡人如恆河沙數
人了此心人自渡,
靈山只在汝心頭。
明鏡亦臺,
菩提本無樹。
我讀金剛千遍零,
其中奧旨多不明。
及到分經石臺下,
終知無字是眞經。

Phiên âm Hán-Việt:

Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài

Lương triều Chiêu Minh thái tử phân kinh xứ,
Thạch đài do kí “Phân kinh” tự.
Đài cơ vu một vũ hoa trung,
Bách thảo kinh hàn tận khô tử.
Bất kiến di kinh tại hà sở?
Vãng sự không truyền Lương Thái tử.
Thái tử niên thiếu nịch ư văn,
Cưỡng tác giải sự đồ phân phân.
Phật bản thị không bất trước vật,
Hà hữu hồ kinh an dụng phân?
Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa,
Thục vi Kim Cương vi Pháp Hoa?
Sắc không cảnh giới mang bất ngộ,
Si tâm quy Phật Phật sinh ma.
Nhất môn phụ tử đa giao tế,
Nhất niệm chi trung ma tự chí.
Sơn lăng bất dũng liên hoa đài.
Bạch mã triêu độ Trường Giang thủy,
Sở lâm họa mộc trì ương ngư,
Kinh quyển thiêu hôi đài diệc dĩ.
Không lưu vô ích vạn thiên ngôn,
Hậu thế ngu tăng đồ quát nhĩ.
Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn,
Thuyết pháp độ nhân như Hằng Hà sa số.
Nhân liễu thử tâm nhân tự độ,
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.
Minh kính diệc phi đài,
Bồ Đề bản vô thụ.
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh,
Kì trung áo chỉ đa bất minh 
Cập đáo phân kinh thạch đài hạ,
Chung tri vô tự thị chân kinh.

***

Đài Đá Phân Kinh Của Thái Tử Lương Chiêu Minh

Nơi thái tử Chiêu Minh phân kinh,
Đài đá còn ghi chữ “phân kinh.”
Hoa dại trong mưa phủ nền hoang,
Trăm cây sợ lạnh mà chết khô.
Không thấy kinh xưa ở đâu cả?
Chỉ nghe huyền thoại thái tử Lương.
Thiếu thời thái tử thích văn chương,
Miễn cưỡng giải kinh cho lộn xộn.
Phật vốn là không chẳng vướng vật,
Còn có kinh gì để phân chia?
Văn thiêng không ở nơi ngôn ngữ,
Đâu là Kim Cương, là Pháp Hoa?
Cảnh giới sắc không mà chưa ngộ,
Tâm mê theo Phật Phật thành ma.
Một nhà cha con đều mù cả,
Ở trong một niệm ma tự đến.
Trong núi hoa sen không thể mọc,
Một sớm ngựa trắng vượt sông dài.
Rừng Sở cháy thiêu cá dưới ao,
Kinh đốt ra tro đài cũng sập.
Còn giữ làm chi muôn vạn lời,
Ngu tăng đời sau tụng lải nhải.
Ta nghe Thế Tôn ở Linh Sơn,
Nói pháp độ người vô số kể.
Ai rõ tâm này thì tự độ,
Linh Sơn ngay tại nơi tâm mình.
Gương sáng không có đài,
Bồ đề vốn không cây.
Ta đọc Kim Cương cả ngàn lần,
Trong chỗ uyên áo vẫn chưa hiểu.
Nay đến dưới đài đá phân kinh,
Mới biết chân kinh là vô tự.

Trong bài thơ này có câu, “Một sớm ngựa trắng vượt sông dài,” là nói đến tích truyện lúc Thái Tử Tất Đạt Đa trong đêm khuya vượt thành Ca Tỳ La Vệ vào núi tu hành. Ngựa trắng là con bạch mã mà Thái Tử cưỡi phóng qua dòng sông dài Anoma trong đêm Thái Tử đi tầm đạo.\
“Linh Sơn” là núi Linh Thứu, tiếng Pali là Gijjhakuta, tiếng Phạn là Gṛdhrakūṭa, dịch tiếng Anh là The Vulture Peak, tức là cái đầu của con kên kên, vì đỉnh ngọn núi này ở xa trông giống cái đầu của chim kên kên. Núi này nằm ở Thành Vương Xá (Rajagaha) ngày xưa lúc Đức Phật còn tại thế mà ngày nay là Rajgir thuộc tiểu bang Bihar của Ấn Độ. Nơi đây Đức Phật đã giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa hay gọi tắt là Kinh Pháp Hoa. Kinh này Đức Phật nói rõ tất cả chúng sinh đều có Phật tánh và có khả năng thành Phật.
“Gương sáng không có đài/Bồ đề vốn không cây,” là hai câu thi hào Nguyễn Du trích từ bài kệ ngộ đạo của Lục Tổ Huệ Năng: “Bồ đề bổn vô thọ/Minh kính diệc phi đài/Bổn lai vô nhất vật/Hà xứ nhã trần ai,” [Bồ đề vốn không cây/Gương sáng cũng không đài/Xưa nay không một vật/Bụi trần bám chỗ nào].
 “Phân Kinh Thạch Đài” là đài xây bằng đá để ghi lại dấu vết nơi đây ngày xưa Thái Tử Triều Nhà Lương là Chiêu Minh đã dùng nơi này để phân giải chú thích kinh Phật. Cho nên, trong nguyên tác chữ Hán của bài thơ, Nguyễn Du dùng chữ “cưỡng tác giải sự,” tức là cưỡng ép làm việc phân tích hay giảng giải kinh. Đây chính là trọng tâm phê phán của Nguyễn Du đối với cha con nhà họ Lương – Lương Võ Đế và Lương Chiêu Minh.
Thi hào Nguyễn Du đứng trên lập trường phá chấp của Kinh Kim Cương, hay nói cách khác là ông đã quán chiếu việc “phân kinh” của Thái Tử Chiêu Minh bằng trí tuệ liễu ngộ tánh không của các pháp mà đức Phật đã dạy trong Kinh Kim Cương. Kinh nói rằng:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điễn
Ưng tác như thị quán.
Đức Phật dạy rằng, “Hãy quán chiếu tất cả các pháp có tạo tác, hay pháp hữu vi, đều là không thật có như giấc mộng, như trò huyễn hóa, như bọt nước, như sương mai và như điện chớp.” Tất cả những thứ này vốn là không có, nhưng con người chấp là thật, nên bị chúng trói buộc trong vòng tử sinh khổ não.
Như thế tất cả các pháp rốt ráo đều không, kể cả kinh Phật, kể cả niết bàn. Cho nên trong Kinh Đại Bát Nhã, ngài Tu Bồ Đề nói với Trời Đế Thích đại ý rằng là nếu có pháp nào cao hơn niết bàn thì ngài cũng đều nói là Không. Vậy thì còn có pháp gì, có kinh nào để mà phân tích hay giảng giải? 
Đó chính là thâm ý cốt lõi của bài thơ “Phân Kinh Thạch Đài” của thi hào Nguyễn Du. Đây cũng chính là tông chỉ của Thiền. Cho nên, từ thời Lục Tổ Huệ Năng trở xuống Thiền Tông lấy Kinh Kim Cương làm gốc. Lục Tổ Huệ Năng cũng nhờ nghe Kinh Kim Cương mà ngộ đạo. Sau đó mới đến Hoàng Mai cầu pháp với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Bởi vậy, thi hào Nguyễn Du mới hỏi:
“Phật bản thị không bất trước vật
Hà hữu hồ kinh an dụng phân?
Phật vốn là không không dính vào bất cứ pháp gì cả. Thế thì còn có kinh nào để mà đem ra phân tích giảng giải?
Sở ngộ cao thâm của thi hào Nguyễn Du đối với Thiền nằm trong câu thơ này: “Nhất niệm chi trung ma tự chí,” có nghĩa là chỉ trong một niệm thì ma tự đến.
Niệm là ý niệm, ý tưởng, mống tâm. Tâm khởi lên là niệm. Đã có một niệm khởi lên thì ắt có muôn nghìn niệm khởi theo. Điều đó không có nghĩa là tu bằng cách làm cho tâm thành gỗ đá. Khởi niệm ở đây là móng tâm, phân biệt, vướng mắc.  Nguyễn Du nói “Phật bản thị không bất trước vật.” Tâm Phật, tâm giác ngộ vốn rỗng rang vô ngại không dính mắc vào đâu cả. Tâm không dính, không mắc, không vướng vào bất cứ pháp nào, cho dù đó là pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, là pháp tục đế hay chân đế. Tâm ấy là Phật. Tâm ấy là giác ngộ.  Tâm ấy là giải thoát.
Đọc Kinh Phật là để liễu ngộ tâm Phật, tâm giác ngộ chứ không phải để dính mắc, bám víu vào chữ nghĩa để rồi bỏ mất nghĩa lý siêu việt trong Kinh. Vì vậy mà thi hào Nguyễn Du nói “Chung tri vô tự thị chân kinh.” Cuối cùng rồi mới biết “vô tự” mới đích thị là chân kinh. “Vô tự” mà Nguyễn Du nói ở đây giống như “vô niệm” của Lục Tổ, tức là không dính mắc, không cố chấp vào văn tự của kinh, chứ không phải là kinh không có chữ.
Đọc Kinh Phật để mà giác ngộ Phật tâm rỗng rang tự tại chứ không phải để phân chấp. Thi hào Nguyễn Du muốn nhắn nhủ chúng ta như thế trong bài thơ  “Phân Kinh Thạch Đài” này.



Friday, January 24, 2020

NẠN DỊCH VÀ TẬP KHÍ ĂN UỐNG - CƠ HỘI QUÁN CHIẾU LẠI CHÍNH MÌNH

Wuhan virus map - Google Image


NẠN DỊCH VÀ TẬP KHÍ ĂN UỐNG

- CƠ HỘI QUÁN CHIẾU LẠI CHÍNH MÌNH



Hiện nay, cả thế giới đang lo sợ và đối phó với một loại vi khuẩn coronavirus, còn có tên là 2019-nCoV. (official name is Covid-19). Vi khuẩn coronavirus xuất phát từ Vũ Hán (Wuhan), Trung Quốc và tiếp tục lan rộng khắp châu Á và trên toàn thế giới. Ngay thời điểm của bài viết này, 30 Tết bên Mỹ, có 41 người Trung Hoa đã chết, và có hơn 900 người bị nhiễm vi khuẩn coronavirus tại Trung Hoa. Hàng chục triệu người ở Vũ Hán cấm di chuyển. Các điểm du lịch, Disneyland, McDonalds, Vạn Lý Trường Thành phải đóng cửa và ngay cả cửa hàng McDonald ở năm thành phố của Trung Hoa cũng đóng cửa, ngoài ra các nước láng giềng cũng đóng cửa khẩu trừ Việt Nam. Thêm vào đó, theo Asiatime, Reuters and CNN, có gần 25 trường hợp đã được xác nhận, ngoài Trung Quốc, bị nhiễm vi khuẩn chưa có cách trị liệu này, đó là: Thái Lan - 5, Singapore - 3, Đài Loan - 3, Hồng Kông - 2, Nam Hàn - 2, Nhật Bản - 2, Việt Nam - 2,  Hoa Kỳ - 2, Pháp -2, Úc -1 . Nguyên nhân chính do việc nhiễm dịch này là do thái độ ăn uống không lành mạnh của con người. Virus này bắt nguồn từ việc con người ăn thú vật (thịt động vật hoang dã) như rắn, dơi, v.v…



Cho nên chúng ta cần phải biết về những loại thức ăn lành mạnh nhằm giúp gia đình và xã hội. Mỗi con người đều có cả thân lẫn tâm. Thức ăn cho thân thể chỉ có một lối để vào, đó là lỗ miệng. Còn thức ăn cho tâm trí thì có đến 6 ngỏ để vào, đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý. Vì thế, chúng ta phải cẩn trọng và quán chiều mình đang cho thân và tâm ta ăn hay tiêu thụ những gì.


Theo nhà Phật, trong kinh Tạp A Hàm số 373, có 4 loại thức ăn mà Phật đã dạy cho hàng Tăng sĩ và đại chúng. Ngài dạy, “Có bốn loại thức ăn giúp các loài sinh vật lớn lên và sống còn. Bốn loại thức ăn đó là gì? Thứ nhất là đoàn thực, thứ hai là xúc thực, thứ ba là tư niệm thực và thứ tư là thức thực.”  Bài viết này chúng tôi chỉ nhấn mạnh vào loại thức ăn thứ nhất, bằng miệng, và những lợi ích liên quan mà thôi. Các loại thức ăn kia chúng tôi chỉ trình bày sơ lược và quý vị có thể tìm hiểu thêm.


Loại thức ăn thứ nhất là Đoàn Thực. Loại thức ăn ‘nắm' hay ‘vắt' đưa vào miệng.


Loại thức ăn thứ hai là Xúc Thực. Đó là những cảm xúc và cảm thọ mà khi chúng ta tiêu thụ qua sáu Căn tiếp xúc với sáu Trần, đó là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với hình ảnh, âm thanh, mùi vị, nhiệt độ, và nghĩ suy. Cảm thọ là những hỉ-nộ-ái-ố, mừng vui, giận dữ, thương yêu, thù ghét, sầu bi, khổ não, say đắm, v.v... 


Loại thức ăn thứ ba là Tư Niệm Thực: Thức ăn này còn được gọi là Ý Chí Thực, Ý Nguyện Thực hay Nguyện Thực, đó cũng chính là lý tưởng của Bồ Tát Hạnh và Bồ Tát Đạo vậy. 


Loại thức ăn thứ tư là Thức thực. Cũng theo Thầy Phước Tịnh, “Thức thực được ví như dòng nước chảy ngầm trong đời sống. Nó có năng lực duy trì thọ mạng và nghiệp thức trong hiện đời để di chuyển vào đời sau. Nếu nó xuất hiện trên bề mặt thì trở thành tư niệm thực; và nếu cạn hơn nữa thì là xúc thực. Niềm vui, nỗi buồn, cơn giận, nỗi bất an đều có nền là tâm thức sinh diệt. Tâm thức nầy là một dòng chảy miên man, chưa bao giờ ngừng nghĩ, nhưng các bậc minh triết sẽ cảm nhận được. Khổng Tử một lần đứng bên bờ sông đã buộc miệng nói rằng: “thệ giả như tư phù, bất xã trú dạ,” có nghĩa là “chảy mãi như thế nầy chưa dừng ngày đêm.” Ông không phải chỉ nói dòng sông trôi chảy, mà còn ám chỉ dòng chảy bên trong ta.”
Nói chung thức ăn nào cũng có khả năng nuôi dưỡng hay tàn hại thân thể và tâm hồn chúng ta.  (Xin đọc thêm Kinh Bốn Loại Thức Ăn của Làng Mai phía dưới.)


Trở lại loại thức ăn thứ nhất: Đoàn thực.  Theo Thầy Thích Phước Tịnh, “Trong từ Hán Việt, “đoàn” có nghĩa là “vắt” hay “nắm,” như người mình thường nói là nắm cơm hay vắt cơm, vì nó khởi nguồn từ văn hóa dùng tay viên thức ăn đưa vào miệng của người Ấn Độ ngày xưa. “Thực” có nghĩa là ăn. Hiểu theo nghĩa rộng, đoàn thực là loại thức ăn ở thể đặc hay thể lỏng, được đưa vào miệng. Nếu có chánh kiến, khi đưa thức ăn, thức uống vào miệng, ta biết nó bổ dưỡng hay tàn phá thân thể. Thức ăn cầu kỳ thì dễ mất đi dưỡng chất, lại làm cực công người nấu nướng. Có những thức ăn, mà sau khi thọ dụng, sẽ làm cho thân thể ta trì nặng, uể oải, tâm không còn tỉnh táo để thiền tập. Nếu có chút công phu thực tập, ta có thể chiêm nghiệm được điều nầy.”


Tất cả thức ăn đưa vào miệng có thể là dinh dưỡng cho thân thể ta, nhưng cũng có thể là tàn hại ta. Mỗi ngày trung bình, thân thể con người chỉ cần 2000 calories (hàm lượng calo), và khi chúng ta dùng nhiều hơn số lượng calories đó, chúng ta sẽ bị mập phì và dễ đưa đến những bệnh khác. Chúng ta nên tiêu thụ những thực phẩm có lợi cho sức khoẻ của chúng ta. Và nếu được, thì nên dùng thực phẩm mà tôn trọng sự sống của các loài động vật. Những ai có ý thức, có chánh niệm, thường dùng việc ăn uống như là phương tiện để làm việc lợi cho thân tâm, có lợi cho mình và lợi người, ngay hiện tại và cho cả tương lai. Họ dùng thực phẩm là phương tiện để phát tâm từ bi đến với mọi loại, nên không có giết chết sự sống của các loại động vật. 


Nhà Phật, gọi đó là ăn chay, ăn lạc hay trai giới. Ăn chay là một lối sống giản dị, ăn uống có chừng mực, chỉ gồm những thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật như rau củ, hạt, trái cây... Không ăn những thực phẩm có nguồn gốc từ động vật như thịt, cá, cua, v…


Ăn Chay có rất nhiều lợi ích. Nó rất tốt cho sức khỏe. Theo các nhà khoa học, ăn chay giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường. Khi ăn nhiều rau, hoa, củ quả, chúng cung cấp một lượng lớn chất xơ, sắt và nhiều chất dinh dưỡng khác giúp máu lưu thông, tốt cho tim và động mạch. Những nghiên cứu khác, bảo rằng: “Ăn chay có thể làm chậm sự thay đổi của các tế báo ung thư.” vì các món ăn chay giàu chất xơ, chất oxy hóa và ít chất béo (fatty acid). 


Ăn chay còn là phương tiện để cứu vớt địa cầu. Biến đổi khí hậu và hâm nóng địa cầu đang xảy ra và đang phá huỷ địa cầu. Việc ăn chay, không ăn thịt, làm chậm lại số lượng khí độc gây hiệu ứng nhà kính (greenhouse gases) như methane, carbon dioxide, v.v… Theo Medical Daily, chuyển từ ăn mặn sang ăn chay sẽ giúp giảm các loại khí độc từ 63-70% phóng thải ra môi trường. Ở các nước Nam Mỹ, như Brazil, họ phải phá rừng để có đất để nuôi bò, v.v… Ăn chay cũng góp phần bảo vệ chiếc phổi xanh của thế giới. 

Cuối cùng, theo quan điểm nhà Phật, ăn chay tạo phước lành cho chúng sinh, cho mình và cho gia đình. Ăn chay là một thái độ, hành động sống với lòng từ bi sẵn có ở trong mình. Ăn chay là một phương tiện để giúp chúng ta đến với Chân-Thiện-Mỹ, đến gần với cái hay cái đẹp và ngày càng đến gần bờ giác.

Vậy ăn chay như thế nào cho phải lẽ? Đừng nên ăn thịt, cá hay các loại động khác. Chúng cũng tham sống và sợ chết như ta. Nhất là không ăn những động vật “lạ" như dơi, rắn, khỉ, bò cạp, v.v… mà có thể hại đến nhiều người như thảm họa coronavirus hiện nay. Nên ăn rau quả, đậu hũ, và những thức có chất đạm, dinh dưỡng cho thân. Chúng ta có thể ăn chay 2, 4, 8, hay 10 ngày trong một tháng. Hoặc là chọn ăn chay một ngày trong tuần, chẳng hạn như ngày thứ 4 mỗi tuần, hay Meatless Monday, ngày không ăn thịt. Nếu bất tiện, có thể ăn chay bán phần. Chọn một buổi ăn chay và một buổi ăn mặt trong ngày, ví dụ: Chiều chay, trưa mặn. Còn nếu giỏi hơn thì có thể ăn chay trường, ăn chay mỗi ngày thì càng tốt. 

Trở lại nạn dịch hiện nay, đây là một cơ hội tốt để chúng ta quán chiếu và nhìn lại tập khí ăn uống của chúng ta. Nếu bạn muốn có một cuộc sống an vui, lợi ích cho  sức khỏe mà còn mang lại hạnh phúc cho mình và những người thân yêu, thì ăn chay có thể là giải pháp. 

Chúng tôi cũng đã phát nguyện ăn chay từ đầu năm Dương lịch cho đến tháng Tư vì muốn giữ thân khẩu ý thanh tịnh để góp phần cho một công trình Giác Hoàng Trần Nhân Tông thành tựu viên mãn. Chỉ mới gần một tháng thôi, mà chúng tôi cảm thấy thân thể vẫn khỏe mạnh, nhẹ nhàng và giảm được vài pounds. Vậy, xin được trân trọng kính mời quý độc giả và các bạn thử ăn chay vài tháng xem sao. 

Nhân dịp năm mới, chúng tôi cũng cầu chúc cho tất quý vị và gia quyến một năm mới vui vẻ, hạnh phúc, thành tựu, an khang, thịnh vượng và thảnh thơi trong cuộc sống. 


Tâm Thường Định
Sacramento, ngày 24 tháng 1, 2020.

 

Kinh Bốn Loại Thức Ăn

Ðây là những điều tôi đã được nghe vào một thời mà Bụt còn đang ở tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc gần thành Xá Vệ. Hôm ấy, Bụt bảo các thầy khất sĩ: “Có bốn loại thức ăn giúp các loài sinh vật lớn lên và sống còn. Bốn loại thức ăn ấy là gì? Thứ nhất là đoàn thực, thứ hai là xúc thực, thứ ba là ý tư thực và thứ tư là thức thực.
“Này các vị khất sĩ! Vị khất sĩ phải quán chiếu về đoàn thực như thế nào? Ví dụ có một cặp vợ chồng kia có một đứa con trai nhỏ, thường chăm sóc nuôi dưỡng nó với rất nhiều thương yêu, một hôm muốn đem con (đến xứ khác sanh sống) đi qua một vùng sa mạc đầy nguy hiểm và tai nạn. Giữa đường hết lương thực, sa vào tình trạng đói khát cùng cực, không có cách nào giải quyết, họ mới bàn với nhau: “Chúng ta chỉ có một đứa con mà chúng ta thương yêu hết mực. Nếu ăn thịt nó thì ta sẽ sống sót và vượt qua khỏi cơn hiểm nạn này, còn nếu không thì cả ba người sẽ cùng chết”. Bàn tánh như vậy xong, họ giết đứa con, xót thương rơi lệ và gắng gượng ăn thịt con để sống còn mà vượt qua miền sa mạc.
“Này các thầy, các thầy có nghĩ rằng cặp vợ chồng kia ăn thịt con vì muốn thưởng thức hương vị của thịt ấy hoặc vì muốn cho thân thể họ có nhiều chất bổ dưỡng mà trở thành xinh đẹp thêm?
“Các thầy khất sĩ đáp: “Bạch đức Thế Tôn, không”. Bụt lại hỏi: “Có phải cặp vợ chồng ấy bị bắt buộc ăn thịt con để có thể sống sót mà vượt qua khỏi chặng đường hiểm nguy và hoang vắng?” Các thầy khất sĩ đáp: “Bạch đức Thế Tôn, đúng như vậy.”
Bụt dạy: “Này các thầy, mỗi khi tiếp nhận đoàn thực, ta phải tập quán chiếu như thế. Quán chiếu như thế thì sẽ đạt tới được cái thấy và cái hiểu rạch ròi (đoạn tri) về đoàn thực. Có được cái thấy và cái hiểu rạch ròi như thế về đoàn thực rồi thì tâm vướng mắc vào ái dục sẽ được tiêu tán. Tâm vướng mắc đã được tiêu tán thì không còn một kiết sử nào về năm đối tượng ái dục mà không tiêu tán trong con người của vị thánh đệ tử có tu có học. Còn kết sử trói buộc thì mới còn phải trở lại trong cõi đời này.
“Này các thầy khất sĩ! Vị khất sĩ phải quán chiếu về xúc thực như thế nào? Ví dụ có một con bò bị lột da và đi đâu con bò ấy cũng bị các loài côn trùng sống trong đất cát, bụi bặm và cây cỏ bám vào và rúc rỉa. Nằm trên đất thì nó bị các loài côn trùng ở đất bám vào mà ăn, đi xuống dưới nước thì nó bị các loài côn trùng ở dưới nước bám vào mà ăn, đứng ở trong không nó cũng bị các loài côn trùng trong hư không bám vào mà ăn, nằm xuống hay đứng lên nó cũng cảm thấy bức xúc, đau đớn nơi thân thể. Này các thầy, khi tiếp nhận xúc thực, ta cũng phải thực tập quán chiếu như thế. Quán chiếu như thế thì sẽ đạt tới cái thấy và cái hiểu rạch ròi như thế về xúc thực. Có được cái thấy và cái hiểu rạch ròi như thế về xúc thực rồi thì ta hết còn bị vướng mắc vào ba loại cảm thọ. Không còn bị vướng mắc vào ba loại cảm thọ thì các vị thánh đệ tử có học có tu đâu còn phải dụng công gì nữa, bởi vì tất cả những gì cần làm đã được làm xong.
“Này các thầy khất sĩ! Vị khất sĩ phải quán chiếu về ý tư thực như thế nào? Ví dụ có một đô thị hay một thôn làng gần bên bốc cháy, cháy cho đến khi không còn thấy khói lửa. Lúc bấy giờ có một trang sĩ phu thông minh, có trí tuệ, không muốn đi về phía khổ đau chỉ muốn đi về phía an lạc, không muốn đi về nẻo chết, chỉ muốn hướng về nẻo sống. Người ấy nghĩ rằng: nơi chốn kia có cháy lớn, tuy không còn khói, không còn ngọn lửa nhưng nếu ta không tránh mà lại đi vào trong chốn ấy thì chắc chắn sẽ chết, không còn nghi ngờ gì nữa. Suy tư như thế, người kia quyết định bỏ đô thị hoặc thôn làng ấy mà đi. Về ý tư thực, vị khất sĩ cũng phải quán chiếu như thế. Quán chiếu như thế thì sẽ đạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi như thế về ý tư thực. Ðạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi như thế về ý tư thực rồi thì ba loại tham ái sẽ được đoạn trừ. Ba loại tham ái đoạn trừ rồi thì vị thánh đệ tử có tu có học kia đâu còn phải lao tác gì nữa, vì cái gì cần làm đã được làm xong.
“Này các thầy khất sĩ! Vị khất sĩ quán chiếu về thức thực như thế nào? Ví dụ quân lính canh tuần của vị quốc vương kia vừa bắt được một tên đạo tặc, trói người ấy lại và điệu tới nơi vua. Vì tội trộm cướp, kẻ đạo tặc bị phạt bằng cách để cho người ta đâm qua thân hình mình ba trăm mũi giáo, đau đớn khổ sở suốt cả đêm ngày. Về thức thực vị khất sĩ cũng phải quán chiếu như thế. Quán chiếu như thế thì sẽ đạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi về thức thực. Ðạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi về thức thực rồi thì cũng sẽ đạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi về danh sắc. Ðạt được cái thấy và cái hiểu rạch ròi về danh sắc rồi thì vị thánh đệ tử có tu có học kia đâu còn phải dụng công gì nữa, vì cái gì cần làm đã được làm xong.”
Bụt nói kinh này xong, các vị khất sĩ đều hoan hỷ phụng hành.
Tham Khảo: 
  1. What we know so far about Wuhan Virus Outbreak, https://www.cnn.com/asia/live-news/coronavirus-outbreak-hnk-intl-01-25-20/index.html

  1. “Cõi Phật Hương Tích,” Kinh Duy Ma Cật của Thầy Thích Phước Tịnh. (Tinh Tấn Magazine số 2) https://thuvienhoasen.org/a31091/bon-loai-thuc-an

Thursday, January 23, 2020

CUỐI NĂM ĐỌC NHỮNG NGÀY XUÂN HOANG VU CỦA NGUYỄN ĐỨC SƠN

Nhà thơ Tuệ Sỹ và nhà thơ Nguyễn Đức Sơn. Ảnh: Internet.


CUỐI NĂM ĐỌC NHỮNG NGÀY XUÂN HOANG VU CỦA NGUYỄN ĐỨC SƠN
(Tặng NS. Tuấn Khanh, Phe X. Bạch và Quang Vũ.
Để nhớ lại ngày cuối năm Dương lịch gặp nhau ở
phố núi có nhiều hoa dã quỳ vàng)
(TPA)
I.
Đối với tôi, cái hấp dẫn nhất trong thế giới thơ văn của Nguyễn Đức Sơn, có lẽ là cái hình ảnh bất lực của chính ông một mình lầm lũi bước đi tìm kiếm một cái gì chưa có tên gọi trên cuộc đời này.
Trong bài thơ có tên là Một mình đi luồn vô luồn ra trong núi chơi, Nguyễn Đức Sơn đã tự mô tả lại cuộc đi tìm kiếm của ông như thế này:
Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi
Cuối chiều tà chỉ gặp bãi hoang sơ
Bước lũi thủi tôi đi luồn vô núi
Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô
Chân rục rã tôi đi luồn ra núi
Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô.
Theo tôi, đây là bài thơ lạ lùng và độc đáo nhất mà Nguyễn Đức Sơn đã cống hiến cho thi ca Việt Nam ở hậu bán thế kỷ XX.
Nhưng Nguyễn Đức Sơn đi tìm kiếm cái gì trên cuộc đời này?
Trong truyện ngắn Những ngày xuân hoang vu ông đã tự thú về chính mình: “Tôi chỉ là một người với cái bản chất sâu xa của nó là bất lực: bất lực trong cái giới hạn quá ngắn của kiếp người và hoàn toàn bất lực trước cái vô cùng”.
Vậy là Nguyễn Đức Sơn cũng như bao nhiêu nghệ sĩ tài hoa khác cũng đều khát khao đi tìm kiếm cái vô cùng (infinite) trên cuộc đời hữu hạn này.
Nhưng cái vô cùng ấy nó ở đâu mà ông đi tìm?
Cũng trong truyện ngắn Những ngày xuân hoang vu Nguyễn Đức Sơn đã kể lại, khi còn là cậu học trò ở quê nhà Ninh Chữ (Phan Rang) ông đã trốn gia đình, trốn học đi theo một người thuyền chài ra tận những hòn đảo xa. Khi đêm buông xuống, ngồi một mình trên mõm đá giữa đại dương mênh mông, ông kể lại trong truyện: “Trong hồn tôi lúc ấy, tôi như nghe thấy một tiếng nói rất nhỏ vọng lên xa xôi. Tôi lạnh toát mồ hôi và khi cố gắng để nghe lại thì tiếng nói kia đã trở về cái im lặng muôn năm của biển ngàn”. Và cái giây phút ngắn ngủi ấy chắc chắn đã làm thay đổi cuộc đời của ông: “Có lẽ đây là lần đầu tiên tôi cảm nhận được cái mênh mông của vũ trụ và những bóng dạ hành lẽ loi ngàn đời nối tiếp nhau đi về vô định”.
Giây phút ấy phải chăng là giây phút mà ông đã bước đến cánh cửa vô cùng?
Từ thuở nghe được tiếng gọi thì thầm giữa đại dương mênh mông ấy thì tiếng thơ của Nguyễn Đức Sơn có cái gì đó như luyến tiếc, như muốn níu kéo lại cái gì vừa mất đi:
Thôi nhé ngàn năm em đi qua
Hồn tôi cô tịch bóng trăng tà
Trời sinh ra để chiều hôm đó
Tôi thấy mây rừng bay rất xa.
Dường như những người từ thế giới vắng lặng trở về họ đều cảm thấy bất lực trước đời sống quá nhàm chán quá vô nghĩa của kiếp người. Trong truyện ngắn có tên là Người tù chung thân Nguyễn Đức Sơn đã phải kêu lên một cách thống thiết: “Vậy mà chán ơi, nhân loại vẫn tồn tại. Giữa hai khoảng thời gian nhỏ mở mắt và nhắm mắt của một ngày, rồi giữa hai khoảng thời gian lớn mở mắt lần đầu tiên và nhắm mắt vĩnh viễn, con người cũng phải làm việc đó. Mặt đất ơi sao mà chán mênh mông vậy? ”.
Nhưng cuối cùng, Nguyễn Đức Sơn có đầu hàng trước cái bất lực quá lớn ấy không? Đây là câu trả lời của chính ông:
“Đừng hòng, vì hãy nhận lấy điều này: tất cả những thiên tài, những triết gia tăm tiếng đã đi qua trên mặt địa cầu này đều bất lực cả. Một nhà văn càng thiên tài bao nhiêu thì càng biểu hiện cái bất lực khủng khiếp của con người bấy nhiêu. Vậy thì cái gì đã níu kéo tôi ở lại trên cuộc đời này? Đó là những giờ phút dù ngắn ngủi nhưng đã tinh ranh khôn khéo đem gieo rắt giữa cuộc đời, những giờ phút làm cho người ta yêu đời tha thiết. Vậy thì tại sao không tìm cách duy trì chúng, đào xới, vun bón cho chúng sinh sôi nảy nở”.
Và đây có phải là những giây phút đã làm cho Nguyễn Đức Sơn “yêu đời tha thiết” và ông muốn làm cho nó sinh sôi nảy nở giữa một thế giới ồn ào và huyên náo này chăng?
Mang mang trời đất tôi đi
Rừng im suối lạnh thiếu gì tịch liêu
Tôi về lắng cả buổi chiều
Nghe chim ăn trái rụng đều như kinh.
II
Nguyễn Đức Sơn vốn hoài nghi về nền văn minh hiện đại của nhân loại, vì nền văn minh ấy không giải quyết được chuyện trọng đại là cái chết của con người trên mặt đất này. Đó là chưa nói nền văn minh hiện đại theo cách nhìn của một thi nhân như ông thì nó đã tàn phá mọi sự thơ mộng của vũ trụ mênh mông này:
Chúng ta giờ ước mong gì
Văn minh gửi cát bụi về mai sau.
Cho nên chúng ta thấy trong toàn bộ sáng tác thơ văn của Nguyễn Đức Sơn, ông chỉ lui tới những nơi mà ở đó rất ít dấu vết của nền văn minh hiện đại. Trong truyện ngắn Những ngày xuân hoang vu ông đã lấy thị trấn Đương Dương (Dran). Một thị trấn mà vào thời trai trẻ ông đã tả lại trong truyện: “loanh quanh chỉ có đôi hiệu tạp hóa kèm theo một ít sách báo rẻ tiền và một trường tiểu học buồn thiu”. Nhưng cái đặc biệt của thị trấn Đương Dương là “vây quanh bởi rừng thông trùng điệp” và nhất là “rừng cao và đầy gió hú”.
Trước năm 1975, mỗi lần từ Nha Trang đi Đà Lạt thì phải đi vào Phan Rang. Khi xe bắt đầu lên đèo Ngoạn Mục thì lúc nào tôi cũng nhìn lên đám mây mù bao phủ dày đặc cái thị trấn heo hút này, và rồi nhớ đến bài thơ của Nguyễn Đức Sơn có tên là Dran:
Xe qua khỏi dốc ưu phiền
Tóc em bay heó cả miền khói sương
Tương lai mối đụn bên đường
Anh nghe nắng rụng vô thường dưới khe.
Nguyễn Đức Sơn say mê rừng thông ngút ngàn và mây mù thị trấn này đến độ: “Tôi thường mơ ước đứa con gái bạc phước nào bằng lòng đi theo tôi trong cái băng giá mênh mông này phải có khung cảnh sống như My. Lớn lên nơi khu rừng cao có nhiều thác, nhiều suối xa hẳn cái phồn tạp lao xao vô nghĩa. Thân thể và tâm hồn đã được sương mù, gió hú, âm khí ngàn năm thấm nhuần”.
Và Nguyễn Đức Sơn đã lựa chọn một chiều có thể nói là thơ mộng nhất, âm u nhất, lê thê nhất để đến thị trấn Đương Dương heo hút, buồn thiu này: “Tôi đáp chuyến tàu hai mươi tháng chạp lên cao nguyên. Tôi muốn mang cái hoang vắng trùng trùng của đời tôi nhập vào cái trống trơn mênh mông của đời My”. Và rồi họ đã rời ga nhỏ ở miền rừng núi vào “một chiều sẫm tối, sương mù và khói đá bay bít trời”.
Những mùa xuân vốn đã hoang vu đối với những tâm hồn dị thường như tâm hồn của Nguyễn Đức Sơn. Nhưng dường như ông càng muốn đẩy cái hoang vu đó đến cùng khi ông kết thúc câu truyện Những ngày xuân hoang vu khi mùa xuân vừa mới bắt đầu: “chuyến tàu mù sương sáng mùng một Tết mang tôi về lại miền biển dưới kia. Sau khi tôi viết bức thư ngắn ngủi bỏ vào trạm thư gần đó “My ơi, My ơi! Phải chăng trước mặt chúng ta cũng chỉ là mây trắng và hoang vu trùng trùng điệp điệp, My ơi, My ơi!”
Đọc bài thơ sau đây tôi cứ tưởng tượng rằng, chắc là mười hay hai mười năm sau đó thế nào ông cũng tìm về thăm lại cái thị trấn buồn hiu hắt này, nên ông mới viết được bốn câu thơ vừa thơ mộng, vừa buồn mênh mông:
Ngàn năm thông vẫn rạt rào
Chiều nay trở lại lủng sầu xa xưa.
Tóc em xuống nhẹ vai đời
Ghé thăm hạnh phúc rồi tôi độc hành. 
III
Vào khoảng năm 1972 hay 1973 gì đó, nghĩa là cách đây gần nữa thế kỷ. Tôi tìm đến thăm Nguyễn Đức Sơn tại một ngôi chùa ở quân Gò Vấp Sài Gòn. Tôi nhớ ông đã say sưa thuyết giảng cho tôi nghe về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, và các chủ nghĩa này học thuyếtnọ mà ông hy vọng sẽ đem đến điều tốt lành cho dân tộc đã quá đau khổ này.
Nhưng sau năm 1975, tôi lại được tin ông đã từ bỏ Bình Dương, từ bỏ Sài Gòn để về ẩn cư trên rừng núi Đại Ngàn ở Bảo Lộc, và cũng trong khoảng thời gian đó tôi cũng đọc được bài thơ của ông khi ông trở về núi:
Sướng quá đời ta sắp tuổi già
Bao nhiêu học thuyết bước đều qua.
Nay về dắt bóng chơi am vắng
Thơ ấu vườn trăng một tiếng gà.
Vậy là Nguyễn Đức Sơn đã bỏ lại sau lưng những học thuyết mà một thời tuổi trẻ ông đã say mê. Đối với ông, cái duy nhất còn đọng lại trong hồn ông bấy giờ là tiếng gà gáy trong những đêm trăng của thời thơ ấu đã xa xôi mà ông đã lắng nghe được trong những đêm khuya tĩnh mịch ngồi nhìn chiếc bóng của mình in trên vách Phương Bối Am nơi núi rừng đại ngàn Bảo Lộc.
Nha Trang, Cuối năm Kỷ Hợi
Thích Phước An (2019)