Friday, January 29, 2021

SÁCH - Luận án Tiến sĩ & Thạc sĩ Phật học

https://budsas.net/uni/index.htm

 

SÁCH - Luận án Tiến sĩ & Thạc sĩ Phật học

(bổ sung thêm, tổng cộng 34 bản luận án )
- update 19/01/2021 - chia sẻ bởi anh Binh Anson
A. LUẬN ÁN TIẾN SĨ:
1) Bhikkhu Dhammajoti. The Chinese Version of Dharmapada. Ph.D Thesis, Colombo (1995)
(Bản Hán văn kinh Pháp Cú)
2) Bhikkhuni Gioi Huong. Bodhisattva and Sunyata in the Early and Developed Buddhist Traditions. Ph.D Thesis, Delhi (2006)
(Bồ-tát và Tánh Không trong Kinh Tạng Pali và Đại Thừa)
3) Pham Thi Minh Hoa (Bhikkhuni Dhammanandā). The Connection Between Atta and Dukkha - Buddhist Analysis of Human Experience and The Ways to Transcend Unsatisfactoriness. Ph.D Thesis, Colombo (2007)
(Sự liên quan giữa Ngã và Khổ - Phân tích Phật giáo về kinh nghiệm con người và các phương cách để vượt qua sự bất toại nguyện)
4) Bhikkhu Indacanda. Vinaya Studies: Problems in Translation and Interpretation Related to the Vinayapiṭakapāḷi. Ph.D Thesis, Colombo (2008)
(Nghiên cứu Giới Luật: Các vấn đề phiên dịch và diễn dịch liên quan đến tạng Luật Pāli)
5) Ho Quang Khanh (Bhikkhu Giac Hanh). A Critical Study of the Social Dimension of the Causes and Conditions that influenced the Origin of the Buddhist Vinaya. Ph.D Thesis, Colombo (2008)
(Nghiên cứu về Chiều hướng Xã hội của các Nguyên nhân và Điều kiện có ảnh hưởng đến Nguồn gốc Giới luật Phật giáo)
6) Ya-Chun Hung (Bhikkhunī Syinchen). Issues in Samatha And Vipasyanā: A Comparative Study Of Buddhist Meditation (2010)
(Các vấn đề trong Thiền Quán và Thiền Chỉ: Nghiên cứu so sánh về Pháp Thiền Phật Giáo)
7) Tzungkuen Wen. A Study of Sukkhavipassaka in Pāli Buddhism (2009)
(Nghiên cứu về Thuần Minh Quán trong Phật giáo Nguyên thuỷ)
😎 Phramonchai Saitanaporn. Buddhist Deliverance: A Re-Evaluation of the Relationship between Samatha and Vipassana (2008)
(Giải thoát Phật giáo: Tái Thẩm định sự Liên hệ giữa Thiền Chỉ và Thiền Quán)
9) Chanida Jantrasrisalai. Early Buddhist Dhammakaya: Its Philosophical and Soteriological Significance (2008)
(Pháp thân trong Phật giáo Sơ kỳ: Tầm Quan trọng về Triết học và Thần học)
10) Thich Thien Chau. The Literature of the Personalists of Early Buddhism. PhD Thesis, Sorbonne (1977)
(Văn học của các nhà Nhân thể luận trong Phật giáo Sơ kỳ)
(11) Bhikkhu Thich Minh Thanh. The Mind in Early Buddhism. Ph.D Thesis, New Delhi (2001)
(Tâm trong Phật giáo Sơ kỳ)
(12) Bhikkhu Thich Nghiem Quang. Dissent and Protest in the Ancient Indian Buddhism. Ph.D Thesis, New Delhi (2004)
(Bất mãn và Chống đối trong Đạo Phật thời Ấn Độ cổ xưa)
13) Ng, Edwin. Buddhism, Cultural Studies, A Profession of Faith. PhD Thesis (2013)
(Phật giáo và các nghiên cứu văn hóa - Tuyên xưng về đức tin)
14) Palmo, K. S. Gender and the Soteriology Debate in Buddhism. PhD Thesis (2013)
(Tranh luận về giới tính và thần học trong PG)
15) Sciberras, Colette. Buddhist Philosophy and the Ideals of Environmentalism. PhD Thesis (2010)
(Triết học PG và các lý tưởng về môi trường)
16) Hoang Trong So (Thich Nguyen Tam) - Contemporary Buddhism In Vietnam - A focus on Hue Area. Ph.D Thesis, Aichi Gakuin University (2000)
(Phật giáo đương đại ở Việt Nam - Trọng tâm vào khu vực Huế)
*
B. LUẬN ÁN TIẾN SĨ XUẤT BẢN THÀNH SÁCH:
1) Steven Collins. Selfless Person (1982)
(Con người vô ngã)
2) Rupert Gethin. The Buddhist Path to Awakening (2001)
(Con đường Phật giáo đưa đến giác ngộ)
3) Bhikkhu Analayo. Satipatthana: The Direct Path to Realization (2004).
(Niệm xứ: Con đường thẳng tiến đến chứng ngộ)
4) Choong Mun-Keat. Fundamental Teachings of Early Buddhism (2000)
(Những lời dạy nền tảng của Phật giáo Sơ kỳ)
5) Alexander Wynne. The Origin of Buddhist Meditation (2007)
(Nguồn gốc Thiền Phật giáo)
6) Collett Cox. Disputed Dharmas - Early Buddhist Theories on Existence (1995)
(Các pháp tranh luận – Các lý thuyết của PG Sơ kỳ về Hiện hữu)
7) Paull Fuller. The Notion of Ditthi in Theravāda Buddhism (2005)
(Ý niệm về Kiến trong Đạo Phật Nguyên Thủy)
😎 Henepola Gunaratana. A Critical Analysis of the Jhānas in Theravāda Buddhist Meditation (1980)
(Phân tích các Thiền-na trong Thiền Phật giáo Nguyên thủy)
9) Sue Hamilton. Identity and Experience (1996)
(Cá tính và Kinh nghiệm)
10) Jan Nattier. Once Upon a Future Time: Studies in a Buddhist Prophecy of Decline (1991)
(Một Thời trong Tương lai: Nghiên cứu về Tiên tri Phật giáo về sự Suy giảm)
11) Robert H. Sharf. Coming to terms with Chinese Buddhism: A reading of the Treasure Store Treatise (2002)
(Giải quyết các khó khăn trong Phật giáo Trung Hoa: Đọc Bảo Tạng Luận)
12) Tse-fu Kuan. Mindfulness in Early Buddhism (2008)
(Niệm trong Phật giáo Sơ kỳ)
13) Griffiths, Paul. On Being Mindless – Buddhist Meditation and the Mind-Body Problem (1990)
(Về Vô thức – Thiền Phật giáo và Vấn đề Tâm-Thân)
14) Hoffman, Frank. Rationality and the Mind in Early Buddhism (1987)
(Tính Hợp lý và Tâm trong Phật giáo Sơ kỳ)
*
C. LUẬN ÁN THẠC SĨ:
1) Nhu-Lien Bhikkhuni. A study of Viññāṇa in Abhidhamma. MA Thesis (2007)
(Nghiên cứu về Thức trong A-tỳ-đàm)
2) Huynh Kim Lan. A Study of Theravāda Buddhism in Vietnam. MA Thesis, Bangkok (2010)
(Nghiên cứu về Đạo Phật Nguyên Thủy tại Việt Nam)
3) Bhikkhu Kusalaguṇa (Đức Hiền). Catupaṭisambhidā In Theravāda Buddhism. MA Thesis, Yangon (2005)
(Bốn Tuệ phân tích trong Phật giáo Nguyên thủy)
4) Jayadi, Mahendradatta. Life of the Buddha, Early Buddhism and Indian Society. MA Thesis (2013)
(Cuộc đời Đức Phật, trong Phật giáo Sơ kỳ và xã hội Ấn Độ)
* * * * *

Monday, January 25, 2021

Nguyên Giác: Thiền Tông và Các Nhà Thơ Hoa Kỳ

 Thiền Tông và Các Nhà Thơ Hoa Kỳ

Nguyên Giác

Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.



CHASE TWICHELL

Nhà thơ Chase Twichell, sinh ngày 20/8/1950 tại New Haven, Connecticut, hoàn tất Thạc sĩ tại Iowa Writers' Workshop. Cũng là một giáo sư, bà từng dạy tại các đại học Princeton University, Warren Wilson College, Goddard College, University of Alabama, và Hampshire College. Bà xuất bản nhiều thi tập, trong đó tập thơ Horses Where the Answers Should Have Been (nxb Copper Canyon Press, 2010) giúp bà thắng giải thưởng thi ca Kingsley Tufts Poetry Award với 100,000 đôla từ đại học Claremont Graduate University. Bà cũng được nhiều giải thưởng văn học khác từ các cơ qaun và tổ chức như New Jersey State Council on the Arts, the American Academy of Arts and Letters và The Artists Foundation. 

Nhiều bài thơ của Twichell mang chất Thiền do ảnh hưởng từ nhiều năm học Thiền từ nhà sư John Daido Loori tại thiền viện Zen Mountain Monastery. Nhà thơ Twichell đã trả lời tạp chí Tricycle trên số báo mùa thu 2003 rằng: “Thiền tọa và thơ, cả hai đều là học về tâm. Tôi nhận ra áp lực nội tâm khởi lên từ cảm xúc và dựa vào một công án tương tự trong những cách ngạc nhiên và không đoán trước. Thiền là một cái lọc, tuyệt vời xuyên qua đó tuôn chảy thành một bài thơ. Nó vắt ra ngoài tất cả những gì là không cốt tủy.”

Bài thơ “Đói cho một cái gì” sau đây là dịch từ bài “Hunger for Something” trong thi tập The Snow Watcher của nhà thơ Chase Twichell. Cần ghi nhận rằng “đói” là một phản ứng của cơ thể, trong khi “tham ái” là một lựa chọn. Kinh Phật dạy rằng “tham ái” là nhân của sinh tử và đau khổ. Trong khi “đói” thì hễ còn có thân, là còn có đói.

Đói cho một cái gì

--- Thơ Chase Twichell

Đôi khi tôi muốn là đống gỗ
những cây bị cắt rời để sớm thành khói
hay ngay cả là khói tự thân
.
bóng ma kềnh càng của tro và không khí, bay tới
bất cứ nơi nào tôi muốn, ít nhất là một lúc
.
Không ở trong cũng không ngoài
không nhà để ở cũng không trôi lạc, không còn là
một hình dạng hay một tên gọi, tôi xuyên qua
.
tất cả những cửa sổ vỡ của thế giới.
Đó không là ước muốn cho ý thức kết thúc.
.
Đó không là món ăn một đội quân có
cho trái tim rỗng vắng của nó
nhưng là một cơn đói để chịu đựng bây giờ và lúc đó.
.
đơn độc nơi nghĩa trang
nơi những con chó của tự ngã đang ăn nuốt.

.

Bài thơ sau đây nhan đề là “Pine” – tức là, cây thông. Tác giả ghi hình ảnh khi ngồi thiền, thắp một cây hương (nhang). Với thời gian, với tâm thiền tọa, cây nhang rút ngắn lại. Tuy nhiên, chữ “pine” còn có nghĩa là “ước muốn thầm kín” trong tiếng lóng Anh văn. Nhóm chữ “thread of pine” là “chuỗi ước muốn” khi dùng trong nghĩa này. Chữ “old pine” có thể hiểu là “cội thông già” hay là “cội tham ái” trong ngôn ngữ tiếng lóng. Chữ “deer” là “con nai,” nhưng trong tiếng lóng có nghĩa là một người, một tâm hồn đã bị vùi dập, đã thọ khổ; như thế, ngồi thiền là đưa tâm về chỗ an toàn. Kinh Phật từng nói rằng tất cả thân và tâm mình đều đang bốc cháy, và khi lửa tắt thì lửa (tham sân si) sẽ tìm thân tâm mới. Do vậy, giải thoát là khi lửa tắt, củi tàn, và không còn dư tàn nào nữa.   

Cây thông

--- Thơ Chase Twichell

Đêm đầu tiên nơi thiền viện
một sâu bướm vương tay áo, chiếu ánh lửa
kéo dài sau cơn lạnh giá đầu tiên.
.
Cây nhang ngắn ngún cháy
ba mươi phút, chuỗi ước muốn tươi mới
khởi lên xuyên từ cội thông tham ái của giờ khắc.
.
Mùa hè vương bẫy dưới làn kính
mỏng trên mặt suối, vọng lên
tiếng kêu của một chai trống rỗng.
.
Trước niềm tịch lặng dài
các nhà sư chỉnh lại áo cà sa
những tiếng sột soạt nhẹ nhàng
.
Con nai bây giờ đã an toàn. Các dấu nai
đã ngập tuyết. Gió đã kéo

lướt qua những ngày đã cũ. 




DAVID BUDBILL

Nhà thơ, nhạc sĩ, cũng là nhà soạn kịch, David Wolf Budbill (13/6/1940 –25/9/2016) là tác giả 8 tập thơ, 8 vở kịch, 2 tiểu thuyết, một tuyển tập truyện ngắn, một truyện tranh trẻ em và hàng chục bài tiểu luận. David Budbill sinh tại thị trấn Cleveland, Ohio, học Triết và lịch sử mỹ thuật ở Muskingum College tại Ohio, học bậc hậu cử nhân về thần học ở Union Theology Seminary tại New York City năm 1967. Dọn tới Oxford, Pennsylvania, dạy ở Lincoln University cho tới 1969. Năm 1969, dọn về ở phía bắc Vermont, trở thành nhà văn toàn thời gian, sống hơn 4 thập niên trong khu núi rừng Judevine Mountain. 

Bản thân Budbill cũng làm nhiều nghề, như thợ mộc, đầu bếp, nhân viên bệnh viện tâm thần, mục sư nhà thờ, giáo viên, bình luận gia đài phát thanh National Public Radio. Được nhiều giải thưởng về thơ, và năm 2002 được Hội Đồng Nghệ Thuật Vermont vinh danh với giải thưởng thành tựu trọn đời “2002 Walter Cerf Award for Lifetime Achievement in the Arts.” Các sáng tác, giấy tờ di cảo của ông được lưu trữ ở University of Vermont. Năm 1968, Budbill ký vào bản văn phản chiến "Writers and Editors War Tax Protest" – tuyên bố không đóng thuế để phản đối Cuộc Chiến Việt Nam.

Về tác phẩm âm nhạc, ông để lại 2 đĩa nhạc CD, mang âm vang Phật Giáo:

--- Zen Mountains-Zen Streets: A Duet for Poet and Improvised Bass (Núi Thiền – Phố Thiền: Song tấu cho nhà thơ và đàn bass ứng tác), với nhạc sĩ William Parker đàn bass, 1999.

--- Songs for a Suffering World: A Prayer for Peace, a Protest Against War (Các ca khúc cho một thế giới khổ đau: Một kinh cầu vì Hòa Bình, vì Phản đối Cuộc chiến), với William Parker đàn bass và Hamid Drake trống, 2003.

Tạp chí nghiên cứu Phật Học Tricycle trong ấn bản Mùa Hè 2015, có bài phỏng vấn nhà thơ David Budbill. Phóng viên Leath Tonino hỏi, và ông đáp:

“Ông có thực tập thiền không, và nếu có, Thiền có trùng lắp lên các việc như làm thơ, làm vường, chẻ củi và mọi thứ khác? Không, tôi không nghĩ nói trùng lắp lên. Tôi chợt nhớ nhà sư Thích Nhất Hạnh nói: Khi bạn rửa chén, bạn nên rửa chén thôi. Tương tự, khi bạn chẻ củi, bạn chỉ nên chẻ củi --- nếu bạn phân tâm, và bắt đầu làm thứ gì khác, bạn sẽ có thể như là tự để máy cưa cắt phạm vào mình. Cùng như thế, với làm vườn, cắt cỏ và làm thơ. Tôi không thấy có liên hệ cần thiết giữa tất cả các hoạt động dị biệt này. Nếu có sự trùng lắp nào, nói nằm ở trong phương pháp của bạn: bạn tập trung chỉ vào một việc trước mắt thôi, bất cứ việc gì đấy. Mọi thứ khác [dính vào] sẽ làm rối lên.”

Trong bài phỏng vấn khác trên Inquiring Mind, một tạp chí Phật học Nam Tông, ấn bản Mùa Thu 2004. Bài này có nhan đề “Interview with David Budbill: A Simple Mountain Poet” (Phỏng vấn David Budbill: Một nhà thơ núi đơn sơ). Budbill nhắc tới khái niệm yin và yang (âm và dương) theo phiên âm tiếng Trung Hoa, cũng như giải thích về ảnh hưởng Thiền Tông; đặc biệt nhắc tới 2 Thiên sư --- nhà thơ Trung Hoa Han Shan (1546–1623), phiên âm Việt là Hàn Sơn, và nhà thơ Nhật Bản Ryokan (1758–1831). Một ảnh hưởng khác của nhà thơ còn là sách về Thiền của D.T. Suzuki (bản Việt là “Thiền Luận” của hai dịch giả Tuệ Sỹ và Trúc Thiên). Nơi đây sẽ trích dịch như sau.  

“Inquiring Mind (IM): Thơ của ông như dường bày tỏ một căng thẳng nội tâm giữa một phần của ông muốn làm một ẩn sĩ và rời bỏ thế giới sau lưng, và một phần khác hướng về hoạt động xã hội và tìm một nhận thức nghệ thuật.

David Budbill (DB): Vâng, bạn biết đó. Một phút này, là chuyện này. Phút sau, là chuyện khác. [Cười] Tôi không thể rời bỏ mặt nào của tôi. Hiển nhiên,  tôi có vài kết hợp hai thứ. Âm và dương. Với vài mức độ, tôi đang đi theo dấu chân của các nhà thơ Phật Giáo vĩ đại – Han Shan (Hàn Sơn, Núi Lạnh) và Ryokan, những người đi vào rừng để sống tự do và làm các bài thơ của họ. Có nhiều người khác cũng như họ, nhưng không bao giờ được biết tới, và có thể là vì họ không bận tâm chuyện được công nhận chút nào. Họ không bước ra khỏi rừng để đọc thơ và ra công chúng. Tôi hiển nhiên không phải là người sẽ biến mất luôn. Có thể vài căng thẳng đó ghi lại trong các bài thơ gần đây của tôi, trong đó Thiền sư Han Shan thăm tôi và tôi giới thiệu với ngài về điện thoại di động, về máy cưa, và các thứ tương tự…

IM: Trước khi ông dọn về núi rừng Vermont, có phải ông đã rất mực ưa thích các nhà thơ ẩn sĩ Thiền Tông?

DB: Tôi đã ưa thích các nhà thơ Thiền, cũng như về Phật Giáo và Lão Giáo từ đầu thập niên 1960s, khi tôi là sinh viên ở trường thần Union Theological Seminary tại New York. Trong các sách thời đó tôi đọc là “Essentials of Zen Buddhism” của D. T. Suzuki, và một cuốn sách nhỏ của Edward Herbert có nhan đề “A Taoist Notebook.” Tôi đặc biệt ưa thích các nhà thơ Lão Giáo, vì vẻ đẹp sầu muộn trong thơ của họ. Họ không tin vào tái sanh luân hồi, và do vậy họ thường bày tỏ một nỗi buồn về thế giới vô thường này.

IM: Ông đã từng Thiền tập chính thức bao giờ?

DB: Tôi chưa bao giờ tham dự một khóa thiền thất nào. Tôi có ngồi thiền, mặc dù tôi không biết rằng tôi có ngồi đúng hay không. [Cười] Tôi sẽ có mặt trong một cuốn sách tuyển tập các bài thơ Thiền Hoa Kỳ dự kiến xuất bản vào năm tới, từ một nhà xuất bản nhỏ ở Ohio, và họ đã mời tôi đưa ra một lời tuyên bố. Tôi nói rằng tôi thường ngồi lặng lẽ trong một tư thế ngồi tréo chân, trên một tọa cụ, trước một bàn thờ nhỏ tôi làm tại nhà, và thở đều đặn, đôi khi tôi ngồi lâu, tới khi tàn cây nhang. Tôi không biết đó có phải là tọa thiền không, và tôi không gọi mình là Phật Tử.” 

Dưới đây là vài bài thơ.

.

Ngắn gọn

--- Thơ David Budbill

Chính là tôi
và rồi
không là tôi.
Tôi là
và rồi
sẽ không là tôi.

. -- . --

Ngày mai

--- Thơ David Budbill

Ngày mai
chúng ta là
xương và tro,
là rễ cỏ dại
trồi lên xuyên qua
sọ chúng ta.
.
Hôm nay
áo quần đơn sơ
vô tâm
no bụng
sinh động, tỉnh thức
ngay nơi đây
ngay bây giờ.
.
Say với nhạc
ai cần tới rượu nho?
.
Tới luôn
bạn lòng ơi
hãy khiêu vũ
trong khi chúng ta còn
có những bàn chân.

. -- . -- 

Bạn hỏi tôi vì sao

--- Thơ David Budbill

Lý Bạch nói
Bạn hỏi vì sao tôi vào
ẩn trong các rặng núi xanh.
Tôi kẹt nơi đây
quá nghèo để ra đi
cũng có thể vì quá sợ
đã từng nghĩ là có thể
sẽ có thể
có điều gì đáng giá nơi đây
hôm nào
nếu tôi có thể
chịu đựng.
Đó là bốn mươi năm trước.




STANFORD M. FORRESTER

Một trong các nhà thơ Hoa Kỳ nổi tiếng nhất về thể thơ haiku là Stanford M. Forrester. Trong phần lý lịch, ông không cho biết năm sinh, chỉ tự viết rằng: da trắng, sinh và trưởng thành tại Staten Island, New York. Trả lời phỏng vấn trên trang nhà The Secular Buddhist, nhà thơ Stanford Forrester cho biết rằng, "Phật Giáo có một truyền thống từ lâu là hiển lộ qua nghệ thuật. Có lẽ phù hợp nhất với Thiền pháp nhận thức từng khoảnh khắc trong hiện tại là thơ, đặc biệt là thể thơ haiku."

Stanford M. Forrester là cựu Hội trưởng hội Haiku Society of America, cũng như là chủ biên của một tuyển tập thơ ngắn. Thơ của ông đã in trong 33 tạp chí ở Mỹ, Nhật, Canada, Ireland, Romania, Anh, và Úc châu. Thơ ông cũng in trong 22 tuyển tập thơ. Trong năm 2004, thơ Stanford M. Forrester được giải nhất cuộc thi thường niên Annual Basho Anthology Contest lần thứ 57 tại Ueno, Nhật Bản, và đứng giải 3 trong kỳ thi thơ Kaji Aso Contest tại Boston. Năm 2001, ông được trao giải văn học Museum of Haiku Literature Award, trao cho bởi bảo tàng viện này ở Tokyo và hội thơ Haiku Society of America. Ông là thẩm phán nhiều giải thi thơ trong khu vực New York. Stanford M. Forrester được mời nói chuyện và dạy về thơ tại nhiều nơi, như Wesleyan University, Thiền viện Zen Mountain Monastery, Lễ hội thơ World Haiku Festival tại Bangalore, Ấn Độ.

Mỗi bài thơ thể haiku chỉ có 3 dòng, do vậy trong khi bạn đọc thơ, có thể ngưng ở mỗi ba dòng để ngấm chất thơ độc đáo của thi sĩ này. Thêm nữa, các khuôn thơ ba dòng có thể được đọc theo thứ tự khác đi, xáo trộn, hay bỏ dở lưng chừng… tùy cảm hứng độc giả.


--- Thơ Stanford M. Forrester

.

thiền đường
một con kiến đã chở đi
định lực của tôi.
.
mưa rào buổi sáng
chỉ riêng tiếng
chuông chùa là khô
.
khách sạn Nhật
Kinh Phật và Kinh Thánh
ở cùng ngăn kéo
.
ngôi chùa bỏ quên
một nụ hoa vàng
tự hiến dâng đời
.
bị lôi kéo về
những thói quen cũ
mùa mưa
.
nhập Thiền thất
tôi tỉnh thức
với tách cà phê
.
tiệc ngắm trăng
mặt trăng
tới trễ rồi
.
chiều gió lộng
nơi cổng chùa
Thần Gió mỉm cười
.
đom đóm lóe sáng
tôi cũng
cầu nguyện Đức Phật
.
buổi sáng chiếu rọi
tất cả Đức Phật đá
mặc y vàng
.
dấu tay Đức Phật
in trên cát
vườn Thiền
.
chỉ một nụ hoa
cần để trả lời
câu hỏi của bạn
.
ánh sáng ban ngày
không ai nhận ra
con đom đóm
.
mùa hè khô hạn
vườn Thiền
hoa nở
.
ngôi chùa đổ nát
các mảnh tượng Phật
vẫn đang cầu nguyện
.
tan vào
nước trong trẻo
tượng Phật tuyết
.
rất là nhanh
khi trở về
làm bụi
.
mưa nắng sân sau
bài ca chuông gió
đổi theo lối mây
.
bình bát nhà sư
một hạt gạo
một con kiến
.
Đức Phật
ngồi
hoài thôi
.
hương trầm bay
tôi viết
không đề tài
.
sân chùa
âm vang
tượng Phật đá
.
bất động
hay không
con ốc sên
.
chuông chùa kêu
một ngàn lần
mưa mùa đông
.
lặng lẽ như
ngôi chùa núi
tổ kiến
.
chiều mùa hè
những giọt mưa đầu
trên chân trần của tôi
.
tỉnh thức Thiền
chân cẳng tôi
buồn ngủ
.
giương cung Thiền
nhắm vào hồng tâm
trong tâm tôi
.
cuối mùa thu
tự thấy mình
trong đồng cỏ dại
.
viết bài thơ haiku
trên cát
sóng cuốn trôi đi
.
thủy triều cao
tượng Phật cát
vào triệu lớp sóng.




JANE HIRSHFIELD

Sinh năm 1953, Jane Hirshfield là một nhà thơ được nhiều giải thưởng, một người viết nhiều tiểu luận uyên bác về mỹ học, và là một nhà thơ thỉnh giảng tại các đại học Stanford University và UC-Berkeley. Bà là tác giả 9 tập thơ, 2 tuyển tập các bài lý luận, biên tập và đồng dịch thuật 4 tuyển tập thơ, tập trung vào các nhà thơ phụ nữ và Nhật Bản. Nổi tiếng từ rất sớm, bài thơ đầu tiên của bà in trong tạp chí The Nation năm 1973, được trao giải thưởng thơ năm sau là Discovery Award. Rồi tới một lúc, bà gạt bỏ hết chuyện sáng tác, để vào thiền viện San Francisco Zen Center tu học trong 8 năm. 

Về sau, Hirshfield nhận định: “Tôi cảm thấy rằng tôi đã chưa bao giờ tôi thực sự là một nhà thơ nếu tôi không biết nhiều hơn những gì tôi đã biết vào lúc đó về cái mang ý nghĩa là một con người. Tôi không nghĩ thơ chỉ dựa trên thơ; nó dựa trên một cuộc đời được sống trọn vẹn.” Tài năng đa dạng, bà cũng từng được mời vào chương trình nghiên cứu khoa học não bộ tại đại học UCSF. Sau đây là bài thơ “The Promise” (Lời hứa) của Hirshfield, đó là lời nhà thơ nói chuyện với ngoại xứ và nội xứ --- có lẽ, là một cách quán sát thân tâm.

Lời hứa

--- Thơ Jane Hirshfield

Hãy ở lại, tôi nói
với các cành hoa đã cắt
Chúng nghiêng mình
đầu cúi xuống.
.
Hãy ở lại, tôi nói với con nhện
nhện đã chạy trốn.
.
Hãy ở lại, chiếc lá
ửng đỏ lên
xấu hổ cho tôi và nó
.
Hãy ở lại, tôi nói với thân tôi
nó ngồi như một con chó
vâng lời một khoảnh khắc
rồi bắt đầu run rẩy.
.
Hãy ở lại, với mặt đất
của đồng cỏ ven sông
của dốc núi hóa thạch
của đá vôi và sa thạch
nó nhìn lại
với một bày tỏ thay đổi, trong lặng lẽ.
.
Hãy ở lại, tôi nói với những mối tình của tôi
Tất cả được trả lời
luôn luôn.

Nhìn chung, các nhà thơ Hoa Kỳ đã tiếp cận Thiền Tông theo những cách khác nhau. Trong khi có người vào thiền viện để tu học nghiêm túc, như Chase Twichell và Jane Hirshfield, cũng có người chưa từng vào khóa Thiền quy củ nào, như David Budbill, mà chỉ nắm lấy các pháp ấn vô ngã như “tôi là, tôi không là” và pháp ấn vô thường rằng tôi là bụi, là rễ cỏ đang mọc ra từ đầu lâu tôi… Hay như nhà thơ Stanford M. Forrester, một đỉnh rất cao về thơ haiku, nhưng lòng rất khiêm tốn, lặng lẽ, ngấm được chất thơ haiku và không khí Thiền Nhật Bản rất trọn vẹn. Mỗi người, mỗi nhà thơ, chính là một hải đảo tự thân, và rất Thiền theo kiểu riêng của từng người.


PHOTO: 

4 nhà thơ.


Friday, January 22, 2021

Trịnh Thanh Thủy: Cơn Nghiện Cell Phone Của Tuổi Trẻ

Cơn Nghiện Cell Phone Của Tuổi Trẻ

Trịnh Thanh Thủy

Có một sự thật không ai chối cãi được là trẻ em ngày nay được sinh ra với cái cell phone (điện thoại di động) bên cạnh. Ngay từ lúc các em chào đời, các bà mẹ trẻ đã sử dụng điện thoại di động để điện đàm khi còn ôm chúng trong lòng suốt 24 giờ một ngày. Có người còn dùng điện thoại di động hay tablet cho trẻ ngậm thay núm vú giả hay làm trò chơi để dụ chúng ăn hay dỗ chúng nín khóc.

Bạn có bao giờ tưởng tượng ra cảnh một em bé trước khi học nói và học đi đã học những trò chơi games trong các ứng dụng (The apps) của điện thoại thông minh (smart phone). Chúng sẽ bắt chước, nói những gì mẹ chúng nói trên điện thoại và nghe những gì chúng nghe được từ phía kia của đầu dây. Hầu hết các bà mẹ thời đại đều một tay cầm cell phone, một tay cầm bình sữa cho các bé bú. Nhờ vậy trí thông minh của các em phát triển nhanh hơn là điều hẳn nhiên và khi các em đến tuổi vào lớp 1. Sau này, các em có thể chơi, hay xuất sắc hơn thì lập trình được các games và apps của riêng mình. Có thể nói là các em có thể học 60% từ computers (máy điện toán) và cell phones, 20% từ cha mẹ và 20% từ giáo dục của trường lớp.

Hậu quả này tốt hay xấu? Cái gì cũng có hai mặt, xấu và tốt nhưng có một điều tốt mà cũng xấu là, các em sẽ giỏi hơn, nhưng trưởng thành nhanh hơn những trẻ của các thế hệ trước đây. Tuổi thơ của các em sẽ khác đi, lanh lẹ, đa năng, bận rộn hơn, bớt hồn nhiên và ngây thơ so với tuổi thật của các em. Đó là chưa kể đến cái hại của phóng xạ viba tác dụng trên óc các em mà tôi sẽ trình bày ở phần dưới.

Một cô giáo dạy kèm cho các em đã than phiền rằng: “Tôi có dạy kèm cho hai em mới 3, 4 tuổi mà chúng đã được sở hữu cell phone, tablets. TV trong nhà thì lúc nào cũng được mở lên. Tôi rất khó nhọc trong việc dạy các em ngồi yên và tập lắng nghe người khác trò chuyện vì đôi mắt chúng lúc nào cũng bận rộn chăm chú vào các màn hình, hết lớn rồi tới nhỏ. “

Tương lai, sẽ không còn cái cảnh các bậc cha mẹ bỏ nhiều thì giờ của họ để sinh hoạt và dạy dỗ cho các em về kinh nghiệm của cuộc sống. Mối liên hệ tình cảm ràng buộc giữa gia đình, cha mẹ và con cái sẽ dần phai lạt.

Và cũng không ai còn ngạc nhiên khi nghe câu chuyện, trẻ em 6 tuổi đã được các bậc phụ huynh cho phép có điện thoại di động riêng. Trong khi cách đây chỉ vài năm, hầu hết những em phải lên trung học mới có quyền sử dụng. Một kết quả trong cuộc thăm dò mới nhất của công ty VoucherCloud đã làm sửng sốt mọi người. Công ty này đã hỏi 2290 phụ huynh có con vào độ 6 tuổi ở Hoa Kỳ về việc này và được trả lời rằng 53% các em được cho phép có cell phone.

Trong một trang mạng “Kids wireless use fact”, họ đã đưa ra những con số thống kê sau đây. Có khoảng 71% những gia đình có con nhỏ dưới tám tuổi có cell phone. Trong số 60% những gia đình cung cấp cell phone cho con họ từ 10 tới 11 tuổi, họ cũng cho các em tuổi, 8, 9 có cell phone.

Như vậy động lực nào đã làm dấy lên phong trào trẻ dùng điện thoại di động, khi các em mới chập chững bước vào bậc tiểu học. Lý do được đưa ra chính là sự an toàn cho các em. Có 33. 33% phụ huynh nói rằng họ muốn liên lạc được với các em bất cứ khi nào họ cần. 20% bảo mục đích họ mua cell phone cho các em vì nó giúp trẻ có thể giữ mối dây liên lạc với gia đình và bạn bè. Và 20% thấy rằng các em được cho phép có điện thoại di động vì bạn bè đồng trang lứa với các em cũng có và rất có lợi.

Tuy nhiên, tuổi nào mới là tuổi đúng và thích hợp cho trẻ sở hữu điện thoại là đề tài gây nhiều tranh cãi cho các bậc làm cha mẹ, ông bà. Do đó, có người tin rằng cái lợi của sự an toàn và tiện lợi cho việc liên lạc đánh bại cái nguy hại của sự lợi dụng hay dùng sai. Họ cũng tin rằng điều này góp phần trong việc tạo cho trẻ một cá tính độc lập-điều này cần cho một trẻ được trưởng thành.

Ngược lại số người phản đối thì nêu ra những cái hại như: trẻ dễ lên mạng, vào các mạng chơi game online, vào chat room, bị quấy nhiều tình dục hay tiếp xúc với những người lạ nguy hiểm. Những tên giết người, và tội phạm tình dục thường săn mồi trên mạng. Các em còn bị quyến rũ và ghiền đánh tin nhắn (text) nữa. Hóa đơn tiền điện thoại sẽ lên cao vì các em không biết kiểm soát hay để ý đến những dịch vụ có khi phải trả tiền và những dịch vụ này thường đắt tiền hơn nhiều so vớicác dịch vụ SMS tiêu chuẩn.

Chưa kể các em còn phải đối diện với những trò bắt nạt qua mạng và những cuộc gọi bất ngờ không lường trước. Bởi vì những kẻ bắt nạt hay sử dụng cell phone như một công cụ để đe dọa, xúc phạm hoặc quấy rối người khác. Cho nên họ nghĩ khi các em bắt đầu vào tuổi thiếu niên (teen) mới là số tuổi thích hợp cho có cell phone.

Những chuyên gia tâm lý nói gì về vấn đề này?. Bác sĩ tâm lý Fran Walfish của Beverly Hills Psychotherapist, cũng là tác giả của cuốn sách “The Self-Aware Parent” khuyên: “Phần lớn, không nên tùy thuộc vào sự trưởng thành sớm của trẻ, mà phải đợi chúng ít nhất là lên 10, độ tuổi 12 hay 13 là lý tưởng. “ Chúng ta cũng không nên vì thấy chúng tỏ ra khôn ngoan, biết trách nhiệm mà mua cell phone cho trẻ 6 tuổi. Hay vì các bạn đồng trang lứa chúng có mà bắt chước mua cho chúng vì sau đó bạn sẽ phải tiếp tục sắm điện thoại cho chúng khi chúng lên 8, 10, 12, 14, 16…Ngoài ra trẻ em vào lứa tuổi 6, 7 luôn luôn làm mất đồ và hay để lạc những vật mà chúng sở hữu và bạn cứ sẽ phải mua cái khác cho chúng khi chúng đánh mất.

Ngoài ra theo một số chuyên gia bên Anh quốc, chuyên nghiên cứu về tác hại của đt di động. Họ đã cảnh báo rằng, không nên cho trẻ em dùng nhiều điện thoại di động vì có thể cái óc nhỏ bé của chúng sẽ gặp khó khăn trong vấn đề tăng trưởng. Bức xạ điện từ trường sẽ thoát ra từ điện thoại di động khi máy bắt đầu mở và khi điện đàm. Vi ba bức xạ xâm nhập xương sọ, vào não bộ, mắt, mũi và các tế bào trên mặt. Nó có thể làm giảm trí nhớ ngắn hạn. Bức xạ cũng ảnh hưởng tới hệ thống miễn dịch, theo khoa học gia Roger Cogwill. Các khoa học gia của Karolinska Institute bên Thụy Điển đang nghiên cứu về hậu quả nàỵ. Những thiết bị có chất kim loại là chất thu hút bức xạ vi ba từ cell phone nhiều nhất. Thí nghiệm cho thấy những người phải đeo kính dùng đt di động thì ảnh hưởng của bức xạ vào mắt tăng 20%, vào đầu tăng 6%. Lý do có thể là do khung kính đeo mắt có kim loại. Nhiều người có răng trám bằng kim loại than phiền có cảm giác nóng nóng trong miệng và đau nhức răng khi nói chuyện trong cell phonẹ. Theo báo Úc Sunday Telegraph ngày 2 tháng 5 1999, bức xạ từ điện thoại di động gây ra khuyết tật cho trên 10. 000 con gà con vì trứng tiếp cận với chất bức xạ nàỵ

Vì thế, đối với các em dưới 16 tuổi, tác hại của sóng cell phone ở lứa tuổi này sẽ cao hơn so với người trưởng thành.

Các cuộc tranh luận về vấn đề tuổi nào mới thích hợp cho trẻ dùng cell phone vẫn còn đang tiếp diễn. Tuy nhiên quyền quyết định và những hậu quả của đúng hay sai, tốt hay xấu vẫn nằm trong sự phán đoán của các bậc phụ huynh. Suy nghĩ cho thật kỹ các bạn nhé.

___________________________
Tài liệu tham khảo
– Study: 53 percent of kids get a cell phone at age 6 | http://abc11. com/technology/study-53-percent-of-kids-get-a-cell-phone-at-age-6/637577/