Thơ và Tư Tưởng Triết Học
NGUYÊN SIÊU
I. Một Bóng Người
Gầy
"Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về"
Ấy là hai câu thơ đầu trong tập Giấc Mơ Trường Sơn đã tạo dựng hình
ảnh cho một Phương Trời Viễn Mộng.
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật
học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Ðông sang Tây của thế
tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn,
dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều. Dáng dấp đó với
đôi bàn tay nhẹ lướt trên phím đàn cùng những nốt trắng đen, cung bậc cao thấp
để tạo thành những âm thanh cao vút đến đỉnh núi chơi vơi hay trầm
lặng vọng về biển khơi muối mặn. Dáng dấp đó, cặm cụi bên ngọn đèn khuya
nơi cửa sổ, để nghe tiếng tàu đêm sình sịch lăn vào thành phố, mà mơ cho một
chuyến viễn du làm thân lãng tử, làm người khai phá núi rừng, cho nương rẫy
được tốt tươi từ vườn cà non đến luống khoai ngô sắn, vun xới tạo thành sức sống
mãnh liệt từ miền núi đồi hoang vu, man dã. Dáng dấp đó, đêm đêm thao thức
dưới mái chòi tranh lợp vụng để nghe tiếng côn trùng, dế mèn nỉ non dưới lòng đất
mới, mà mơ về một tương lai tươi sáng cho quê hương. Dáng dấp đó, một thời đã
hòa quyện với cỏ nội hoa ngàn, với bóng đêm soi đê nơi thôn dã để cùng hít thở
không khí xóm làng, của đồng lúa vàng, lũy tre xanh của người nông dân cần
cù hôm sớm, và cũng dáng dấp đó bên trong chắn song nhà tù đã ngồi làm
thơ. Lời thơ người tù. Tâm thức người tù. Khí khái của người tù đã hiện
hữu qua hai tập thơ Giấc Mơ Trường Sơn và Ngục Trung Mị Ngữ.
Dáng người soi trên bờ đê, trong núi rừng Vạn Giả, bên
làng Hiền Lương, rẫy vườn nuôi sức sống cho người dân lao nhọc, dáng người
đó là Thầy Tuệ Sỹ, là kẻ độc hành kỳ đạo của phương trời viễn mộng thi ca,
mà sáng nay, trước Thiền đường dưới rặng bông sứ, trên đồi Trại Thủy,
Nha Trang, Thầy thanh thản bách bộ như đếm từng bước chân đi, trên lớp
sỏi đá của ngọn đồi, tháng năm chuyên chở đời sống của bao lớp học
Tăng Phật Học Viện Hải Ðức. Từng thời gian, âm thanh thi
sắc kỳ hoạt, thản nhiên của Thầy, đưa chúng ta bước vào vườn
thơ tâm thức.
II. Giấc Mơ
Trường Sơn
Ðá mòn phơi nẻo tà dương
Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi
Ngàn năm vang một nỗi đời
Gió đưa cuộc lữ lên lời viễn phương
(Mộng Trường Sinh - Tuệ Sỹ)
Ðá mòn là vết tích bào gọt của thời gian, dạn dày theo gió
sương năm tháng, như "nước chảy đá mòn". Một sự kiên trì miên
viễn, liên tục bất tận. Ðá mòn đó được phơi bày, hiển lộ chơ
vơ, hiu hắt, phong sương. Xa xa nhìn tảng đá mòn phơi thân dưới ánh tà
dương, buổi chiều, hoàng hôn buông phủ, lại thấy cảnh đời hiển sinh gần
như vụt tắt, trả lại cho mặt đất chìm dần trong đêm tối. Người đi trong cuộc lữ
là tâm tư của Thầy trong núi rừng Soi Ðê giữa khuya u tịch nằm nghe
tiếng nước thác ngàn đổ về đồng bằng, xuôi đi vạn dặm mà gào thét rầm rộ qua
bao vách ghềnh, vực sâu, trong đục của cuộc lưu đày hòa nhập vào đại
dương muôn trùng. Một cuộc viễn hành không dừng chân cát bụi. Một
cuộc rong chơi vô tận, chẳng hẹn hò, không bến đậu, không có thời
gian để qua và không có không gian để yên nghỉ. Người đi
vào cuộc lữ như cánh chim trời mà Thầy đã tự ví mình như cánh hải âu nghìn
trùng bạt gió:
"Một ước hẹn đã chôn vùi tang tóc
Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu
Nghe một nỗi hao mòn trong thoáng chốc
Một mùa thu một vạn tiếng kêu gào"
(Tuệ Sỹ)
Trong cuộc tồn sinh này có nhiều ước hẹn, ước nguyện, ước
mong, nhưng tất cả những nỗi niềm ước mơ đó dường như đã bị dập
tắt trong Thầy, đã chôn vùi trong đau thương tang tóc. Chúng
ta đã không biết Thầy đã có ước hẹn gì? Với ai? Trong trường
hợp nào? Mà qua lời thơ Cánh Chim Trời thì ước hẹn đó "đã
chôn vùi tang tóc", gây xúc động cho người đọc: "một ước
hẹn không thành". Hãy thử lập lại: "Một ước hẹn đã
chôn vùi tang tóc, Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu". Từ đây gây cảm
xúc cho người đọc là một ước hẹn lên đường dựng lại quê
hương, mà chí nguyện không thành? Hay ước hẹn làm người con
dân của một quê hương không được trọn vẹn trong sự thanh bình, tự
do, hạnh phúc? Tất cả những tâm tư đó, chí nguyện đó đã chôn vùi
trong tang tóc của một kẻ sĩ nung chí quật cường? Hay tấm lòng từ bi
được trang trải đến những người dân cùng khốn nơi ven rừng hay phố thị?
Những chữ trong bài thơ: "... đã chôn vùi tang tóc... xa
mãi giữa lòng sâu... hao mòn trong thoáng chốc... một vạn tiếng kêu
gào..." Tất cả những hình ảnh và âm thanh tan vỡ, sụp
đổ, tuyệt vọng trong khốn cùng.
Hầu hết những bài thơ trong tập Giấc Mơ Trường Sơn của
Thầy được sáng tác sau năm 75, do đó, những từ ngữ, biểu tượngđược
dựng nên nhằm mang nhiều ý nghĩa, ẩn hiện, hư thực cho một chặng đường lịch
sử quê hương dân tộc lâm vào cảnh khốn cùng. Và cũng từ tâm trạng
của một sỹ phu thời đại, của một người con dân nước Việt, chân tình của
một bậc xuất giathư thái đi trên con đường phụng hiến tâm
nguyện cứu đời mà Thầy đã viết nên những lời thơ tâm thành khí
phách đó, nhưng không thiếu phần xót xa, đoài đoạn như những lời thơ trên. Những
lời thơ đã bật lên tiếng "thở hơi dài". Vì sao Thầy phải
"thở hơi dài" có lẽ "giấc chiêm bao" của Thầy đã không trọn,
giấc chiêm bao đã bị cát bụi cuốn đi rồi. Giấc chiêm bao đó
có thể là Thầy mong đem khả năng, trí tuệ của mình mà dựng xây, bồi đắp
cho một quê hương dân tộc được thấm nhuần nền phong hóa thuần hậu của Tổ
tiên mà suốt dòng lịch sử, tiền nhân đã hy sinh xương
máu để gìn giữ giang sơn gấm vóc được phú cường, thịnh vượng? Và
cũng có thể giấc chiêm bao là sự hy vọng phát huy đạo
Phật Việt, nền văn hóa giác ngộ cho tất cả mọi người,
cho khắp nhân loại mà Phật giáo Việt Nam là một biểu
tượng cụ thể? Giấc chiêm bao bị cát bụi cuốn đi, nên Thầy thở
dài cho một vận nghiệp quê hương và Ðạo pháp hôm nay?
Thế nhưng, dẫu cho giấc chiêm bao bị cát bụi cuốn đi,
nhưng, "bên cửa sổ bên kia đồi sao mọc." Người đọc có thể hiểu bên cửa
sổ, nhìn qua phía bên kia núi đồi chập chùng còn có một điểm sáng. Ðiểm sáng
trên quê hương, điểm sáng trong tâm thứcmọi người. Ðiểm sáng của sự hy
vọng cho tương lai. Ðiểm sáng bừng dậy sau một ngày dài đen tối.
Sao mọc cũng có nghĩa vì Sao Mai, biểu hiện ngày sắp sáng và đêm
sẽ tàn. Dân tộc và Ðạo pháp Việt Nam trong kỳ vọng quang vinh bất
diệt. Từ những tâm tư, trầm tịch, những nỗi niềm chôn sâu vào sự hưng khởi cho lý
tưởng thực dụng, siêu thoát, nhưng khi nghĩ lại mình thì
cát bụi đã đoanh vây, phủ kín. Từ những ý thức tận cùng tư tưởng,
từ những lý giải, tra vấn tự thân để viết nên tâm tư hoài niệm. Nhớ về một
ký ức xa xưa, hay ước mơ làm thân lãng tử vô định nơi chân
trời, góc biển, bên cội thông già hay đứng nắng giữa lòng sông.
Hoài niệm là tưởng nhớ những gì đã qua, về những suy tư, tâm
thức. Trong bài thơ Hoài Niệm, Thầy dùng những từ ngữ nghe như
buông thả, như bâng khuâng, như dật dờ sương khói. Như hình bóng người hóa
thân vào cát bụi, bằng đôi chân trần, bàn tay khô.
Hoài niệm để thấy được ý nghĩ của mình muốn làm
cuộc lữ, muốn đi khắp bốn phương trời, muốn rong chơi đây đó, bỏ lại
sau lưng bụi đường thời gian phủ kín. Sự hóa thân cho cuộc lưu
đày sinh tử, hiện thành lục phàm, từ thánh mà hóa độ chúng
sanh. Có làm một cuộc lữ, một cuộc lên đường thì mới thấy được sự tàn
phá, hoại diệt hay sinh thành vượt thoát.
Chúng ta hãy nghe bài thơ Hoài Niệm như âm
ba muôn trùng giữa lòng tử sinh:
Một đêm thôi mắt trầm sâu đáy biển
Hai bàn tay khói phủ tóc tơ xa
Miền đất đó trăng đã gầy vĩnh viễn
Từ vu vơ bên giấc ngủ mơ hồ
Một lần định như sao ngàn đã định
Lại một lần nông nổi vết sa cơ
Trời vẫn vậy vẫn mây chiều gió tỉnh
Vẫn một đời nghe kể chuyện không như
Vẫn sống chết với điêu tàn vờ vĩnh
Ðể mắt mù nhìn lại cõi không hư
Một lần ngại trước thông già cung kỉnh
Chẳng một lần lầm lỡ không ư?
Ngày mai nhé ta chờ mi một chuyến
Hai bàn tay khói phủ tóc tơ xa.
(Hoài Niệm - Tuệ Sỹ)
Chúng ta hãy lắng tâm, thanh thản để nghe từng âm
điệu hiu hắt chứa chan niềm mẫn cảm tuyệt cùng của ý thức.
"Mắt trầm sâu đáy biển", "Khói phủ tóc tơ xa", "trăng
đã gầy vĩnh viễn", "giấc ngủ mơ hồ", "như sao ngàn đã định",
"nông nổi vết sa cơ", "mây chiều gió tỉnh", "điêu tàn
vờ vĩnh".
Qua những lời thơ ấy, chúng ta thấy tâm tư Thầy đã hóa
hiện vào dòng luân hồi tử sinh, để có cái nhìn tổng thể, một tức
là tất cả, tất cả tức là một. Tất cả những lời thơ ấy là thực tại của pháp
giới, là vốn liếng của chúng sanh, là chất liệu của sự sống và sự chết của thế
tục đế, mà Bồ Tát độ sinh không thể thiếu những gia tài của phàm
tục.
Cũng đôi mắt đó, cũng hai bàn tay đó. Cũng tóc tơ đó và cũng giấc
ngủ đó, Thầy đã mang hành trang lên đường như câu: "Một lần định
như sao ngàn đã định", "Ngày mai nhé ta chờ mi một chuyến". Dấn
thân vào cuộc lữ tam giới để phụng sự hạnh nguyện cứu
độ sinh linh vững chãi, quyết tâm "sao ngàn đã định",
và một chuyến ra đi là "vĩnh viễn con tàu".
Ðọc thơ Thầy Tuệ Sỹ, chúng ta thấy những lời thơ:
"Ðá mòn, tà dương, nước lũ, viễn phương, cuộc lữ, tử sinh, đồng
hoang, cát bụi, sương mù, gió lốc, tóc trắng, phiêu lưu, viễn mộng, đọa
đày, kiêu hùng, trùng khơi, đồi hoang, khung trời hội cũ..." mà Thầy luôn đối
diện với chính nó, với vách tường ủ rũ, với ngược nước xuôi ngàn, với
trăng tàn núi lạnh, với hạt muối biển khơi... mà không là những chất liệu kiêu
sa, hãnh tiến, không là gấm vóc lụa là, một chất liệu bình dị thường
nhật mà bao con người thường có trong cuộc sống, từ cái ăn cái ở cho
đến cái trang nghiêm tự thân. Thầy tự trang bị cho mình những ánh
nắngvà bóng nước. Những chiều tà hay sao mai, những đá cuội, bụi đường hay bên
gốc thông già giữa sườn núi cao. Ðó là hành trang của Thầy, cho người vào cuộc
lữ, cho phương trời viễn mộng.
Ðể thấy rõ hơn nữa những lời thơ khắc khoải ấy, trong những năm
tháng ở tù, lần thứ hai tại Sài Gòn 1978, qua bài Dạ Khúc:
Tiếng ai khóc trong đêm trường uất hận
Lời ai ru trào máu lệ bi thương
Hồn ai đó đôi tay gầy sờ soạng
Là hồn tôi tìm dấu cũ quê hương
Ai tóc trắng đìu hiu trên đỉnh tuyết
Bước chập chờn heo hút giữa màn sương
Viên đá cuội mấy ngàn năm cô quạnh
Hồn tôi đâu trong dấu tích hoang đường?
Dạ khúc là khúc nhạc, khúc hát về đêm. Khúc ca của ai đó? Hay là
khúc dương cầm của Thầy được tấu lên trong chốn lao tù? Khúc dương cầm không
phiếm? Khúc vĩ cầm không cầm? Khúc Tây ban cầm không dây? Khúc nhạc không lời,
chỉ là đôi tay Thầy gõ nhịp xuống tường rêu, trên vách tường nhà tù của chế độ,
để hòa quyện vào "tiếng ai khóc trong đêm trường uất hận" để đi
vào "lời ai ru trào máu lệ bi thương". Khúc nhạc thống thiết,
tâm cảm bi hoài để chia sẻ nỗi đau của nhân thế, của hồn ma bóng quế dật dờ,
của đôi tay xương xẩu, gầy guộc mà sờ soạng, trong đêm đen tìm nhau dìu dắt.
Nhưng chẳng ai xa lạ "trong đêm trường uất hận" chẳng ai
"trào máu lệ bi thương", chẳng ai có "đôi tay gầy sờ soạng"
mà tất cả chính là "hồn tôi" đang đi "tìm dấu cũ quê
hương". Vậy "dấu cũ quê hương" theo Thầy là dấu cũ gì? và dấu cũ
ấy ở nơi đâu? Người nghe qua "dấu cũ quê hương" có thể là con đường lịch
sử hơn 4000 năm văn hiến. "Dấu cũ quê hương" là con đường của
bao anh hùng liệt nữ đã đi qua còn in rõ những dấu chân kỳ
tích. Là con đường của các bậc tiền hiền tổ đức đã đi để gây dựng cơ
đồ, giang sơn gấm vóc cho giống nòi Hồng Lạc Rồng Tiên. Dấu đi đó còn vang vọng
theo hồn thiêng sông núi, theo tiếng gọi của quê Cha, theo lời ru của
đất Mẹ. Và "dấu cũ quê hương" đó mãi mãi là di sản trân
quý của dân tộc giống nòi. "Dấu cũ quê hương" trải qua các triều
đại thăng trầm, vinh nhục, thịnh suy, nhưng dấu cũ ấy, con
đường lịch sử ấy vẫn in đậm trên quê hương, là cái nôi nuôi lớn chủng
tộc Ðại Việt, Ðại Cồ Việt. Người đọc được nghe "viên đá cuội mấy
nghìn năm cô quạnh, hồn tôi đâu trong dấu tích hoang đường".
Viên đá cuội có mấy nghìn năm tuổi thọ? Viên đá cuội anh
linh giống nòi, viên đá tự tồn, độc lập từ thuở sơ khai đã
lênh đênh thăng trầm cùng dòng sử Việt từ thủa dựng nước.
Qua các bài thơ tù trong tập Giấc Mơ Trường Sơn, với
những ý thơ, lời thơ mang nặng tình quê hương dân tộc, mang nặng tính tự tồn, tự
chủ mà tâm tư Thầy luôn cưu mang nặng trĩu vận mệnh của
nước nhà, của khúc quanh lịch sử. Một biến cố tan hoang, xé
nát da thịt của quê hương:
Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen huyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho đêm dài lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê Cha
Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
Người ở lại giữa lòng tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương.
(Tôi Vẫn Ðợi - Tuệ Sỹ)
Thầy như người con của quê hương bị giam hãm trong ngục
tù thời đại, nhưng cũng từ ngục tù đó Thầy vẫn đợi một đêm gió lặng, sóng
êm. Một đêm tối trăng nhưng thanh bình an lạc để tự mình nhìn
sâu vào con đường lịch sử. Nhìn hun hút diệu vợibằng đôi mắt đen
huyền, bằng ánh mắt của tự ngàn xưa, để thấy trên con đường dài lịch
sử ấy như một dòng sông tràn máu lệ quê Cha. Dòng sông lịch sử đó,
từ đầu nguồn lịch sử cho đến hôm nay đã mang về bao phù sa màu mỡ
làm tươi tốt ruộng đồng, dân sinh thịnh vượng. Dòng sông lịch sử chuyên
chở bao máu xương, nước mắt của nhiều thế hệ tiền nhân, những người
đã hy sinh lót đường cho hàng hậu tấn tiến tới, cho hàng con
cháu tiếp nối xây dựng cơ đồ non sông. Và cũng trong tình tự sông
núi quê hương, trong thân phận người con dân nước Việt, tâm tư Thầy như
không phút nào nguôi ngoai, phai lãng cái nhớ, cái nghĩ, cái suy tư, ước
vọng để tựu thành dòng sử mệnh quê hương, để tựu thành dòng máu anh
linh của dân tộc và để tựu thành cái hùng, dũng, trường tồn tịnh
lạc cho giá trị sống của dân mình. Do vậy, lời thơ và tâm thức Thầy
hòa quyện vào nhau không thể phân ly con người và quê hương. Bằng tình
tự đó, quê hương dân tộc là mình và mình là quê hương dân tộc:
Tiếng trẻ khóc ngân vang lời vĩnh cửu
Từ nguyên sơ sông máu thắm đồng xanh
Tôi là cỏ trôi theo dòng thiên cổ
Nghe lời ru nhớ mãi buổi bình minh
(Bình Minh - Tuệ Sỹ)
Tiếng trẻ khóc mà phải ngân vang lời vĩnh cửu, hay là lời
thề nguyền xây dựng quê hương? Tiếng trẻ khóc đó là dân tộc Việt
Nam? Là giống nòi Lạc Việt? Là tiếng nói đầu đời của con dân Hùng Vương? Từ tiếng
khóc đó vang dội về thủa nguyên sơ, buổi ban đầu vào thời lập
quốc, từ thuở hồng hoang Tổ tiên khai phóng đất nước đem máu xương
mình tưới thắm ruộng đồng. Công đức ấy ngàn năm còn vang vọng, còn tồn
tại vĩnh cửu trong lòng người dân Nam.
Suốt một chiều dài lịch sử dân tộc, có lúc quanh
co, khúc khuỷu, có lúc bằng phẳng, thênh thang nhưng Tổ tiên mình, anh
hùngcủa quê hương mình, dân tộc yêu thương của mình đã tốn hao bao
xương máu: có lúc chống giặc ngoại xâm để giữ yên sơn hà xã tắc, có lúc phải
canh tân đất nước để theo kịp nền văn minh tiến bộ của loài
người và cũng có lúc phải xây dựng nền hòa bình an lạc
để khai mở, bảo tồn nền văn hóa dân tộc trong ý thức chống
ngoại xâm. Bằng giá trị kiêu hùng của "sông máu thắm đồng
xanh" thì Thầy là ngọn "cỏ trôi theo dòng thiên cổ" mà ngẩng
đầu cao để nghe lời ru từ thủa bình minh.
Ví mình như ngọn cỏ, sống trên mảnh đất quê hương, cùng nổi trôi
theo vận nước dân tộc mà không tách lìa khi đất nước điêu linh.
Ðọc thơ Thầy Tuệ Sỹ, ta thấy rạt rào tình tự dân tộc,
ngập tràn chí nguyện cho quê hương và luôn giữ gìn kỷ cương giềng
mối của Tổ tiên, làng nước, hầu như những bài thơ của Thầy đều thấp
thoáng hình ảnh của cánh đồng, ruộng lúa, của nương khoai, luống cải,
của đồi núi biển khơi, của sông tràn nước lũ và cát bụi mơ hồ khói
sương tóc trắng.
Qua một số bài thơ tiêu biểu được trích dẫn trong tập
Giấc Mơ Trường Sơn của Thầy Tuệ Sỹ: chúng ta đã thấy được đôi phần nỗi
niềm tâm sự của Thầy, của người dân đang sống giữa lòng quê hương, băn khoăn về vận
mệnh đất nước.
III. Ngục Trung
Mị Ngữ
Tiếp theo Giấc Mơ Trường Sơn là Ngục
Trung Mị Ngữ. Thơ trong tập Ngục Trung Mị Ngữ là thơ
chữ Nho được làm trong thời gian ở tù - mang bản án tử hình
- nghe nói khá nhiều, nhưng đến với người đọc chỉ khoảng đôi mươi bài. Trong
đôi mươi bài thơ chữ Nho ấy chúng ta thấy cái tâm hồn an
nhiên tự tại, thư thái xuất trần siêu thoát, trong khí khái
của một người tù mà không bị câu thúc giam hãm, qua bài Trách Lung:
Trách lung do tự tại
Tản bộ nhược nhàn du
Tiếu thoại độc cảnh hưởng
Không tiêu vĩnh nhật sầu
Dịch:
Lồng chật vẫn tự tại
Qua lại như nhàn du
Nói cười chơi với bóng
Tiêu sái tù thiên thu
Ðây là tâm lượng của người tu, thân tù mà tâm
không tù. Dù ở trong bốn vách lao lung mà vẫn an nhiên tự tại qua
lại nhàn du, vẫn nói cười với bóng hình của mình, được xem như người bạn
cố tri luôn có mặt để nói, để chia sẻ có nhau. Tâm tư này dù có ở bất cứ
nơi đâu cũng không bị duyên trần ràng buộc, không bị chi phối bởi ngoại
cảnh nhân duyên, vì đã tự làm chủ bản thânmà không bị hệ lụy, bị
sự sai thù, chung biệt của thế gian, một khi tâm đã an thì ba cõi cũng
được an. Chúng ta hãy nghe tâm an nơi cõi Thiền qua bài thơ Biệt Cấm
Phòng của Thầy:
Ngã cư không xứ nhất trùng thiên
Ngã giới hư vô chân cá thiền
Vô vật vô nhơn vô thậm sự
Tọa quan thiên nữ tán hoa miên
Dịch: Xà Lim
Ta ở tầng Trời không vô biên
Nơi ấy tịch nhiên Thiền thật Thiền
Không vật không người không đa sự
Nhìn xem hoa vũ bởi Tiên thiên.
Ðọc qua những dòng thơ này, chúng ta không dám lạm bàn
vì rằng đem cái tâm phàm tục, hữu hạn của mình mà luận giải cái
tâm vô tâm, cái tướng phi tướng, thì làm sao dám bình luận, lý giải?
Chỉ có điều là chúng ta hãy lắng tâm chiêm nghiệm một tâm
thức siêu thoát, tùy theo chỗ ở thường an lạc của Thầy
mà học mà tu, mà cầu mong thành đạt đôi phần như vậy. Và, chúng
ta hãy theo Thầy tiến thêm bước nữa để thấy lòng Thầy thanh thản như
làn mây giữa bầu trời vô tận, qua bài Tự Vấn:
Vấn dư hà cố tọa lao lung
Dư chỉ khinh yên bán ngục khung
Tâm cảnh tương trì kinh lữ mộng
Cố giao già tỏa diện hư ngung
Dịch: Hỏi Mình
Hỏi mình sao phải lao tù?
Song thưa cửa ngục có tù được mây?
Kiên trì cuộc lữ vàng bay
Lời xưa còn đó phút giây không sờn.
Rõ thật, tâm không ba ngàn thế giới đại đồng.
Tâm đã không thì ai giam giữ được? Mây đã nhẹ bềnh bồng trôi thì cửa
ngục song thưa nào nhốt được gì?
Thầy như áng mây trôi giữa bầu trời vô định!
IV. Những Ðiệp Khúc
Cho Dương Cầm
Qua hai tập thơ Giấc Mơ Trường Sơn và Ngục
Trung Mị Ngữ đã chứa đựng những tâm tình chất ngất, có đủ mọi hình
ảnh, tâm tư, tri thức hoặc vô thức, phân biệt hay vô
phân biệt, được chuyển tải từ nơi đó. Giờ chỉ là Những Ðiệp Khúc Cho Dương Cầm:
Số 3:
Trên dấu thăng
âm đàn trĩu nặng
Khóe môi in dấu hận nghìn trùng
Âm đàn đó
chìm sâu ảo vọng
Nhịp tim ngừng trống trải thời gian
Thời gian ngưng
mặt trời vết bỏng
vẫn thời gian
sợi khói buông chùng
Anh đi mãi
thềm rêu vơi mỏng
Bởi nắng mòn
cỏ dại ven sông
Số 8:
Công Nương bỏ quên chút hờn trên dấu lặng
Chuỗi cadence ray rứt ngón tay
Ấn sâu xuống ưu phiền trên phím trắng
Nửa phím cung chỏi nhịp lưu đày
Số 13:
Ô hay, giây đàn chợt đứt.
Bóng ma đêm như thật.
Cắn đầu tay giá băng.
Ðiệp khúc lắng trầm trong mắt.
Rồi phím đàn lơi lỏng;
Chùm âm thanh rời, ngón tay rát bỏng
Chợt nghe nguyệt quế thoáng hương
Ðiệp khúc chậm dần theo dấu lặng.
Số 18:
Tiếng xe đùa qua ngõ
Cành nguyệt quế rùng mình
Hương tan trên dấu lặng
Giai điệu tròn lung linh
Bầu trời thơ của Thầy đầy hương sắc, có đủ hình hài dáng
dấp chân thân, thoạt hiện, thoạt biến, người viết chẳng có thể dùng lời diễn
đạt, chỉ như bâng quơ đâu đó một vài cảm xúc hoang sơ, thô
lậu để đóng góp cho cái gọi là đọc thơ cho nghe giữa một giảng đường đông thính
chúng. Chỉ đọc không thôi, chúng ta đã thấy có một cái gì đó dị
thường được ẩn kín trong thơ, thì ta nào dám tỏ bày ngôn từ bình
phẩm. Chúng ta hãy nghe triết gia Phạm Công Thiện đọc thơ
Tuệ Sỹ: "Nói rằng thơ Tuệ Sỹ hay hoặc không hay thì lố bịch. Chỉ có
thể nói rằng thơ Tuệ Sỹ đáng được chúng ta đọc đi đọc lại nhiều lần
và suy nghĩ lan man hoặc cảm nhận tùy hứng, Ít nhất có một
người làm thơ đáng cho ta đọc giữa "sống chết với điêu tàn vờ
vĩnh" để cho chúng tacòn có được "một buổi sáng nghe chim trời đổi
giọng." Ðặc tính thứ ba và cuối cùng của thơ Tuệ Sỹ chính là tiếng
thơ đổi giọngcủa một loài chim đi từ cõi xa xưa của vô biên tế kiếp
trong lòng sâu thẳm của tính mệnh quê hương."
Và nơi đây chúng ta cũng thử nghe lời nói của
Bùi Giáng, khi đọc thơ Thầy: "Tuệ Sỹ là một vị sư, ông viết văn quá nghiêm
túc, nhưng sở tri của ông về Phật Học quả thật quảng
bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia
còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u..." Và Bùi Giáng đã đi
vào cõi thơ Tuệ Sỹ: "Mới đọc bốn câu thôi - trong bài thơ Khung Trời
Hội Cũ, tôi cũng đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi
dạ."
Rồi thi sĩ thảng thốt:
"Tôi hoảng vía đề nghị: Ðại sư nên gác bỏ viết sách đi và
làm thơ tiếp nhiều cho, nếu không thì nền thi ca Việt mất
đi một thiên tài quá lớn."
Ðó là hai nhận xét của các bậc Triết gia, Thi sĩ
của chúng ta, qua phạm trù thi ca, ngôn ngữ, triết lý của
Thầy Tuệ Sỹ.
V. Ðôi Dòng Tư
Tưởng Triết Học
Song hành với ý thơ lời nhạc, Thầy như một học giả hay
đúng hơn là nhà khảo cứu Tư tưởng Phật Học qua các công
trình tư duy triết lý Long Thọ và Biện Chứng Pháp,
hay Cogito Bát Nhã - Dưới ánh sáng của hiện tượng luận để từ
đó đưa đến sự so sánh các vấn đề Triết Học Ðông Tây
Cogito trong Triết Học Phật giáo, như là Thiền: Con đường thể
nghiệm Cogito của Ðức Phật.
Thầy đã dành nhiều thời giờ nghiên cứu Triết Học
Tánh Không hay dịch thuật Kinh Luật Tạng là yếu chỉ của
sự tu tập, là kỷ cương giềng mối, là mạng mạch của Tăng già để
cho thế hệ tân học Tỳ Kheo đọc tụng. Ấy là hoài bão của Thầy
trên con đường phụng sự cho thế hệ kế thừa.
Thầy xây dựng tư tưởng của mình trên nền tảng Triết
học thực dụng và chính đó là tiêu đích để trao truyền cho nhiều thế
hệmai sau. Tư tưởng thực dụng ấy, được thể hiện qua
bài thơ Tiểu Khúc Phật Ðản của Thầy để thấy một Triết lý như thật. Một nhân
sinh quan thực tại trong phạm trù thế gian và làm
sao vượt thoát cái thực tại thế gian để có được một nền Triết
học giác ngộ:
"Thời gian vỗ cánh ngang đầu
Sinh, già, bịnh, chết, tránh đâu vận cùng
Khổ đau là khối tình chung
Ai nâng cõi thế qua bùn tử sinh"
Thầy đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam những công
trình khảo cứu, dịch thuật, thi văn, tư tưởng Triết học để
khu vườn văn hóa Việt Nam thêm nhiều hương sắc.
Nguyên Siêu
(Ðêm Thơ Nhạc Tuệ Sỹ và Trần Trung Ðạo - Chicago - 21 tháng 10,
2006)
Trích: Tuệ Sỹ - Đạo Sư, Thơ, và Phương Trời Mộng (tập III) do Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang xuất bản tại Hoa Kỳ, năm 2013.
Trích: Tuệ Sỹ - Đạo Sư, Thơ, và Phương Trời Mộng (tập III) do Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang xuất bản tại Hoa Kỳ, năm 2013.