Thursday, December 14, 2023

Thích Viên Lý: Đạo Phật và Giáo Dục | Buddhism and Education

 

Vấn đề giáo dục là vấn đề lớn, là vấn đề lâu dài, trọng đại và là vấn đề thiết cốt trong đời sống của xã hội nhân loại. Khi nói đến vấn đề giáo dục, đặc biệt là sứ mệnh giáo dục trong Đạo Phật, quả thật đó là điều bất khả thuyết vì lẽ nó nhiều đến vô lượng. Bản thân của Đạo Phật tự nó chính là giáo dục, Pháp môn mà đức Phật khai thị là vô lượng (vô lượng pháp môn); tuy nhiên, vì sự giới hạn của thời lượng, do vậy, có 5 đặc điểm chính chúng tôi muốn được chia sẻ với chư vị, đó là:

1/Tiêu đích giáo dục (cứu cánh)

Nền giáo dục của Phật giáo là nền giáo dục cần được hiểu và đánh giá như là chính nó đang là. Giáo dục phải đào tạo được những con người với tất cả ý nghĩa của NGƯỜI, một con người mà từ đạo đức đến trí tuệ đều trở thành nghi biểu mẫu mực cho xã hội, ở mọi thời đại và quốc độ. Một con người sống vì người, cho người, với tất cả ý thức trách nhiệm của một con người. Khi đề cập đến Nghiệp, đức Phật muốn đặc biệt nhấn mạnh đến tinh thần trách nhiệm do ý thức được mình là người thừa tự của chính những hành tác mà mình đã tạo. Nói cách khác, mình là người chịu trách nhiệm hoàn toàn về những gì mà mình nghĩ, nói và hành động. Chúng ta là kết quả của một chuỗi yếu tố và điều kiện (nhân duyên) hỗn hợp được liên kết trùng điệp qua nhiều thời gian. “Duy tuệ thị nghiệp” là tinh thần giáo dục mà ta có thể gọi là một Nền Giáo Dục Toàn Giác, một nền giáo dục Nhất thiết chủng trí. Nếu suy nghĩ thật kỹ, ta sẽ thấy cứu cánh tối hậu hay tiêu đích giáo dục của Đạo Phật được đặt trên nền tảng của hai yếu tính cốt lõi: Thứ nhất: Tịnh hóa tự ngã, và, thứ hai: Lợi tế quầnsanh, nói cách khác, Tự giác, Giác tha và Giác hạnh viên mãn là cứu cánh của một nền giáo dục toàn diện và toàn giác mà Đạo Phật luôn hướng đến. Thiếu những yếu tính quan thiết này, Phật giáo không còn là Phật giáo. Vì Đạo Phật là đạo của Hòa bình, của Từ bi, Trí tuệ, Giác ngộ, Giải thoát. Đạo Phật là đạo của sự sống và sức sống, thế nên, trách nhiệm giáo dục con người có được một đời sống đạo đức tâm linh tốt đẹp, thánh thiện, phù hợp với chánh pháp, chính là đường hướng, là tiêu đích giáo dục thuần chánh của Đạo Phật.

Trên phạm trù thế tục, đối với xã hội, để có được một đời sống thật sự tốt đẹp, đức Phật dạy con người xây dựng sáu mối tương giao giữa Cha mẹ và Con cái; Thầy và Trò; Vợ và Chồng; Cá nhân và Quyến thuộc, Thân hữu, Láng giềng, Đoàn thể; giữa Chủ và Công nhân, giữa Tu sỹ và Cư sỹ[1]

Nhằm duy trì sự thịnh vượng, vững mạnh của một quốc gia, Ngài dạy 7 nguyên tắc xây dựng và phát triển làm nhụt chí những ai muốn cậy vào sức mạnh quân sự để gây hấn, thôn đoạt lãnh thổ và mười chánh sách để có được một chính phủ xứng đáng mà trong kinh Pháp Cú Sớ và Jātakagọi là Thập Vương Tử Pháp.

Ngài cũng dạy về nguyên nhân của nghèo đói và tệ nạn của xã hội đồng thời đề ra phương pháp cải thiện thực trạng xã hội qua việc nâng cao đời sống kinh tế, cải thiện kế hoạch canh tác, cung cấp phương tiện cho giới nông dân, và nguồn vốn đầu tư cho giới thương gia, trả lương xứng đáng cho giới công nhân (Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống, Trường Bộ Kinh 3 số 26).

Ngài dạy về cách chăm sóc và xây dựng hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình, có tay nghề vững, có khả năng điều hành, lãnh đạo tốt, siêng năng, cần mẫn. Biết quân bình ngân sách, biết tạo lập tài sản, biết bảo vệ sức khỏe, biết trưởng dưỡng tuệ giác, biết cải tổ đời sống của xã hội trên mặt vật chất lẫn tâm linh v.v…

Với việc bảo vệ chánh pháp, đức Phật dạy “Thất bất thối pháp” nhằm giúp cho chánh pháp được trường tồn, bảo vệ được hòa khí, giải quyết tận gốc những nan đề phức tạp, 7 pháp Tỳ ni để hóa giải mọi thị phi tranh chấp, 6 phép Hòa kính để chung sống hòa hợp, lâu dài và cả một tạng Luật để sách tấn hàng xuất gia và tại gia có một đời sống thanh tịnh, giải thóat, đó là chưa nói đến Kinh tạng, một kho tàng chân lý đồ sộ mà mỗi chữ mỗi câu đều là những phương pháp giáo hóa vi diệu có khả năng giúp người trút bỏ mọi hệ lụy, ưu não nhằm thăng hoa cuộc sống một cách nhanh chóng và hữu ích.

Với bản thân, đức Phật dạy, cần phải có niềm tin vững chãi vào tự thân mà đừng nương tựa vào một cái gì khác, Đức Phật đã khẳng định:
— “Này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác …

Này Ananda, ở đời, vị Tỷ kheo trú quán trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Trú quán thọ trên các cảm thọ … trú quán tâm trên các tâm, trú quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.

Như vậy này Ananda, Tỷ kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa một cái gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một cái gì khác.

Này Ananda, những ai, hiện nay hay sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa một cái gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi”[2].

Đức Phật còn dạy, “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, vì có Phật tánh nên mỗi một chúng ta đều có khả năng thành Phật và chắc chắn chúng ta sẽ thành Phật trong một ngày nào đó nếu chúng ta dụng công hành trì chánh pháp. Chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào khả năng thành Phật của chính mình và tin tưởng vào khả năng đóng góp của mình vào tiến trình thăng hoa của thế giới nhân loại. Ngoài việc tự tin, Đức Phật dạy chúng ta phải tự chủ, tự độ, tự nguyện, vô chấp và vị tha:

“Không phải chỉ Alara Kalama có lòng tin, Ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ Alara Kalama có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ Alara Kalama có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ Alara Kalama có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ Alara Kalama có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy ta phải cố gắng chứng cho được pháp mà Alara Kalama, sau khi tự tu, tự chứng, tự đạt đã tuyên bố. Rồi này các Tỷ kheo, không bao lâu, Ta tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú”[3]

Kinh Duy Ma dạy rằng Bồ tát hành đạo cần phải vào nơi chốn bùn nhơ tội lỗi; vì những người xấu ác chính là đối tượng cứu độ của Bồ tát. Lời Đại thệ nguyện của Tôn giả A Nan và Bồ tát Địa Tạng đã xác quyết tinh thần vị tha vô ngã của Phật giáo như thế nào, nhất là qua Tứ Hoằng Thệ Nguyện.

Nói chung, không có bất cứ lãnh vực nào trong đời sống mà không được Đạo Phật hướng dẫn một cách cụ thể, nhất là mặt nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, cải thiện xã hội, giải thoát khổ đau, sanh tử cho toàn thể chúng sinh, từ mặt nhân sinh quan đến vũ trụ luận, từ con người đến tất cả sinh loại, từ hữu tình đến vô tình, từ ảo tưởng đến thực tại, từ thế giới nhị nguyên phân biệt đến pháp giới bất nhị bình đẳng vô sai biệt, có thể nói, phương pháp giáo dục của đức Phật là hằng hà sa số thể loại, đó chính là lý do tại sao các nhà học giả tây phương, đặc biệt là những vị giáo sư lỗi lạc tại các trường đại học hiện đại nổi tiếng trên thế giới đã hết sức ngạc nhiên và khâm phục Phật giáo khi nghiên cứu và bắt gặp những điều mà theo họ vượt ngoài sức tưởng tượng của mình. Nói tóm, nền giáo dục của Phật giáo bao gồm cả: Đạo dục, Tâm dục, Trí dục, Tín dục, Kỷ dục và Thể dục 

2/ Phương tiện giáo dục

Phương tiện giáo dục trước hết phải được hiểu như chính là cứu cánh, vì cứu cánh và phương tiện tuy hai nhưng lại là một. Trong cứu cánh vốn tự có sẵn phương tiện và ngược lại. Phương tiện tốt, cứu cánh tốt, phương tiện xấu, cứu cánh xấu. Phương tiện ở đây, trước, trên và quan trọng hơn hết phải là bản thân của những nhà làm công tácgiáo dục, chứ không phải chỉ thuần là những thiết bị giáo dục, dù thiết bị giáo dục là nhữngphương tiện không kém phần quan trọng. Người đóng vai trò giáo dục phải nắm vững mục tiêu giáo dục, phải có chính sách giáo dục tốt, phải tự thấy trách nhiệm, tận tụy với chức năng của mình, thấu triệt những nan đề đặt ra cho bản thân. Người đảm trách sứ mệnh giáo dục theo đức Phật phải cần tự trang bị cho mình một cách đúng mức về Tam Vô Lậu Học (Giới, Định,Tuệ). Trên căn bản của ba môn học này, người làm công tác giáo dục sẽ có đủ 3 tiêu chuẩn tối thiết đó là: Đức năng, Trí năng và Kỹ năng. Đây là những tiêu chuẩn quan yếu mà trong vai trò của một nhà giáo dục cần phải được ưu tiên hàng đầu. Người đóng vai trò giáo dục đúng nghĩa theo Đạo Phật là người luôn thể hiện đúng đắn ba chuẩn mực căn bản: Thân giáo, khẩugiáo và ý giáo, và cần phải Khế thời, Khế Lý và Khế Cơ.

3/ Ưu tiên hóa giáo dục

Đạo Phật đặc biệt quan tâm đến vai trò giáo dục và xem giáo dục như một sứ mệnh ưu tiên hàng đầu. Trong suốt 49 năm ròng rã, không ngày nào đức Phật không giáo hóa. Ngài đã tuyệt đối trung thành với sứ mệnh giáo hóa đến hơi thở cuối cùng mà pháp hội Niết Bàn tại rừng Kushinagar là pháp hội đặc biệt quan trọng. Châm ngôn “Hoằng pháp thị gia vụ, Lợi sanh vi sự nghiệp” đủ nói lên sự quan tâm sâu xa của Đạo Phật đối với sứ mệnh giáo dục như thế nào. Đức Thế Tôn luôn luôn sách tấn đồ chúng là phải nỗ lực tinh cần trong vấn đề tu học, tu học liên tục, thường xuyên không gián đoạn (Ngài thường dùng hình ảnh của một người cọ hai thanh cây để lấy lửa ra ví dụ). Điều này có nghĩa là cần sửa đổi, tu nghiệp, cải tổ, cập nhật hóa… một cách miên tục, không gián đoạn, đặc biệt giáo pháp Tứ Chánh Cần đã chứng minh rất rõ thực tế đã đề cập. Do vậy, đối với Đạo Phật người nắm vai trò giáo dục cần thường xuyên quan tâm cải tổ hệ thống giáo dục, xây dựng một nền giáo dục hiện đại, đa dạng, tiên tiến, toàn diện và luôn phù họp với thời đại. Cần cải thiện kỹ năng và nội dung giáo dục, chấn hưng và thiết định hóa chương trình, tổ chức giáo dục trong tinh thần bình đẳng, cởi mở vì công ích. Chương trình giáo dục phải là một chương trình thù ứng với khả năng của từng đối tượng thụ huấn, phải thực tiễn, khả thi và đáp ứng thỏa đáng nhu cầu xã hội, thời đại, thể hiện cao độ lý tưởng của Bồ tát đạo, đặc biệt giải quyết rốt ráo khát vọng bức thiết của con người: Giải thoát sanh tử, khổ đau, thể nhập Niết bàn an tịnh, hạnh phúc đích thật.

4/ Phương Pháp Giáo Dục

Phương pháp giáo dục của đạo Phật là phương pháp rất hợp lý, khoa học và hết sức thực tiễn, hữu hiệu. Thường thì mỗi khi đức Thế Tôn thuyết giáo, Ngài kiên nhẫn và bi mẫn phân tích vấn đề một cách tỉ mỉ từ phạm trù của hiện tượng giới đến bản chất củasự vật, từ nguyên nhân đến kết quả, từ tục đế đến chân đế. Ngài không chủ trương bóp méo sự thật, ngược lại, trong tâm lượng của một bậc Đạo Sư, Ngài dạy đệ tử của mình phải khảo sát các pháp, tức mọi hiện tượng một cách tường tận và khoa học, khách quan (gạt bỏ mọi thủ kiến) để thể nghiệm chân xác và như thật bản thể hay tự tính của thực tại. Đây là phương pháp giáo dục của bậc Điều Ngự Trượng Phu, bậc Đại Giác.

Đức Phật thường căn cứ vào những sự kiện cụ thể để chỉ dạy, qua những chỉ dẫn của Ngài về giáo pháp Tứ Diệu Đế, Kinh Pháp Cú, Luật Tạng, 12 bộ kinh (chỉ cho thể loại một cách tổng quan chứ nếu nói đủ thì phải nói là vô lượng pháp môn) ta có thể chứng minh được điều đó. Những lời Ngài dạy rất sinh động, cởi mở, đi thẳng vào trái tim của người nghe, nhờ ánh sáng chân lý của bậc tuệ giác siêu việt chiếu vào khiến tâm thức của từng đối tượng tan đi tất cả những vô minh, phiền não. Tác dụng của những lời dạy của đức Phật quả thật rất khó nghĩ bàn, thật cao siêu, màu nhiệm, nhưng luôn luôn có sự tương quan với lịch sử và những chuyển biến mang tính thời sự.

Bốn tiêu chuẩn (nguyên tắc), tức là Tứ Tất Đàn (siddhāntas) mà đức Phật thường xuyên khai thị đã thể hiện rõ điều đó: Thế giới tất đàn, Vị nhân tất đàn, Đối trị tất đàn và Đệ nhất nghĩa tất đàn.Qua bốn Tất Đàn trên, chúng ta thấy rằng:

1/ Tiêu chuẩn thứ nhất căn cứ trên những căn bản nhận thức hoàn toàn thù ứng với thế giới. (Trên phạm trù tục đế dù ta biết mọi hiện tượng đều giả hữu, nhưng nếu không có phương tiện thiện xảo được ứng dụng một cách tuyệt hảo nhằm khai dụng trọn vẹn bi nguyện và trí lực thù thắng thì không thể có được hoạt dụng bất khả tư nghì của chánh pháp giữa một thế giới đầy mộng tưởng, điên đảo và khổ đau.)

2/ Tiêu chuẩn thứ hai căn cứ trên sự nhận thức của thính chúng đương cơ, của con người. Phù hợp với hoàn cảnh, trình độ, ngôn ngữ v.v… (nhưng cũng có người bảo rằng vị nhơn chứ không vị kỷ, ở một trình độ nào đó ta cũng có thể thông cảm được)

3/ Tiêu chuẩn thứ ba: Đối trị cả thân bịnh và tâm bịnh, do đó nền giáo dục của Đạo Phật là nền giáo dục có khả năng giải quyết những vấn đề của xã hội hiện thực từ kinh tế, đến y học, kỹ thuật v.v… Nói chung là làm cho con người hết khổ, có một đời sống hạnh phúc, an tịnh, giải thoát thật sự.

4/ Đệ nhất nghĩa là tiêu chuẩn thứ tư đặt căn bản trên chân đế, thắng nghĩa đế, hay xuất thế gian đế. Đây là tiêu chuẩn tuyệt đối, thực tại siêu việt. Tiêu chuẩn hoàn toàn đặt sự nhận thức trên sự thật như thật.

–  Bốn nguyên tắc quan trọng khác nữa, đó là Tứ y:1. Y pháp bất y nhân; 2. Y nghĩa bất y ngữ; 3. Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa; 4. Y trí bất y thức. Và, còn cả hàng ngàn pháp môn màu nhiệm khác mà chúng ta không thể nói hết và nói đủ. 

5Hiệu năng giáo dục

Đạo Phật đặc biệt nhấn mạnh đến  hiệu năng của  phương pháp hành trì, hay nói khác hơn dụng lực hay công năng của sự tu tập. Đạo phật không chủ trương trao cho con người một số kiến thức vô bổ, cũng không nhằm thỏa mãn nhu cầu tri thức thời đại mà chính là đặc biệt chú trọng đến hiệu năng của tiến trình tu chứng. Đây chính là phương pháp giáo dục đặc thù của Phật giáo.

Nền giáo dục của Phật giáo là nền giáo dục khai phóng, có khả năng giải thoát mọi cá thể ra khỏi mọi phạm trù tri thức ốc đảo. Ở thời đại chúng ta, để kế thừa nền giáo dục siêu xuất đó, trên căn bản của một nhận thức như thật, chúng ta cần phát huy tinh thần giáo dục thù ứng và diệu dụng của Phật giáo, tổng hợp những tinh tủy của mọi nền văn hóa để có thể nhiếp hóa nhằm bồi đắp nhưng đồng lúc triển khai đúng mức bản sắc đặc thù và những tinh hoa đặc hữu của dân tộc nhằm đưa dân tộc đến chỗ tự do, dân chủ, phồn thịnh và hạnh phúc chân thật. Đặc biệt nền giáo dục của Phật giáo là phương pháp giáo dục giúp con người trở thành bậc đại giác, toàn trí, toàn đức, có khả năng mang lại sự lợi ích to lớn và lâu dài cho muôn sinh.

Đạo Phật chủ trương lấy con người làm trung tâm điểm để cải hóa và xây dựng xã hội. Con người tốt, xã hội tốt và ngược lại. Giáo dục con người để trở thành một tài bảo của thế giới nhân loại là bước căn bản và hết sức quan yếu mà Phật giáo gọi là Nhân Thừa trong Ngũ Thừa giáo. Con người là tài nguyên lớn vô giá như Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Nhân thị tối thắng – Con người là trên hết”; do vậy, cần đầu tư vào việc giáo dục con người trên một quy mô quốc gia theo nền giáo dục hiện đại và toàn diện là một nhu cầu bức thiết mà chúngta cần hướng đến. Suốt 49 năm du phương hóa độ, sứ mệnh trung tâm của đức Phật là tuyên giảng con đường giải thoát, đề cao khả tính giác ngộ của mọi cá thể một cách bình đẳng và tuyệt đối.

Truyền thống giáo dục của Phật giáo là truyền thống giáo dục toàn giác. Đức Phật được tôn xưng như là một nhà giáo dục vĩ đại và thánh thiện, là bậc đạo sư tiêu biểu, mẫu mực (bậc Điều Ngự, đấng phước trí vẹn toàn), đức Phật chủ trương giáo dục con người giải thoát mọi kiến thủ để đạt được tuệ giác siêu việt. Ta thường nghe nói nhiều về sự Chứng Đạo, Đạt Đạo, Thành tựu đạo quả v.v… đó là cốt ý muốn nhấn mạnh đến thành quả, hiệu quả, cứu cánh tối hậu chứ không là một lý thuyết thuần túy.

___________________________

[1] Trường III, trang 101, Tương V, 170
[2] Trung I, 164b
[3] Trung I, 164b

Buddhism and Education

Thích Viên Lý

Education is a major, long-term, significant, and essential societal issue. Education, especially the educational mission in Buddhism, is indeed indescribable due to its immense scope. Buddhism itself is education, and the teachings that the Buddha introduced are innumerable (innumerable dharma gates); however, due to time constraints, there are five main characteristics that we want to share with you:

1-Educational Purpose (ultimate goal)

The foundation of Buddhist education needs to be understood and evaluated as it truly is. Education must train people in the complete sense of BEING HUMAN, who becomes a model of morality and wisdom for society in every era and country. A person who lives for others, with others, with all the responsibility of being human. When referring to Karma, the Buddha particularly emphasized the spirit of responsibility arising from the awareness that one is the heir of one’s actions. In other words, one is fully responsible for what one thinks, says, and does. We result from a series of factors and conditions (dependent origination) intertwined over time. “Wisdom is Karma” is the spirit of education called an All-Enlightening Education, an education of Universal Intelligence. If thoughtfully considered, the ultimate goal or the Purpose of Buddhist education is based on two core elements: Firstly, Purifying oneself, and secondly, Benefiting all sentient beings; in other words, Self-Awakening, Awakening others, and the Perfection of Practices are the goals of a comprehensive and enlightened education that Buddhism always strives for. Without these essential elements, Buddhism is no longer Buddhism. Buddhism is the path of Peace, Compassion, Wisdom, Enlightenment, and Liberation. Buddhism is the path of life and vitality. Therefore, the responsibility of educating people to have a good, sacred, spiritual life and conforming to the Dharma is pure Buddhist education’s direction and ultimate goal.

In the secular realm, for a perfect life in society, the Buddha taught people to build six relationships between Parents and Children, Teachers and Students, Husbands and Wives, Individuals and Relatives, Friends, Neighbors, Communities between Employers and Workers, between Monastics and Laypeople[1]

To maintain the prosperity and strength of a nation, He taught seven principles of building and development to discourage those who rely on military power to wage war, annex territories and ten policies for a deserving government as mentioned in the Dhammapada Commentary and Jātaka as the Ten Duties of a King.

He also taught about the causes of poverty and social evils and proposed methods to improve the social situation by improving economic life, agricultural planning, providing means for farmers, and investment capital for merchants, paying fair wages to workers (Wheel-Turning Sage King Sutta, Long Discourses 3 number 26).

He taught me how to care for and build personal and family happiness, have solid skills, good management and leadership abilities, and be diligent and hardworking. Know how to balance the budget, create assets, protect health, nurture wisdom, reform social life materially and spiritually, and so on.

In protecting the Dharma, the Buddha taught the “Seven Principles of Non-Decay” to help preserve the Dharma, maintain harmony, and resolve complex issues, Seven Principles for Monastics to resolve all disputes, Six Harmonies for long-term harmonious coexistence, and a whole Vinaya Pitaka to guide monastics and laypeople to live a pure and liberated life. This does not even mention the Sutta Pitaka, a vast treasure of truth where every word and sentence is a transformation method capable of helping people quickly and effectively elevate their lives by shedding all afflictions and worries.

For oneself, the Buddha taught that one must have strong faith in oneself and not depend on anything else; the Buddha affirmed:
— “Ananda, be a lamp unto yourself (atta-dipà viharatha), rely on yourself (attàsaranà) and not on anything else. Use the Dharma as your lamp, use the Dharma as your refuge, and not anything else, and so on.

Ananda, a monk, dwells in life contemplating the body with ardor, mindfulness, and restraint, overcoming covetousness and grief in the world. He dwells contemplating feelings in feelings – contemplating mind in mind, contemplating phenomena in phenomena, with ardor, mindfulness, and restraint, overcoming covetousness and grief in the world.

Thus, Ananda, a monk, is a lamp unto himself, relying on himself, not depending on anything else, using the Dharma as his lamp, using the Dharma as his refuge, not relying on anything else.

Ananda, those who now or after I am gone, is a lamp unto themselves, relying on themselves, not depending on anything else, using the Dharma as their lamp, using the Dharma as their refuge, not relying on any other Dharma, those, Ananda, are the supreme monks of mine if they are eager to learn”.

The Buddha also taught, “All sentient beings have Buddha nature” because of having Buddha nature, each of us has the potential to become a Buddha, and indeed, we will become Buddhas one day if we diligently practice the Dharma. We must have absolute faith in our potential to become a Buddha and trust in our ability to contribute to the progression of human civilization. Besides self-confidence, the Buddha taught us to be autonomous, self-controlled, voluntary, unattached, and altruistic:
“Not only did Alara Kalama have faith, I also have faith. Not only did Alara Kalama have effort, but I also have effort. Not only did Alara Kalama have mindfulness, but I also have mindfulness. Not only did Alara Kalama have concentration, but I also have concentration. Not only did Alara Kalama have wisdom, but I also have wisdom. So, I must strive to realize the Dharma that Alara Kalama declared after self-cultivation, self-realization, and self-attainment. Then, monks, before long, I self-realized, self-attained that Dharma quickly, I dwelt therein.”

The Vimalakīrti Sūtra teaches that Bodhisattvas must enter the places of heresy and sin because evil people are the objects of salvation for Bodhisattvas. The Great Vows of Ananda and Bodhisattva Ksitigarbha confirmed Buddhism’s selfless and generous spirit, primarily through the Four Great Vows.

In general, there is no aspect of life that Buddhism does not specifically guide, especially in terms of improving public knowledge, training talents, improving society, liberating from suffering, and birth and death for all sentient beings, from humanistic perspectives to cosmology, from humans to all living beings, from conscious to insentient, from illusion to reality, from the dualistic world to the non-dualistic Dharma realm of equality, it can be said that the educational methods of the Buddha are numerous, which is why Western scholars, especially distinguished professors at modern renowned universities around the world, have been amazed and admired Buddhism when they studied and encountered things that they thought were beyond their imagination. In short, Buddhist education includes Moral, mental, Intellectual, Faith, Discipline, and Physical education.

2-Educational Means

First and foremost, educational means must be understood as the ultimate goal itself because the goal and the means are two. In the ultimate goal, the means are inherently present and vice versa. Suitable means good goal; bad means bad goal. The means here, first, foremost, and most importantly, must be the individuals involved in educational work, not just purely educational devices, although educational devices are also important. Those in the educational role must understand the educational goals, have good educational policies, be aware of their responsibilities, be dedicated to their functions, and thoroughly understand their challenges. Those who undertake the educational mission according to the Buddha must adequately equip themselves with the Three Trainings (Precepts, Concentration, Wisdom). Based on these three studies, those in educational work will meet the essential standards: Virtue, Wisdom, and Skill. These are necessary standards that, as an educator, must be prioritized. According to Buddhism, the true educator rightly embodies the three basic standards: Body teaching, Verbal teaching, and Mind teaching, and must be Timely, Reasonable, and Opportune.”

3-Prioritizing Education in Buddhism

Buddhism places particular emphasis on the role of education and considers it a top-priority mission. Throughout his 49 years of ministry, there was not a day that the Buddha did not engage in teaching. He remained faithful to this mission of education until his last breath, with the Nirvana Assembly at Kushinagar being a particularly significant event. The motto’ Propagating the Dharma is the family affair, Benefiting sentient beings is the career’ profoundly illustrates Buddhism’s deep concern for the mission of education. The Buddha always urged his followers to strive diligently in their studies and practice, continuously and without interruption (He often used the image of a person rubbing two sticks together to make fire, for example). This means one needs to continuously refine, cultivate, reform, and update without interruption. The teaching of the Four Right Exertions has especially proven this reality. Therefore, in Buddhism, those who play a role in education must constantly focus on reforming the educational system and building a modern, diverse, advanced, comprehensive education that continuously adapts to the times. It’s necessary to improve skills and educational content, revitalize and standardize programs, and organize education in a spirit of equality and openness for the public good. The educational program must be responsive to the abilities of each trainee, be practical, feasible, and satisfactorily meet the needs of society and the times, reflecting the high ideals of the Bodhisattva path, especially addressing the urgent desires of humanity: Liberation from birth and death, suffering, entering Nirvana, and true happiness.

4-Educational Methodology

The educational Methodology of Buddhism is very rational, scientific, efficient, and effective. Typically, whenever the Buddha taught, he patiently and sensitively analyzed the issue in detail from the realm of phenomena to the essence of things, from causes to effects, from conventional truth to ultimate truth. He did not advocate distorting reality; on the contrary, with the generosity of a great teacher, he taught his disciples to thoroughly and scientifically examine all phenomena objectively (putting aside all prejudices) to experience the authentic nature of reality. This is the educational method of a great sage, an enlightened one.

The Buddha often based his teachings on specific events, and through his instructions on the Four Noble Truths, the Dhammapada, the Vinaya, and the twelve divisions of the scriptures (just a general categorization, if to speak in full, then it would be innumerable dharma gates) we can prove this. His teachings are lively and open and go straight to the listener’s heart, illuminated by the light of supreme wisdom, dissolving all ignorance and afflictions in the audience’s minds. The Buddha’s teachings’ effect is challenging to discuss; they are profound and mysterious, yet always relevant to history and current developments.

The four standards (principles), or the Four Reliances (siddhāntas) that the Buddha often expounded, illustrate this: The Worldly Principle, The Individual Principle, The Counteractive Principle, and The Ultimate Principle. Through these Four Reliances, we see that:

(i) The first standard is based on a complete understanding aligned with the world. (In the realm of conventional truth, even though we know all phenomena are illusory, without the excellent application of means to utilize vows and superior wisdom fully, it is impossible to activate the inconceivable functioning of the true Dharma in a world whole of dreams, delusions, and suffering.)

(ii) The second standard is based on the understanding of the audience, the human condition. Suitable for the situation, level, language, etc. (but some say it’s for others, not for oneself; at some level, we can also understand this)

(iii) The third standard is treating both physical and mental illnesses. Hence, Buddhist education can address real-world issues, from economics to medicine, technology, etc. It frees people from suffering, leading to a happy, peaceful, and genuinely liberated life.

(iii) The Ultimate Principle is the fourth standard based on ultimate truth, superior meaning, or transcendent truth. This is an absolute standard, a transcendent reality. The standard is entirely based on the perception of truth as it is.

Four other important principles are the Four Reliances: 1. Rely on the Dharma, not the person; 2. Rely on the meaning, not on the words; 3. Rely on the definitive meaning, not on the provisional meaning; 4. Rely on wisdom, not on consciousness. And we cannot fully express or exhaust thousands of other mysterious methods.

5-Educational Efficacy

Buddhism emphasizes the Efficacy of the method of practice, or in other words, the power or function of practice. Buddhism does not aim to give people useless knowledge nor to satisfy the intellectual needs of the era. Instead, it focuses on the effectiveness of the process of cultivation and realization. This is the unique educational method of Buddhism.

Buddhist education is a liberating education, capable of freeing every individual from all categories of isolated knowledge. In our era, to inherit this transcendent education based on a proper understanding, we need to promote the responsive and wonderful educational spirit of Buddhism, synthesizing the essence of all cultures to assimilate and cultivate while properly deploying the unique identity and exquisite essence of the nation, leading the nation towards freedom, democracy, prosperity, and genuine happiness. Buddhist education educates people to become great, enlightened beings, fully wise and virtuous, capable of bringing tremendous and lasting benefits to all beings.

Buddhism advocates focusing on the individual as the central point for transformation and building society: good people, good society, and vice versa. Educating people to become a treasure of humanity is a fundamental and crucial step Buddhism refers to as the Human Vehicle in the Five Vehicles. People are a priceless resource, as taught in the Avatamsaka Sutra: “Humans are the greatest”; therefore, investing in human education on a national scale according to modern and comprehensive education is an urgent need that we must strive for. Throughout his 49 years of wandering and teaching, the Buddha’s central mission was to preach the path of liberation, elevating the potential for the enlightenment of every individual equally and absolutely.

The educational tradition of Buddhism is a tradition of complete enlightenment. The Buddha is revered as a great and holy educator, a model teacher (a great master, fully blessed with wisdom), advocating for the education of people to liberate all views to achieve superior enlightenment. We often hear about realizing the path, reaching the fruit of the path, etc., emphasizing the result, the effect, and the ultimate goal, not just a mere theory.

Most Venerable Thich Vien Ly

Nguồn: https://sentrangusa.com/2023/12/14/thich-vien-ly-dao-phat-va-giao-duc-buddhism-and-education/

Wednesday, December 13, 2023

Quảng Pháp Trần Minh Triết: Thay đổi Văn Hóa Tổ Chức cần sự chuyển động. Không phải mệnh lệnh

 

Văn hóa giống như một cơn gió. Nó vô hình nhưng tác động của nó có thể được nhìn thấy và cảm nhận. Khi nó thổi theo hướng của chúng ta, nó sẽ giúp việc chèo thuyền thuận buồm xuôi gió. Khi nó thổi tấp vào chúng ta, mọi thứ sẽ trở nên khó khăn hơn.

Chỉ khi nào, chúng ta có nhận thức rõ rệt Nội Quy và Quy Chế Huynh Trưởng, là hai văn bản xây dựng nền tảng Văn Hóa Gia Đình Phật Tử, thì việc tu chính và san định, mới đầy đủ ý nghĩa và giá trị của nó.

Nay, Tổ chức đang định hướng đổi mới để thích ứng hơn, thay đổi văn hóa là một thách thức gai góc nhất của quá trình chuyển đổi này. Sự đổi mới đòi hỏi những tư duy và hành động mới của các nhà lãnh đạo cũng như mọi thành viên. Nhưng sự thay đổi văn hóa không thể đạt được hiệu quả thông qua nguyên tắc phân quyền từ trên xuống. Nó sinh động trong trái tim và thói quen tập thể của mọi người cũng như nhận thức chung về “cách mọi việc được thực hiện từ trước đến nay và ở đây”. Người trên cấp dù có thẩm quyền yêu cầu một thái độ tuân theo, nhưng không thể điều hướng tinh thần đoàn kết, niềm tin, tính thuyết phục và sự sáng tạo.

G.V. Prasad, Giám đốc điều hành của Dr. Reddy’s, một công ty dược phẩm toàn cầu 33 tuổi có trụ sở tại Ấn Độ chuyên sản xuất thuốc generic giá cả phải chăng. Với nhiều chi nhánh hoạt động tại 27 quốc gia và hơn 20.000 nhân viên, việc đưa ra quyết định trở nên phức tạp và các chi nhánh của tổ chức trở nên bất cập. Trong nhiều năm, công ty Dr. Reddy đã soạn thảo rất nhiều quy tắc điều hành vì nhiều lý do chính đáng. Song, những thủ tục đó chỉ khiến công ty chậm lại và bế tắc.

Bấy giờ, Prasad đã tìm cách phát triển văn hóa của công ty Dr. Reddy để thúc đẩy tiến trình đổi mới, đặc biệt lấy bệnh nhân làm trung tâm. Anh ấy biết cần phải có một hành trình để tạo sự đoàn kết và khích lệ tất cả thành viên. Đội ngũ lãnh đạo của anh bắt đầu bằng việc định hướng. Họ cùng nhau xác định và chắt lọc mục đích của công ty, rút gọn nó thành bốn từ đơn giản lấy bệnh nhân làm trung tâm: “Sức khỏe tốt là không thể chờ đợi”.

Nhưng thay vì hô hào những khẩu hiệu ồn ào, lặp đi lặp lại và tranh cãi trong các cuộc họp chung, đội ngũ lãnh đạo đồng lòng bắt đầu bằng cách âm thầm sử dụng nó để điều hướng các quyết định của chính họ. Mục tiêu là thể hiện ý tưởng này bằng hành động chứ không phải nói về nó. Và như đã trình bày ở trên, đặt đúng trung tâm vào đối tượng phục vụ.

Để vẽ ra sự tương đồng, trong trường hợp này, một sự chuyển động cũng như là một phong trào, nó bắt đầu từ cảm xúc. Sự bất bình lan tỏa với hiện trạng và nhận thức chung chung rằng các thể chế và cơ cấu thượng tầng hiện tại của GĐPT – là Ban Hướng Dẫn Thế Giới và Hải Ngoại – “đang có vấn đề!” Sự bất bình âm ỉ này đang trở thành những tiếng nói nhằm đưa ra tầm nhìn tích cực và con đường phía trước. Tuy bắt đầu ở quy mô nhỏ, từ một nhóm ít những người quan tâm nhưng sẵn sàng hành động nhằm tác động mạnh mẽ. Trong tình huống này, các nhà lãnh đạo không nên quá vội vàng hoặc hời hợt trong việc đưa ra một định chế cứng nhắt, cách tốt nhất là nên tận dụng động lực tích cực và ảnh hưởng để thể chế hóa sự thay đổi trong cơ cấu quyền hạn và các quy tắc của Tổ chức nói chung.

Một khi muốn thay đổi văn hóa tổ chức, chỉ giải thích sự cần thiết phải thay đổi là không hiệu quả. Tạo ra cảm giác cấp bách là hữu ích nhưng có thể nó chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Để khai thác được sự cam kết trọn vẹn và lâu dài của mọi người, phải làm sao để tất cả cảm thấy khao khát sâu sắc và thậm chí có bổn phận và trách nhiệm hiện thực hóa.

Văn hóa và cấu trúc thống trị của các tổ chức thế tục ngày nay được thiết lập hoàn hảo để tạo ra các hành vi và kết quả hiện tại, bất kể những kết quả đó có phải là kết quả chúng ta mong muốn hay không.

Tất nhiên GĐPT không giống như các tổ chức quyền lực thế tục. Chúng ta tuy có quyền, song cũng có hạn, và trên hết là có một nền tảng giáo lý Phật giáo. Điều chắc chắn là không thể hoặc không nên áp đặt một tiến trình thay đổi văn hóa cho các đơn vị hạ tầng. Nói đến sự thay đổi văn hóa, chúng ta nên cân nhắc và làm điều đó một cách cẩn trọng. Thật dễ dàng để lạm dụng quyền lực của mình với hy vọng đẩy nhanh quá trình chuyển đổi, song cũng dễ tạo ra xung đột, vì xét cho cùng, sự hài hòa nói chung là một trạng thái luôn được mọi người yêu chuộng. Và sự thành công của quá trình chuyển đổi tổ chức thường được đánh giá bởi tính chuyển tục của nó.

Tuy nhiên, một khi tiếp cận sự chuyển động để thay đổi, xung đột là điều tất yếu, và mức độ xung đột vừa phải là tích cực. Sự vắng mặt hoàn toàn của ma sát có nghĩa là thực sự có rất ít thay đổi. Hãy mạnh dạn đối mặt với lực cản và sự ma sát, qua đó nhận ra hướng đi phát triển.

Và hãy nhớ rằng sự thay đổi văn hóa chỉ xảy ra khi mọi người cùng hành động. Vì vậy hãy bắt đầu từ đó. Mặc dù việc nêu rõ sứ mệnh và thay đổi cấu trúc Tổ chức là quan trọng nhưng đồng lòng thường là cách tiếp cận thành công để giải quyết các loại vấn đề thay đổi mà chúng ta mong muốn.

Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, các tổ chức phải đối mặt với nhiều vấn đề. Khả năng giải quyết những khác biệt về địa lý, văn hóa và nhân sự ở từng quốc gia cụ thể rất quan trọng và phức tạp.

Khi sử dụng thuật ngữ “tổ chức quốc tế (TG)”, chúng ta đang đề cập đến các hoạt động xuyên biên giới quốc gia. Điều dễ gây nhầm lẫn là nhiều tổ chức có thể được biết đến, tưởng là một tổ chức quốc tế, nhưng thực chất nên hiểu nó là những “tổ chức liên chính phủ”, được thiết lập với một bộ quy tắc chung giữa các quốc gia tôn trọng và thực thi. Các ví dụ như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Y tế Thế giới, OECD, INTERPOL và NATO v.v…

Vậy, ở đây (nếu) chúng ta đưa ra ý tưởng xây dựng một cơ chế Ban Hướng Dẫn GĐPT Thế Giới, dựa trên mô hình của Liên Hiệp Quốc chẳng hạn, đó lại là chọn lựa nhằm thiết kế một Tổ Chức Liên Quốc Gia, từ đây định hướng cho việc tu chính Nội Quy và Quy Chế, nghĩa là chỉ nên soạn thảo một Bộ Quy Tắc Chung, những điều khoản có thể thực hiện nhằm mang lại lợi lạc chung mà không phi phạm các văn kiện pháp quy của từng quốc độ khác nhau làm nền tảng. Tất nhiên, Bộ Quy Tắc Chung này là một phần bổ túc cho Nội Quy và Quy Chế, để phong phú hóa, linh động hóa và hiệu quả hóa nguyên tắc điều hành, nhưng không phá vỡ nền tảng vốn là nền nếp văn hóa, truyền thống của các đơn vị Châu Lục, Quốc gia đã hoạt động nửa thập niên qua.

Nhiều phương tiện, công nghệ chức năng điện toán và online hiện nay có thể giúp xây dựng và điều hành những cơ chế tổ chức, đơn giản mà hoạt động hiệu quả, và thật không khó để nghiên cứu và tìm ra mô hình cũng như cách điều hành của những Tổ chức Quốc tế, kể cả một tổ chức Tôn giáo hay Phật giáo. Qua đó cho thấy một điểm chung rằng, quá trình lý tưởng của quốc tế hóa của bất kỳ tổ chức nào, được mô tả tốt nhất là sự độc lập trong việc ra quyết định ở cấp độ quốc gia cụ thể, mặc dù nằm trên sứ mệnh tổng thể của một tổ chức tầm quốc tế.

Tất nhiên, thực hiện lý tưởng trên, chúng ta cũng cần nắm vững và đối diện với những mặt tiêu cực và tích cực của nó. Tiên liệu một danh sách ưu và khuyết bao giờ cũng là điều cần thiết để chúng ta đo lường, xác định tổ chức hiện đang ở đâu, nhưng cũng hình dung ra nơi cần hướng tới trong tương lai.

Trở lại, chỉ khi nào chúng ta học thuộc và trả lại sự thiêng liêng và giá trị nhân văn cho hai văn bản Nội Quy và Quy Chế Huynh Trưởng GĐPT Việt Nam, dù áp dụng ỏ quốc độ chung hay riêng, trong hay ngoài đều có ý nghĩa giá trị bình đẳng như nhau; chỉ khi nào chúng ta hiểu đó là nền tảng Văn Hóa-Truyền Thống của một Tổ Chức có chiều dài gần một thế kỷ bằng xương máu và nước mắt của bao thế thệ tiền bối chứ không để xưng tán sáo rỗng mà vô tình biến thành phương tiện thống trị và đối trị như một hội đoàn thế tục, thì bấy dự thảo tu chính tự sẽ dễ dàng thành tựu.

Thay đổi Văn Hóa Tổ Chức cần một sự chuyển động. Không phải là một mệnh lệnh.

Thay đổi Nội Quy và Quy Chế Huynh Trưởng là thay đổi Văn Hóa. Trong hay ngoài nước, điều gì củng cố một thông điệp về sự đoàn kết và lòng cam kết, thì đó là điều mà tất cả Anh-Chị-Em lam viên nên sát cánh cùng nhau để theo đuổi và hoàn thành.

Nam Mô Thường Hoan Hỷ Bồ Tát Ma Ha Tát.

Chốn Bụi, ngày 13 tháng 12 năm 2023

Quảng Pháp Trần Minh Triết

______________________

Tham khảo:
1. Change Management | Harvard Business Review
2. Org Strategy, Org structure
3. Brooke Schedneck | Buddhist International Organizations, 

Nguồn: https://sentrangusa.com/2023/12/13/quang-phap-tran-minh-triet-thay-doi-van-hoa-to-chuc-can-mot-su-chuyen-dong-khong-phai-mot-menh-lenh/

Tuesday, December 12, 2023

Buddhistdoor Global | Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Các thế hệ Phật tử của chúng ta—Tăng thân Zoomer | Our Buddhist Generations—the Zoomer Sangha

 


Thay cho lời vào bài: Nếu đã trải qua một khoảng thời gian khó khăn đủ dài, có khi khốc liệt, nhưng vẫn kham nhẫn tận tụy với công việc, thì đó không còn là vấn đề của thử thách, mà là hạnh nguyện. Như vàng được đem đi nung chảy, để xác định là vàng thật. Từ Huệ Vũ Thị Mỹ Hạnh – huynh trưởng GĐPT – là hình ảnh như vậy. Nếu năm xưa Gia Đình Phật Tử là lò luyện, thì hôm nay Bodhi Youth Of Academy – một mô hình giáo dục tuổi trẻ Phật giáo cộng đồng – là môi trường để tỏa sáng.

Tôi ghé lại tu viện Đại Bi trưa Chủ Nhật để được nghe thấy tiếng cười rộn ràng của đàn em thơ, và khuôn mặt rạng ngời của ba Thầy-Trò Từ Huệ. Cả ba đứng trước các em như những tấm gương, tương chiếu cho nhau để làm thành những giây phút hạnh phúc. Các cháu cười, Thầy Cô cười!

Sự bền bĩ để nuôi dưỡng một cơ sở vật chất đã là khó. Giáo dưỡng chừng ấy các em nhỏ ở độ tuổi của thế hệ Z tất phải trang bị cho mình đủ những kiến thức chuyên môn, chuyên nghiệp và, trên hết một lòng từ mới có thể kiên nhẫn hoàn thành tâm nguyện.

Từ trong khốn khó tài vật để duy trì cơ sở, tổ chức nhân sự, tự thân Từ Huệ vẫn tìm ra lối thoát, duy nhất, chính là niềm hạnh phúc nơi các em.

Các em hạnh phúc, Thầy Cô được hạnh phúc!

*

Năm 1966, Thầy Nhất Hạnh ra mắt tác phẩm Nói với tuổi hai mươi, viết riêng cho giới trẻ. Vào thời điểm đó, đối tượng của Thầy sẽ là thế hệ baby boomer. Bất luận về những xung đột ngày nay giữa các thế hệ, lời khuyên của Thầy Nhất Hạnh dành cho những người thuộc thế hệ bùng nổ dân số sẽ có giá trị ngay hiện tại trong một viễn ảnh dành cho nhóm nhân khẩu học đã đến tuổi trưởng thành, Thế hệ Z:

“Chúng ta có mặt hôm nay vì chúng ta nhận thức được hoàn cảnh xã hội của mình. Chúng ta không muốn sống trong ảo tưởng hay chết trong ảo tưởng. Chúng ta phải nổi dậy chống lại những thế lực dẫn đến một cuộc sống vô nghĩa và ảo tưởng. Bí quyết là biết cách nổi loạn. Có nhiều cách nổi loạn chỉ tạo thêm trói buộc và đau khổ. Tuy nhiên, có những cách nổi loạn có thể mang lại cho chúng ta sự tự do thực sự”. (Thức tỉnh)

Thế hệ Z kết nối nhiều hơn, tự hiện thực hóa và cởi mở hơn. Họ cũng nằm trong số những thế hệ ít tôn giáo nhất cho đến nay. Nếu được xem xét một cách thấu đáo và cởi mở, xu hướng này có thể mang lại những hiểu biết sâu sắc cho các nhà lãnh đạo và giáo viên Phật giáo về cách điều chỉnh tốt nhất công việc phụng vụ và truyền bá Phật pháp của họ theo cách phù hợp và kịp thời cho Thế hệ Z.

Gen Z — những người sinh từ cuối những năm 1990 đến đầu những năm 2000 — đại diện cho tương lai trong việc định hình các xu hướng văn hóa toàn cầu và cho chúng ta cái nhìn thoáng qua về tương lai sẽ như thế nào. Kể từ COVID-19, đã có lý do thực sự cho việc sử dụng “Zoomer” như một từ hấp dẫn để dễ tham khảo—Zoomer nên được xác định bằng tốc độ tăng tốc vượt bậc của các công nghệ đã trở thành dấu ấn văn hóa, chẳng hạn như Zoom, Facebook, Instagram và TikTok .

Công nghệ ngày càng dễ sử dụng và tiện lợi đã nhanh chóng chi phối cách mọi người giao tiếp và tương tác, đặc biệt kể từ năm 2007, khi iPhone ra mắt. Những người Zoomers lâu đời nhất sẽ là 10. Những người sinh sau năm 1996 thậm chí không có thời gian thích nghi với Internet băng thông cao, WiFi có mặt khắp nơi và giải trí theo yêu cầu, không giống như Millennials. Cùng với một sự kiện định hình thế hệ khác, cuộc khủng hoảng kinh tế ở Mỹ năm 2008 và cuộc Đại suy thoái (và nhiều dư chấn còn vang vọng cho đến ngày nay), một mô hình mới đã xuất hiện: “mọi người không chỉ có quyền mà còn có nghĩa vụ lựa chọn thế giới quan của riêng họ.” Phương tiện truyền thông xã hội và công nghệ di động có thể đã định hình sự tương tác giữa con người và bản sắc cá nhân của Zoomers, nhưng triệt để hơn nữa là sự gia tăng của chủ nghĩa đa nguyên tôn giáo trùng lặp với chủ nghĩa phổ quát[1] và chủ nghĩa lâu đời[2].

Những viễn cảnh có vẻ khó hiểu ngoại trừ những người trong cuộc, những “hashtag-#” tự giới thiệu, những người có ảnh hưởng — đây là thế giới của Zoomer và bản thân tôn giáo đang trở thành một phần của hệ sinh thái công nghệ này. Sự xa lánh, hoài nghi và nỗi sợ hãi về một tương lai không chắc chắn không phải là những điều ngoại lệ đối với trải nghiệm Zoomer mà là cốt lõi của trải nghiệm đó.

Như một tác giả đã lập luận một cách đúng đắn, mặc dù COVID-19 có tác động lớn như vụ 11/9 đối với thế hệ Millennials hay Việt Nam đối với thế hệ bùng nổ trẻ em, nhưng các thế hệ không nên được xác định bởi những thảm họa ở thời đại của họ mà thay vào đó là cách họ định hình thời đại của họ: “Điều đó phù hợp với một nhóm thuần tập sớm sử dụng mạng xã hội để truy cập vào các diễn đàn và tổ chức do các chính khách lớn tuổi kiểm soát từ lâu — và thể hiện cách họ muốn được nhìn nhận.” (NBC news) Thẩm quyền tôn giáo chắc chắn bị suy giảm khi đối mặt với mô hình này. Trách nhiệm không còn thuộc về giới trẻ phải run rẩy và vâng lời một cách nhu mì mà là các nhà lãnh đạo tôn giáo phải “điều trần” và “hùng biện” trước những khán giả Zoomer đầy hoài nghi. Nếu không ấn tượng, họ sẽ chỉ “vuốt sang trái”[3].

Phật giáo, kể từ khi truyền bá ở phương Tây, thường tự đóng khung mình không phải là một giáo hội trực tiếp thay thế cho Cơ đốc giáo, mà là một mô hình mới để suy nghĩ nhiều ề cách tiếp cận cuộc sống hơn là một tôn giá. Sự hình thành kinh nghiệm Phật giáo phương Tây của các nhà hoằng pháp – một sự cân bằng hai chiều giữa Phật giáo như một triết lý kinh nghiệm và sự thệ nguyện – đã tương ứng với sự suy tàn của thể chế Cơ đốc giáo ở Hoa Kỳ. Ngày nay, Zoomers là thế hệ phi tôn giáo nhất: “Khoảng một phần ba không có tôn giáo—tỷ lệ tương đương với thế hệ Millennials—so với 23%, 17% và 11% tương ứng ở Thế hệ X, thế hệ bùng nổ trẻ em và Thế hệ thầm lặng.” Tuy nhiên, đây là phép tính nhân khẩu học dựa trên liên kết của tổ chức. Quan tâm đến mục đích cao hơn hoặc ý nghĩa lâu dài trong cuộc sống, trong khi một định nghĩa rộng hơn đáng kể, lại bao gồm các mối quan tâm về tôn giáo.

Kết quả từ Dự án iGen của Đại học Stanford dường như phản ánh sự phân định tôn giáo của Zoomer thành hai khía cạnh: sự thờ phượng có tổ chức và các giá trị cá nhân. Zoomers không xác định được yếu tố đầu tiên, cho thấy sự nghi ngờ ngày càng tăng về liên kết của tổ chức. Nhiều người cho rằng việc thờ phượng có tổ chức thường mâu thuẫn với các giá trị cá nhân của họ. Tôn giáo mang một sắc thái tích cực rõ rệt hơn đối với Zoomers nếu quan điểm chính trị, xã hội và văn hóa của một tổ chức tôn giáo phù hợp với các giá trị của họ. Thông thường, những giá trị này phản ánh quan điểm tự do, chẳng hạn như đánh giá cao sự đa dạng sắc tộc, bình đẳng giới, chấp nhận các xu hướng tình dục khác nhau và tính linh hoạt của giới tính. Thế hệ Zoomers đang tắm mình trong một nền văn hóa bao dung và kết nối, đồng thời mong đợi truyền thống đức tin của họ sẽ phản ánh trở lại nền văn hóa này. Nếu không có sự đảm bảo như vậy, Zoomers sẽ nhanh chóng từ bỏ một giáo đoàn hoặc tăng đoàn.

Chủ nghĩa tư tưởng của Zoomer về sự lựa chọn cá nhân, sự tự hiện thực hóa và thể hiện bản thân đã “cá nhân hóa” tôn giáo, tích cực hơn và cũng có tiêu cực hơn. Sự năng động là một phần của cách tiếp cận cuộc sống-và-để-sống phản ánh những lý tưởng của chủ nghĩa tự do và lòng khoan dung: “thế hệ này [có] một thực đơn phong phú để lựa chọn, một phần nhờ vào Internet. Họ duyệt qua những gì được cung cấp và đôi khi lắng nghe các nhóm khác nhau trước khi tham gia và đưa ra các cam kết của mình, trực tuyến hoặc ngoại tuyến. Họ đang tìm kiếm thứ gì đó có ý nghĩa, thứ gì đó phù hợp. Nếu không thành công, họ có thể đi tiếp.”

Trong tác phẩm Nói với tuổi hai mươi lăm, thông điệp của Thầy Nhất Hạnh gửi đến những người thuộc thế hệ bùng nổ tuổi trẻ của ông phản ánh những ưu tiên được trình bày trong cái mà Zoomers ngày nay gọi là “danh tính tự chọn” thay vì “gán”:

“Tôi không muốn biến bạn thành một ‘Phật tử hoàn hảo’. Tôi cũng không yêu cầu bạn từ bỏ niềm vui của tuổi trẻ. Đúng hơn, tôi muốn thấy bạn tự do, tự do phát triển và chạm tới hạnh phúc thực sự… Hãy nghiên cứu tôn giáo của bạn một cách thông minh, với tất cả chiều sâu và vẻ đẹp của nó để nó có thể nuôi dưỡng đời sống tâm linh của bạn. Một tôn giáo lành mạnh là một tôn giáo sống động. Nó phải có khả năng phát triển và học cách ứng phó với những khó khăn của thời đại chúng ta. Gặp gỡ bạn bè từ các tôn giáo khác. Hãy mở lòng với nhau và học cách làm việc cùng nhau. Làm việc với mục đích trong sáng là phục vụ mọi người chứ không phải để mở rộng quyền lực và ảnh hưởng của nhóm của bạn. Tôn giáo phải phục vụ nhân loại chứ không phải tôn giáo nhân loại. Đừng để ai phải chịu đau khổ hay mất mạng vì tôn giáo. (Thức tỉnh)

Bằng những lời lẽ ấm áp và khéo léo này, Thầy Nhất Hạnh phản ánh trực tiếp những mối quan tâm về đức tin của Zoomers: sự thừa nhận vai trò của cơ quan tự do và sự lựa chọn trong con đường tôn giáo, việc nhận ra một “bản sắc tự chọn” phù hợp và mang tính cá nhân mạnh mẽ, và việc bình thường hóa thẩm quyền đặt câu hỏi – bao gồm cả đạo sư hoặc người thầy của ai đó. Trong số các truyền thống tín ngưỡng đa dạng của phương Tây, Phật giáo có vị trí thuận lợi để áp dụng tầm nhìn nhân ái và yêu thương của Thầy Nhất Hạnh, điều dường như ở vị trí lý tưởng để thu hút trực tiếp đến thế hệ trẻ nhất này.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là quyền lực là không liên quan và tỷ lệ trầm cảm và tình trạng cảm xúc cao ở Thế hệ Z có thể một phần là do sự phân hóa cá nhân, sự tách biệt khỏi cộng đồng và sự loại bỏ toàn bộ “truyền thống”. Song, truyền thống sẽ không còn hoạt động theo hệ thống phân cấp một chiều để truyền tải cho giới trẻ, mà gần như là một phép biện chứng trong đó cả hai bên đều phát triển vì lợi ích của nhau.

Zoomers trên danh nghĩa tin tưởng vào hành trình cá nhân và sự tự hiện thực hóa của mọi người. Họ cũng cảm thấy xa lạ và không tin tưởng vào các cấu trúc quyền lực truyền thống, từ chính trị, truyền thông kế thừa đến tôn giáo, hơn bất kỳ thế hệ nào khác. Nhiều người ủng hộ sasana[4] Phật giáo ngày nay đủ khiêm tốn để chấp nhận rằng các quy tắc của trò chơi đã thay đổi, từ Phật giáo nhân văn sang Phật giáo nhập thế, và ngay cả những mô hình tư tưởng Phật giáo thích ứng, phù hợp với từng thời kỳ này cũng đang phát triển cho một thế giới hậu COVID.

_____________________

[1] Chủ nghĩa phổ quát là khái niệm triết học và thần học cho rằng một số ý tưởng có tính ứng dụng hoặc khả năng áp dụng phổ quát. Niềm tin vào một chân lý cơ bản là một nguyên lý quan trọng khác của thuyết phổ quát.
[2] Chủ nghĩa lâu năm coi trọng kiến thức vượt thời gian. Đây là một triết lý lấy chủ đề làm trung tâm. Mục tiêu của một nhà giáo dục theo chủ nghĩa lâu năm là dạy học sinh suy nghĩ hợp lý và phát triển những bộ óc có thể tư duy phản biện.
[3] Thấy không hấp dẫn
[4] Śāsana (tiếng Phạn: शासन, śāsana; tiếng Pali: sāsana) là một thuật ngữ Phật giáo chỉ triết lý và thực hành của họ. Nó có thể được dịch là giảng dạy, thực hành, kỷ luật, giáo lý và “lời dạy của Đức Phật”. Vì trong Phật giáo không có thần thánh nên Śāsana được coi là cách mô tả chính xác hơn “tôn giáo” vì nó tránh được hàm ý về một lời kêu gọi thiêng liêng không thay đổi từ một vị thần toàn tri.

* Ảnh: Buổi tu học, sinh hoạt phát chứng chỉ của trường Phật giáo Trường Thiếu Nhi Bồ Đề do Trưởng Từ Huệ Vũ Thị Mỹ Hạnh điều hành đã hơn 15 năm.

Buddhistdoor View:
Our Buddhist Generations—the Zoomer Sangha

By Buddhistdoor Global

In 1966, Thich Nhat Hanh published a book called Nói với tuổi hai mươi, written specifically for young people. At that time, his target audience would have been the baby boomer generation. Despite today’s narrative of inter-generational conflict, Thich Nhat Hanh’s advice for baby boomers would be right at home in a meme for the demographic cohort now coming of age, Generation Z:

We are here today because we are aware of the situation in our society. We do not want to live in illusion or die in illusion. We must rebel against the forces that lead to a meaningless and illusory life. The secret is knowing how to rebel. There are ways of rebelling which only create more bondage and suffering. However, there are ways of rebelling that can offer us real freedom. (Wake Up)

Generation Z is more connected, self-actualizing, and open-minded. They are also among the least formally religious generations to date. If thoughtfully and sympathetically examined, this trend can offer insights for Buddhist leaders and teachers on how to best tailor their pastoral and Dharma work in a way that is relevant and timely for the Gen Z.

Gen Z—those born between the late 1990s and early 2000s—represent the future in shaping global cultural trends and giving us a glimpse of what the future might look like. Since COVID-19, there has arisen a true justification for using “Zoomer” as a catchy word for easy reference—Zoomers should be defined by the stratospheric acceleration of technologies that have become cultural markers, such as Zoom, Facebook, Instagram, and TikTok.

Increasingly easy-to-use and convenient technology has rapidly dominated how people communicate and interact, especially since 2007, when the iPhone was launched. The oldest Zoomers would have been 10. Those born after 1996 didn’t even have a period of adjustment to high-bandwidth internet, omnipresent WiFi, and on-demand entertainment, unlike Millennials. Along with another generation-defining event, the 2008 American sub-prime mortgage crisis and the Great Recession (and the many aftershocks that reverberate to this day), a new paradigm has emerged: “everyone has not just a right but a duty to choose their own worldview.” (Pacific Standard) Social media and mobile technology might have shaped Zoomers’ human interactions and personal identities, but even more radical is the acceleration of religious pluralism that overlaps with universalism and perennialism.

Memes that might seem unintelligible except to insiders, self-referential hashtags, influencers—this is the world of the Zoomer, and religion itself is becoming a part of this technological ecosystem. Alienation, cynicism, and fear of an uncertain future are not outliers to the Zoomer experience, they are core to it.

As one author rightly argues, despite COVID-19 making as much of an impact as 9/11 did on Millennials or Vietnam on baby boomers, generations should not be defined by the disasters of their age, but rather by how they shape their era: “That’s appropriate for a precocious cohort that uses social media to catapult into forums and institutions long controled by elder statesmen—and to write the narrative about how they want to be perceived.” (NBC news) Religious authority is inevitably diluted in the face of this paradigm. The onus is no longer on the young to meekly tremble and obey, but on religious leaders to “pitch” and “audition” their tradition to a sceptical Zoomer audience. If they are not impressed, they will simply “swipe left.”

Buddhism, since its diffusion in the West, has commonly framed itself not as a direct church alternative to Christianity, but as a new paradigm of thinking more about an approach to life than strictly a religion. The shaping of the Western Buddhist experience by Dharma leaders—an ambivalent balance between Buddhism as experiential philosophy and formal commitment—has corresponded with the decline of institutional Christianity in the US. Today, Zoomers are the most non-religious generation: “About one third have no religion—about the same proportion as among Millennials—compared with 23 per cent, 17 per cent, and 11 per cent among, respectively, Generation X, baby boomers, and the Silent Generation.” (Pacific Standard) However, this is a demographic calculation based on institutional affiliation. Interest in a higher purpose or lasting meaning in life, while a considerably broader definition, does encompass religious concerns.

Results from Stanford University’s iGen Project seem to reflect the Zoomer bifurcation of religion into two aspects: organized worship and personal values. Zoomers do not identify with the first, displaying increasing suspicion of institutional affiliation. Many see organized worship as too often conflicting with their personal values. Religion takes on a distinctly more positive tone for Zoomers if the political, social, and cultural positions of a religious institution is in concord with their values. Commonly, these values reflect liberal views, such as an appreciation for ethnic diversity, gender equality, acceptance of different sexual orientations, and gender fluidity. Zoomers are immersed in a culture of tolerance and connectivity, and expect their faith tradition to reflect this culture back. Without such an assurance, Zoomers will quickly abandon a congregation or sangha.

The Zoomer zeitgeist of individual choice, self-actualization, and self-expression has “personalized” religion, for better and for worse. The dynamic is part of a live-and-let-live approach to life that mirrors the ideals of liberalism and tolerance: “this generation [has] a vast menu to choose from, thanks in part to the Internet. They browse what’s on offer and sometimes listen in on different groups before they get involved and make their commitments, online or off-. They are looking for something meaningful, something that fits. If it doesn’t work out, they can move on.” (Pacific Standard)

In Nói với tuổi hai mươi, Thich Nhat Hanh’s message to the boomers of his youth mirrors the priorities that are reflected in what today’s Zoomers call “elective identities” rather than “ascribed” ones:

I don’t want to make you into a “perfect Buddhist.” Nor do I ask you to give up the joys of youth. Rather, I want to see you free, free to grow and touch real happiness. . . . Study your religion intelligently, in all its depth and beauty, so that it can nourish your spiritual life. A healthy religion is a living religion. It should be able to evolve and learn to respond to the difficulties of our time. Meet with friends from other religions. Open your hearts to one another and learn to work together. Work with the pure intention to serve people, and not to expand the power and influence of your own group. Religion must serve humanity, not humanity religion. Don’t let anyone suffer or lose their life in the name of religion. (Wake Up)

In these warm and wise words, Thich Nhat Hanh directly reflects the faith concerns of Zoomers: the recognition of the role of free agency and choice in a religious path, the realization of an intensely personal, tailored “elective identity,” and the normalizing of questioning authority—including one’s guru or preceptor. Among the West’s diverse faith traditions, Buddhism is well-placed to apply the kind and loving vision of Thich Nhat Hanh, which seems ideally positioned to appeal directly to this youngest of generations.

This is not to say that authority is irrelevant, however, and the high rates of depression and emotional conditions in Gen Z could be partially attributed to the atomization of the individual, the unmooring of community, and the wholesale discarding of “tradition.” Nevertheless, tradition will no longer operate in a one-way hierarchy of transmission to the young, but rather almost as a dialectic in which both sides grow for the benefit of each other.

Zoomers nominally believe in everyone’s personal journey and self-actualization. They also feel more alienated and distrustful of traditional authority structures, from politics to legacy media to religion, than any other generation. Many supporters of the Buddhist sasana today are humble enough to accept that the rules of the game have changed, from humanistic Buddhism to engaged Buddhism, and even these adaptive, period-relevant patterns of Buddhist thought are evolving for a post-COVID world.