Saturday, February 10, 2018

Đọc Kinh Phật, Đón Xuân Mậu Tuất - Nguyên Giác


Đọc Kinh Phật, Đón Xuân Mậu Tuất
Nguyên Giác

Mùa xuân đang tới… Những ngày giữa tháng 2/2018 sẽ là Tết Mậu Tuất.
Trong thời điểm qua năm, nhìn thấy tháng ngày trôi nhanh, tự thẹn mình tu học chẳng tới đâu, xin làm hai câu đối để tự răn:
Tu chưa vững vàng, gà đã cục tác lên chuồng
Học còn lạng quạng, chó đã lăng xăng tới cửa.
Đón Xuân Mậu Tuất, nơi đây, xin mở lại kinh điển, tìm đọc một số liên hệ tới hình ảnh loài chó.

TÀM VÀ QUÝ

Đức Phật dạy rằng cần phải giữ tâm Tàm và Quý, nơi loài người mới không hỗn loạn sắc dục như ở loài vật, cụ thể như chó và dã can (một loại chó rừng).
Đó là Kinh Pháp che chở thế gian - Lokapala Sutta. Bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu trích như sau:
“Hai pháp trắng này, này các Tỷ-kheo, che chở cho thế giới. Thế nào là hai ?
Tàm & Quý.
-Nếu hai pháp trắng này, không che chở cho thế giới, thời không thể chỉ được đây là mẹ hay là em, hay đây là vợ của anh hay em của mẹ, hay đây là vợ của Thầy hay đây là vợ của các vị tôn trưởng. Và thế giới sẽ đi đến hỗn loạn như giữa các loài dê, loài gà vịt, loài heo, loài chó, loài dã can.
-Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có hai pháp trắng này che chở thế giới, nên mới có thể chỉ được đây là mẹ hay là em, hay đây là vợ của anh hay em của mẹ, hay đây là vợ của Thầy hay đây là vợ của các vị tôn trưởng.” (1)

TỪ BI VỚI TẤT CẢ CHÚNG SANH
Đức Phật dạy trong Kinh Từ Bi (Metta Sutta) rằng, phải luôn luôn, phải thường trực giữ tâm từ bi như mẹ yêu thương đứa con trai duy nhất đối với tất cả chúng sanh, nghĩa là từ bi với cả chúng sanh cõi trời, cõi người, cõi phi nhơn, và kể cả loài thú… Như thế, hãy từ bi cả đối với chó, một sinh vật dễ thương thường được xem là bạn của loài người.
Bản dịch của GS Phạm Kim Khánh, trích:
4. Bất luận chúng sanh ấy như thế nào: - yếu đuối hay khỏe mạnh, cao lớn mập mạp hay tầm vóc bình thường, lùn thấp bé nhỏ, hữu hình hay vô hình, những chúng sanh ở gần hay những chúng sanh ở xa, những chúng sanh đã ra đời hoặc những chúng sanh chưa sanh - Ước mong tất cả chúng sanh, không loại trừ bất luận ai, đều có tâm an lành hạnh phúc.
5. Không ai làm cho ai thất vọng, không ai khinh bỉ ai, dù người như thế nào hoặc ở nơi đâu. Trong cơn giận dữ hay lúc oán hờn, không nên mong điều bất hạnh đến với người khác.
6. Cũng như bà từ mẫu hết lòng bảo bọc đứa con duy nhất của bà dù có hiểm nguy đến tính mạng, cùng thế ấy người kia trau giồi tâm Từ vô lượng vô biên, rải khắp mọi chúng sanh.(2)
.
NGHIỆP GÌ ĐỌA VÀO CÕI THÚ
Một câu hỏi thường gặp là, do nghiệp gì sẽ bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục?
Theo giáo nghĩa, giữa loài người và loài vật có cách biệt là do nghiệp dị biệt.
Trong Trung Bộ Kinh 135. Tiểu kinh Nghiệp phân biệt, Đức Phật dạy rất minh bạch, bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu, trích như sau:
"—Này Thanh niên, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu...
—Ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loại chúng sanh. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nếu được đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải đoản mạng. Con đường ấy đưa đến đoản mạng, này Thanh niên, tức là sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loài hữu tình.
Nhưng ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay đàn ông, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời, nếu người ấy đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy được trường thọ. Con đường ấy đưa đến trường thọ, này Thanh niên, tức là từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình..."(3)
.
CON CHÓ CÓ PHẬT TÁNH KHÔNG?
Trong Kinh MN.135 nêu trên, Đức Phật dạy rằng nghiệp thiện sẽ sinh vào cõi người, gây nghiệp dữ sẽ sinh vào cõi thú. Và nơi thân người mới có cơ duyên tu hành, để giác ngộ, thành thánh quả. Do vậy, các luận sư Phật Giáo Đại Thừa nói rằng, Phật Tánh tức khả năng trí tuệ để chứng quả thánh và thành Phật đều có sẵn trong cả loài người lẫn loài thú.
Các Thiền sư Trung Hoa nêu câu hỏi làm công án để các Thiền sinh tham học: Con chó có Phật Tánh không?
Đó là sách Vô Môn Quan của Vô Môn Huệ Khai, Tắc 1, bản dịch của Dương Đình Hỷ, trích như sau:
CỬ:
Một ông tăng hỏi Triệu Châu:
-Con chó có Phật tánh không?
-Không!
BÌNH:
Tham thiền phải qua cửa tổ, diệu ngộ phải tuyệt đường tâm. Cửa tổ không qua, đường tâm chẳng dứt thì như tinh linh nương vào cây cỏ. Thử hỏi thế nào là cửa tổ? Chính là một chữ Không, gọi là Cửa không cửa của thiền vậy. Người qua cửa không những thân thấy Triệu Châu mà còn cùng lịch đại chư tổ nắm tay cùng đi, ngang hàng với họ, nhìn cùng một mắt, nghe cùng một tai há chẳng vui sao? Các ông chẳng muốn qua cửa này ư? Hãy đem 360 đốt xương, tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông toàn thân khởi nghi đoàn, tham chữ Không ngày đêm. Các ông chớ hiểu Không là Hư Vô, cũng đừng hiểu trong nghĩa Có, Không. Giống như các ông nuốt một hòn sắt nóng, muốn khạc mà khạc chẳng ra. Các ông hãy bỏ hết những vọng tri, vọng giác từ trước, lâu dần thuần thục, tự nhiên trong ngoài đánh thành một phiến, như người câm nằm mộng chỉ mình tự biết. Rồi bỗng nhiên như trời long đất lở, như đoạt được Thanh Long Đao của Quan tướng quân, gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ. Bên bờ tử sinh mà được tự tại, hướng lục đạo tứ sinh mà du hí tam muội. Tôi muốn hỏi các ông phải làm sao? Hãy đem hết sức mà nêu chữ Không ấy. Nếu các ông giữ cho không gián đoạn thì giống như vừa mới mồi lửa ngọn đuốc Pháp đã bùng cháy." (4)
Nên nhìn theo Kinh Kim Cương, hễ nói có, nói không đều hỏng. Vì khi vừa nói có, là không thấy Phật Tánh đó ở đâu, không màu sắc gì, không hình dạng gì. Nhưng hễ nói không, sẽ trật tức khắc, vì Đức Phật đã dạy rằng người và thú dị biệt chỉ là do nghiệp thiện ác, và đặc biệt trong cõi thấy nghe hay biết này: Ba cõi là tâm, vạn pháp là thức…
Nói “Ba cõi là tâm” vì Đức Phật dạy trong Kinh Tất Cả rằng thế giới chỉ là sáu nội xứ (mắt tai mũi lưỡi thân ý) và sáu ngoại xứ (cái được thấy, cái được nghe, cái được ngửi, cái được nếm, cái được xúc giác, cái được tư lường). Ngoài ra, không có thế giới nào khác. Kinh SN 35.23 sẽ trích ở ghi chú (5).
Đó cũng là lý do, Lục Tổ Huệ Năng khi thấy hai ông tăng tranh cãi về lá phướn bay trước gió, mới nói rằng không phải gió động, không phải phướn động, mà “tâm hai ông động.”
Đó cũng là lý do, nhiều vị Thiền sư khi hốt nhiên đại ngộ nhìn đâu cũng thấy là cái được thấy, đâu đâu cũng được thấy bao gồm trong gương tâm rỗng sáng. Lúc đó đi đứng nằm ngồi đều không lìa cái thấy thọ dụng của tánh không, hễ ngộ được cái rỗng rang Duyên khởi thì tạm gọi là Phật Tánh, khi chưa ngộ được thì vẫn là xuôi theo nghiệp mà trôi. Cho nên, nói có Phật Tánh là không được, mà nói không có cũng là không đặng. Chỉ khi trực ngộ Bản Tâm, cũng là khi nhìn thấy tất cả chung quanh mình bao trùm trong gương sáng rỗng rang, bấy giờ nhìn ra sông hồ đâu đâu cũng thấy là “một hớp uống cạn nước sông Tây giang.” Lúc đó, đi đứng sáu thời đều không lìa Bản Tâm, còn gọi là an trú Không, còn gọi là Không Tam Muội. Không còn thấy tâm nào là tham sân si, tất cả hệt như sương tan trước nắng; nếu còn tâm nào theo dư nghiệp khởi lên cũng tức khắc tan vào cái Không chiếu diệu của mặt trời trí tuệ. Nơi đây, không còn thấy có thường hay vô thường, không còn thấy có gì là Có hay Không hay Hữu hay Vô, không còn thấy có niềm tin hay ngờ vực gì nữa, cũng không còn thấy có cái gì là đại nghi hay tiểu nghi nữa. Vì tất cả trước mắt, bên tai đã hiển lộ thường trực gương tâm rỗng sáng.

MÊ THAM DỤC NHƯ CHÓ GẶM XƯƠNG
Hình ảnh con chó cũng xuất hiện trong một Kinh Trung Bộ.
Đức Phật khi dạy đoạn trừ tham dục, đã so sánh việc say mê tham dục cũng y hệt như một con chó gặm khúc xương đã lóc thịt.
Đó là Kinh MN.54 - Kinh Potaliya, trích:
"...Thế Tôn thuyết giảng như sau
—Này Gia chủ, ví như có con chó đói lả, suy nhược, đi đến một lò thịt giết bò. Ở đây, có người giết bò thiện xảo hay người đệ tử quăng cho nó một khúc xương, khéo lóc, tận lóc, không có thịt, chỉ có dính máu. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Con chó ấy, khi gặm khúc xương ấy, khéo lóc, tận lóc, không có thịt, chỉ có dính máu có thể đoạn trừ được đói lả suy nhược của nó không?
—Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy? Với khúc xương khéo lóc, tận lóc, không có thịt, chỉ có dính máu ấy, bạch Thế Tôn, con chó kia chỉ có mệt nhọc khốn khổ mà thôi.
—Cũng vậy, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Thế Tôn đã nói, dục được ví như khúc xương, khổ nhiều, não nhiều, tai họa ở đây càng nhiều hơn”. Sau khi thấy như chân như vậy với chánh trí tuệ, sau khi từ bỏ loại xả thuộc loại đa chủng, y cứ đa chủng, đối với loại xả thuộc loại nhứt chủng, y cứ nhất chủng, ở đây, mọi chấp thủ đối với thế vật được đoạn trừ hoàn toàn, không có dư tàn, vị ấy tu tập loại xả như vậy."(6)
.
KINH HẠNH CON CHÓ
Trong Trung Bộ Kinh MN.57, Đức Phật nói về người giữ hạnh con chó, trích như sau:
—Bạch Thế Tôn, lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, thực hành những hạnh khó hành, ăn đồ ăn quăng xuống đất, chấp nhận và hành trì hạnh con chó trong một thời gian dài, vậy sanh thú ông ấy thế nào, vận mạng ông ấy thế nào?
—Thôi vừa rồi Puñña, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa.
Lần thứ hai … (như trên) … Lần thứ ba Puñña Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, bạch Thế Tôn:
—Bạch Thế Tôn, lõa thể Seniya hành trì hạnh con chó, thực hành những hạnh khó hành, ăn đồ ăn quăng dưới đất, chấp nhận và hành trì hạnh con chó trong một thời gian dài, vậy sanh thú ông ấy thế nào, vận mạng ông ấy thế nào?
—Này Puñña, thật sự Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của Ông và đã nói: “Thôi vừa rồi Puñña, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa”. Tuy vậy, Ta sẽ trả lời cho Ông. Ở đây, này Puñña, người nào hành trì hạnh con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì giới con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì tâm con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì uy nghi con chó một cách hoàn toàn viên mãn, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh thân hữu cùng với các loài chó. Nếu Ông ấy có tà kiến như sau: “Do giới này, hạnh này, khổ hạnh này, hay phạm hạnh này, ta sẽ sanh thành chư Thiên này, hay chư Thiên khác”, thời này Puñña, đối với kẻ có tà kiến, Ta nói có một trong hai sanh thú như sau: địa ngục hay bàng sanh. Như vậy, này Puñña, nếu hạnh con chó được thành tựu, thời được sanh trong loài chó, nếu không được thành tựu, thời được sanh trong địa ngục.
Khi được nói vậy, lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, khóc than chảy nước mắt..." (7)
LỜI CHÚC XUÂN
Và nơi đây, xin gửi lời chúc xuân tới tất cả độc giả bằng hai câu đối:
Gà cao giọng gáy,
mặt trời chánh niệm lên cao,
định huệ nhất tâm vuông tròn
Chó vẫy đuôi mừng,
vầng trăng thiện hạnh trùm khắp,
từ bi toàn thân hỷ lạc.
NGUYÊN GIÁC

GHI CHÚ:
(1) Kinh Pháp che chở thế gian -
(5) Kinh SN 35.23. https://suttacentral.net/en/sn35.23   Trích:
“And what, bhikkhus, is the all? The eye and forms, the ear and sounds, the nose and odours, the tongue and tastes, the body and tactile objects, the mind and mental phenomena. This is called the all.
“If anyone, bhikkhus, should speak thus: ‘Having rejected this all, I shall make known another all’—that would be a mere empty boast on his part…

VẪN THẾ (MỘT GIẤC MƠ)



VẪN THẾ (MỘT GIẤC MƠ)
‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍
Buổi sáng sương giăng
Tàn cây hỏi đá lạnh không
Hơi thở bỗng thành khói thuốc
Cõi u linh, nỗi cô đơn mênh mông
‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍
Đông Tây lạnh cháy bình minh
Vun xới rác rưới để mưu sinh
Thân gầy thôi thúc, đìu hiu gió bụi
Nghe tim mình thổn thức giấc ly hương
‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍
Nỗi đơn côi trầm lặng muôn trùng
Lây lất tờ lịch cũ xa xăm
Giấc mơ riêng hay cõi tình chung
Tay rung gót mỏi vai gầy ung dung!


Đã đăng ở Nguyệt san CHÁNH PHÁP Số 75, tháng 02.2018

Friday, February 9, 2018

JOHN DEWEY, GIÁO DỤC CHÍNH LÀ CUỘC SỐNG


JOHN DEWEY, GIÁO DỤC CHÍNH LÀ CUỘC SỐNG

Những cuốn sách về triết lý giáo dục thường có xu hướng quy về việc nghiên cứu tư tưởng giáo dục cụ thể của một số nhà triết học-giáo dục học. Việc này có thật sự có cơ sở hay không? Ảnh hưởng của cá nhân các nhân vật đó lúc sinh thời, cho dù họ là những vĩ nhân, không phải bao giờ cũng lớn đến mức có thể định hình cả một nền giáo dục. Trong nhiều trường hợp, những ảnh hưởng đó chỉ là sự hư cấu của những thế hệ sau, vốn bị tách rời khỏi bối cảnh lịch sử và suy nghĩ bằng một lô gích khác. 
Câu trả lời của tôi là, không phải tình cờ mà những nhà giáo dục lớn thường cũng là những nhà triết học lớn. Socrates, Platon, Aristotle, Khổng Tử, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Kant là những ví dụ điển hình. Tất cả những con người khổng lồ này đều đứng ở cội nguồn của những nền giáo dục vĩ đại. Lý do thật ra rất đơn giản. Bất kỳ nền giáo dục nào đáng gọi là một nền giáo dục đều phải bắt đầu từ một triết lý giáo dục mà ba câu hỏi quan trọng nhất là:
1. Bản chất con người là gì? 2. Chúng ta muốn con người trở thành như thế nào? 3. Phải làm gì để có con người chúng ta mong muốn? Để trả lời những câu hỏi này, người ta cần đến triết học.
Ảnh hưởng của các nhà triết học lúc sinh thời có thể không lớn, nhưng điều đó không hề làm giảm tính đại diện của họ đối với một truyền thống triết lý, trong đó có triết lý giáo dục. Lý do là những độc giả của các thế hệ sau có thể bị tách rời khỏi bối cảnh lịch sử của thời đại khi các tác phẩm triết học được viết ra, nhưng tác giả của những tác phẩm ấy thì gắn liền với bối cảnh đó. Về bản chất, các nhà tư tưởng cũng là sản phẩm của thời đại họ sống. Vì thế, ngay cả trong trường hợp tác phẩm của họ chưa thật sự được phổ biến lúc sinh thời, nó vẫn phản ánh ít ra là mầm mống của xu hướng, hay một trong những xu hướng, trí tuệ của thời đại. 
Những điều này rất đúng với John Dewey, với Thực dụng luận, trong đó có Công cụ luận (instrumentalism) do Dewey phát triển, và với triết lý giáo dục của ông.
John Dewey (1859-1952), tác giả của cuốn sách “Dân chủ và giáo dục” là một nhà giáo dục vĩ đại đồng thời là triết gia xuất sắc như vậy. Là một trong ba nhà sáng lập Thực dụng luận1, gia tài tư tưởng triết học và giáo dục đồ sộ của ông bao trùm đời sống trí tuệ của nước Mỹ suốt thế kỷ 20 và ông thực sự trở thành thần tượng của những trí thức Hoa Kỳ lỗi lạc nhất. Richard Rorty tuyên bố: “Triết gia tôi ngưỡng mộ nhất, người tôi được coi mình là học trò nhất, là John Dewey”2. Noam Chomsky, người hồi nhỏ từng theo học rồi về sau dạy học ở một trường theo đường lối của Dewey, cũng thừa nhận thường xuyên trích dẫn John Dewey như một người có ảnh hưởng to lớn đến cuộc đời mình. 
Thực dụng luận, nền triết học đặc biệt Hoa Kỳ, là sản phẩm của một xã hội kỳ lạ. Xã hội ấy được đặc trưng không chỉ bởi tính dân chủ (cho dù khi đó mới chỉ áp dụng với người da trắng), bởi một nền kinh tế tự do chưa từng có trong lịch sử3 với mạng lưới phức tạp của những quan hệ xã hội, và trên hết là bởi một mặc cảm không quá khứ vô tiền khoáng hậu dẫu nền tảng tư tưởng của nó vẫn gắn liền với truyền thống duy lý phương Tây. Chính những đặc điểm này, bằng cách nào đó, đã thúc đẩy Charles Peirce và William James, và sau đó là John Dewey, từ bỏ Siêu hình học và đề cao sự hữu ích cũng như tính hiệu quả - những ý tưởng chính của Thực dụng luận. Các nhà Thực dụng luận cho rằng tri thức của chúng ta không hề có một nền tảng khách quan tuyệt đối nào, vì thế, thay vì đánh giá tri thức qua sự tương ứng của nó với chân lý khách quan, chúng ta chỉ có thể đánh giá tri thức qua khả năng ứng dụng để lý giải và dự báo thực tại trong những hoàn cảnh cụ thể. Nói theo cách của Công cụ luận, chân lý chỉ là một thứ công cụ để chúng ta giải quyết các vấn đề của thực tại. Khi thực tại thay đổi, các vấn đề cũng thay đổi, các công cụ bắt buộc cũng phải thay đổi theo. Về điểm này, họ chính là những tiền bối của chủ nghĩa Hậu hiện đại.
Thực dụng luận được thể hiện một cách xuất sắc qua triết lý giáo dục của John Dewey với những tác phẩm như “Trường học và xã hội” (The School and Society ,1899), “Cách chúng ta nghĩ” (How We Think, 1910), “Kinh nghiệm và giáo dục” (Experience and Education, 1938), và “Dân chủ và giáo dục” (Democracy and Education, 1916)…, trong đó ông chủ trương một nền giáo dục gắn liền lý thuyết và thực tiễn.
Thật ra, học đi đôi với hành không phải là hoàn toàn mới, nhưng ở John Dewey, nó dựa trên một quan niệm độc đáo. Nếu như trước đây người ta quan niệm giáo dục như là quá trình truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm, hoặc là quá trình rửa tội và thanh lọc tâm hồn, hoặc nữa, một quá trình khai sáng nhằm giúp con người tự do sử dụng lý trí, thì với John Dewey, “giáo dục chính là bản thân cuộc sống” (Education is life itself). Dewey lập luận rằng trái với con vật chủ yếu sống bằng những bản năng bẩm sinh, con người sống chủ yếu bằng kinh nghiệm ứng xử với thế giới xung quanh.
Lý thuyết của John Dewey về kinh nghiệm dựa trên hai nguyên lý chính, đó là nguyên lý liên tục (continuity) và nguyên lý tương tác (interaction). Nguyên lý liên tục khẳng định rằng những kinh nghiệm mà con người tích luỹ được trong quá khứ sẽ ảnh hưởng đến tương lai của người đó, còn nguyên lý tương tác hàm ý rằng tương tác của kinh nghiệm quá khứ với hoàn cảnh hiện tại sẽ tạo ra kinh nghiệm mới, kinh nghiệm trong hiện tại.
Ứng dụng vào giáo dục, lý thuyết của John Dewey hàm ý rằng người thầy không thể không quan tâm đến những kinh nghiệm quá khứ của người học và kinh nghiệm quá khứ ấy cũng không nhất thiết phải là tiêu cực hay tích cực đối với quá trình giáo dục. Người thầy không thể kiểm soát quá khứ của người học, nhưng có thể tổ chức bối cảnh học tập phù hợp để tạo cho người học kinh nghiệm hiện tại thông qua tương tác giữa bối cảnh học tập với kinh nghiệm quá khứ của người học. “Giáo dục –John Dewey viết- là một hoạt động của cuộc sống, chứ không phải là sự chuẩn bị cho cuộc sống tương lai”.
Vì giáo dục chính là bản thân cuộc sống, nhà trường không thể tách khỏi hoạt động thực tiễn, và kiến thức không thể được áp đặt từ bên ngoài. Đây chính là cơ sở cho khẩu hiệu “Hãy phá bỏ hàng rào nhà trường” mà mục tiêu là đưa nhà trường hòa nhập với cuộc sống của toàn xã hội.
Vì giáo dục chính là bản thân cuộc sống, không thể có một thứ giáo dục chung cho tất cả mọi người. Người thầy phải ý thức rõ và tôn trọng sự khác biệt giữa các học sinh.
Vì giáo dục chính là bản thân cuộc sống, nó phải là quá trình của người học chứ không phải của người dạy. Giáo dục là quá trình mà người học là trung tâm.
Nói cách khác, giáo dục phải là một quá trình dân chủ sâu sắc./.
----------------
1 Ở Việt Nam, từ lâu từ “Chủ nghĩa thực dụng” đã bị hiểu theo nghĩa hẹp và tiêu cực, vì thế tôi chủ trương dùng từ “Thực dụng luận” để dịch từ “Pragmatism”. (N.T.L)

2 “The philosopher I most admire, and of whom I should most like to think of myself as a disciple, is John Dewey”. Habermas, Rorty and Kolakowski, “Debating the State of Philosophy”, Praeger Publishers, 88 Post Road West, Westport, 1996, tr. 32.
3 Xin đọc thêm bài “Về Hoa Kỳ như một đặc khu kinh tế tự do”, trong “Minh triết của giới hạn”, NXB. Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2005.


Ngô Tự Lập

Monday, February 5, 2018

3 Bài thơ LỤC BÁT BA CÂU

Thư Pháp - Võ Việt Tuấn

LỤC BÁT BA CÂU

1.
Mênh mông sương trắng ngút ngàn
Nắng mai vừa hé nhẹ nhàng tử sinh
Thời gian vỗ cánh bình minh.

2.
Đó đây nữa kiếp rong chơi
Giọt mưa vạt nắng thảnh thơi cõi lòng
Đêm nay sương khói long đong!

3. 
Lang thang phố vắng đìu hiu
Người không nhà cửa thiu thiu giấc nồng
Chợt rằng mộ trống nằm trong.

Đọc tiếng Anh ở đây (Read English here)