Wednesday, March 25, 2020

Hy Sinh Người Già Để Cứu Vãn Kinh Tế?


Hy Sinh Người Già Để Cứu Vãn Kinh Tế?

Lệnh “Cách Ly Tại Nhà” của Tổng Thống Donald Trump nhằm kiềm chế sự lan tràn của dịch cúm Corona tại Hoa Kỳ…dĩ nhiên là phải trả giá về kinh tế. Nạn thất nghiệp gia tăng, sự thiệt hại về kinh tế có thế ước lượng cả chục ngàn tỉ Mỹ Kim. Và nếu tình trạng khẩn trương kéo dài trong ba tháng có thể đưa đến kinh tế suy xụp. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều chấp nhận hy sinh kinh tế để cứu mạng người.

Thế nhưng tại Hoa Kỳ có khác. Trước nhu cầu tái tranh cử vào Tháng 11 tới đây. Nếu kinh tế cứ như thế này thì hy vọng tái cử rất mong manh. Do đó Ô. Trump gợi ý có thể hủy bỏ sắc lệnh phong tỏa vào 12/4 tới đây, tức sinh hoạt sẽ trở lại bình thường. Khi đó, hai tình huống có thể xảy ra. Thứ nhất: Khi lệnh cách ly hủy bỏ, dịch cúm Corona sẽ lan nhanh và lúc đó vô phương cứu chữa, người ta sẽ chết hàng loạt. Thứ hai: Có thể dịch cúm cũng sẽ lan tràn nhưng ở tốc độ vừa phải. Người trẻ có sức chịu đựng sẽ không chết. Còn người già nếu có chết vài ngàn cũng không sao nhưng kinh tế hồi phục.

Ô. Dan Patrick - Phó Thống Đốc Tiểu Bang Texas – 69 tuổi, một đồng minh của Ô. Trump trong một cuộc hội thoại trên Fox News nói rằng các cụ ông cụ bà (grandparents) Hoa Kỳ sẵn sàng chết vì dịch cúm Corona để cứu vãn nền kinh tế. Ông lên án việc phong tỏa và đóng cửa các cơ sở không cần thiết. Nếu việc phong tỏa kéo dài ba tháng thì nền kinh tế Mỹ sẽ xụp đổ và ông không muốn cả quốc gia phải hy sinh. Ông còn nói rằng ông sẵn sàng hy sinh tính mạng mình cho nền kinh tế.

Trong khi đó Ô. Andrew Cuomo- Thống Đốc Tiểu Bang New York lại có quan điểm ngược lại. Là tiểu bang chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch cúm Corona với 20,875 người nhiễm bệnh và 157 người chết, Ô. Cuomo nói rằng, “Mẹ tôi không thể bị hy sinh, mẹ của bạn cũng không thể bị hy sinh và các anh chị em của chúng ta cũng không thể bị hy sinh và chúng ta sẽ không chấp nhận tiền đề cho rằng mạng người có thể bỏ đi  và chúng ta chũng không đặt đồng đô-la lên sinh mạng của con người.” (New York Gov. Andrew Cuomo took issue with the ethical choices implied by Trump’s priorities, saying, “My mother is not expendable and your mother is not expendable and our brothers and sisters are not expendable, and we’re not going to accept a premise that human life is disposable, and we’re not going to put a dollar figure on human life.”)

Chúng ta nghĩ gì về chủ trương “hy sinh người già để cứu vãn kinh tế”? Là một Phật tử với tinh thần Từ Bi và “Khẩu hòa vô tránh”, tôi không dám tranh luận về vấn đề này mà chỉ đưa ra ý nghĩ là: Nhân đạo là gì? Nhân đạo là tôn trọng mạng người, bảo vệ mạng người, cứu người mà không phân biệt, tuổi tác, màu da, chủng tộc và không thể có bất cứ lý do gì để hy sinh mạng người. Nếu vì lý do kinh tế mà chúng ta phải hy sinh người già tức là chúng ta theo “Chủ nghĩa nhân đạo có điều kiện”. Xin nhớ, ngoài nhân đạo chúng ta còn có tình đồng loại theo câu nói, “Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ” và “Máu chảy ruột mềm”. Khi gặp khốn khó chúng ta phải chung sức, chung lòng, chia ngọt xẻ bùi và chia xẻ trách nhiệm chứ không phải ích kỷ chỉ nghĩ tới mình. Chúng ta không thể hy sinh một tầng lớp nào đó cho phúc lợi của một tầng lớp nào đó.

Trong lịch sử nhân loại có một thời kỳ bi thảm đó là chủ trương thanh lọc chủng tộc của Hitler. Theo Biên Niên Sử Thế Kỷ XX (Chronicle of the 20th Century), vào ngày 26/7/1933, bằng một loạt các sắc lệnh, Hitler ra lệnh lành mạnh hóa chủng tộc để không còn người mù, câm, điếc, thân thể méo mó, di truyền, khờ dại, động kinh…ngăn cấm lai giống để chỉ đẻ ra giống Aryan thuần chủng thông minh, đẹp đẽ, thân hình cao lớn, tóc vàng. Bằng ý tưởng điên rồ và man rợ, Hitler vì muốn có một giống Đức thuần chủng và đẹp đẽ, đã giết chết biết bao nhiêu người vô tội. Ai cũng có quyền sống dù đó mà người già nua, tàn tật, dui mù, câm điếc. Đó là lòng nhân đạo hay lý tưởng nhân đạo. Là lãnh đạo đất nước chúng ta phải có trách nhiệm bảo vệ mạng sống của toàn dân chứ không phải hy sinh lớp người này để cứu lớp người kia.

Là người Phật tử, hành động cần thiết trong cơn đại nạn là không kinh hoảng, không kỳ thị, nhẫn nại chịu đựng, cầu nguyện và phát triển tâm lành, đồng thời tin tưởng vào các nhà khoa học, bác sĩ, dược sĩ và những quyết định đúng đắn của chính quyền.

Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát,

Thiện Quả Đào Văn Bình

(California ngày 25/3/2020)





Huyền Học Đạo Phật và Thiên Chúa Của D. T. Suzuki

Nhân đọc: Huyền Học Đạo Phật và Thiên Chúa Của D. T. Suzuki
Thích Phước An


MEISTER Eckhart, sinh tại nước Đức, là nhà thần bí vĩ đại của Thiên Chúa Giáo thời Trung Cổ. Sự xuất hiện của Eckhart đã làm đảo lộn những người đi trước ông, D. T. Suzuki trong Mysticism; Christian and Buddhist (xin xem Huyền Học: đạo Phật và Thiên Chúa, bản dịch của Như Hạnh, Kinh Thi 1974) đã nói rằng, lần đầu tiên khi đọc Eckhart, ông đã xúc động tràn trề, và D. T. Suzuki cho rằng, Eckhart đúng là “một tín đồ Thiên Chúa Giáo phi thường” và Thiên Chúa Giáo của Eckhart, D. T. Suzuki nghĩ là “thật độc đáo và có nhiều điểm khiến chúng ta do dự không muốn xếp ông thuộc vào loại mà ta thường phối hợp với chủ nghĩa hiện đại duy lý hóa hay chủ nghĩa truyền thống bảo thủ. Ông đứng trên những kinh nghiệm của riêng mình, một kinh nghiệm phát sinh từ một tư cách phong phú, thâm trầm, và đạo hạnh”. Và như vậy D. T. Suzuki, viết tiếp về Eckhart: “Ông cố hóa giải những kinh nghiệm ấy với cái loại Thiên Chúa Giáo lịch sử rập khuôn theo những truyền ký và huyền thoại. Ông cố đem cho chúng một ý nghĩa “bí truyền” hay “ nội tại” và như thế ông bước vào những địa vực mà đa số những tiền nhân lịch sử của ông không chạm đến”.
M. Eckhart nỗ lực giải thích Thánh Kinh trong một ánh sáng khác. Ví dụ vấn đề thời gian đối với Chúa không hề là thời gian theo quan niệm toán học:
“Ngày của linh hồn và ngày của Chúa khác nhau. Trong ngày tự nhiên của nó linh hồn biết tất cả vạn vật trên thời gian và không gian; chẳng có gì xa hay gần. Và chính vì thế mà tôi nói, ngày hôm ấy vạn hữu bình đẳng. Nói về thời gian như là được sáng tạo bởi Chúa ngày mai, hôm qua, hẳn là nói điều phi lý; Chúa tạo ra thế gian và vạn vật trong cái bây giờ hiện tại. Thời gian trôi một ngàn năm qua đối với bây giờ cũng hiện tại và gần gũi đối với Chúa như chính giây phút này. Cái linh hồn ở trong cái bây giờ hiện tại này, trong đó đấng Cha sinh ra đấng Con duy nhất và cũng trong sự sinh ấy linh hồn được hồi sinh trong Chúa, đó là sự sinh; cũng nhanh như linh hồn được tái sinh trong đấng Cha đang sinh đấng Con duy nhất của Ngài trong nó”.
Và như vậy M. Eckhart cho chúng ta thấy rằng, thời gian là vô thủy và vô chung:
“Chúa Đấng Cha và Đấng Con không liên hệ gì với thời gian. Sinh không ở thời gian, nhưng ở tận cùng và giới hạn của thời gian. Trong những vận hành quá khứ và vị lai của sự vật, trái tim ta lướt qua; nỗ lực để biết những sự vật vĩnh cửu thì thật là vô ích, phải để tâm trí vào những sự vật thiêng liêng”.
Cách giải thích Thánh Kinh như trên thì thật khó mà người Thiên Chúa Giáo chấp nhận, nhất là Thiên Chúa Giáo thời Trung Cổ. D. T. Suzuki nhận xét đoạn văn của Eckhart: “Từ những đoạn văn này, chúng ta thấy rằng câu chuyện sáng tạo trong Thánh Kinh hoàn toàn mâu thuẫn; nó không có được ngay cả một biểu tượng trong Eckhart, và hơn nữa, Chúa của ông cũng chẳng hề giống đức Chúa mà hầu hết người Thiên Chúa Giáo quan niệm. Chúa không ở trong thời gian có thể liệt kê được theo toán học. Sáng tạo tính của Ngài không có tính cách lịch sử, không có tính cách ngẫu nhiên, và không tài nào đo lường được. Nó diễn biến liên tục, không khởi thủy, không chung cục. Đó không phải là một biến cố của hôm qua hay hôm nay hay ngày mai, nó phát sinh từ vô cùng, từ hư vô, hay từ không tuyệt đối.” Và chúng ta có thể đọc thêm câu nói này của Augustin: “Chúa đang làm hôm nay tất cả những gì sẽ được làm trong ngàn năm vị lai nếu như thế gian tồn tại được lâu dài như thế và Chúa vẫn đang làm hôm nay tất cả những gì Ngài đã làm trong nhiều ngàn năm dĩ vãng”.
Nhưng nếu chúng ta đọc đoạn trên của Eckhart trong tinh thần của Phật Giáo, nhất là Phật Giáo Đại Thừa thì cách giải thích trên chẳng lạ gì đối với Phật Giáo. Trong kinh Pháp Hoa (Saddharmapundarika Sutra) phẩm “Vô Lượng Thọ” Đức Phật đã không hề bảo Ngài đã thành Đạo trong một thời gian nhất định nào.
“Này, Thiện Nam Tử, Ta thành Phật đến nay đã lâu đến vô số trăm ngàn vạn ức vô lượng vô biên kiếp rồi. Giả tỉ như có người nghiền nát vô số trăm ngàn vạn ức thế giới ba ngàn này thành hạt bụi, giả tỉ người ấy đi qua Phương Đông đặt hạt bụi ấy ở một nước, và cứ thế đặt khắp Phương Đông tất cả hạt bụi trong khắp vô số trăm ngàn vạn ức vô lượng vô biên nước. Này, Thiện Nam Tử, các ông nghĩ thế nào? Có ai suy nghĩ, tính toán, ước lượng được con số của toàn thể thế giới ấy không?
Bồ Tát Di Lặc cùng chúng hội Bồ Tát bạch Phật: “Thế Tôn, không ai tính biết số thế giới vô lượng vô biên ấy được, sức người không đương nổi, tất cả Thanh Văn, Duyên Giác đã chứng trí vô lậu cũng không thể nghĩ, đếm biết con số ấy được, cả đến chúng tôi, được quả bất thối vẫn không lường được vì lẽ, bạch Thế Tôn, những thế giới ấy vốn vô lượng vô biên vậy”.
Phật liền nói với chúng hội Bồ Tát rằng: “Các Thiện Nam Tử, này ta nói rõ cho các ông nghe: Những thế giới ấy mà người kia đặt một hạt bụi , tất cả những hạt bụi ấy, mỗi hạt bụi ví như một kiếp, Ta thành Phật từ ấy đến nay còn nhiều hơn số trăm ngàn vạn ức vô biên kiếp ấy. Từ ấy đến nay, Ta luôn luôn ở tại thế giới Ta Bà này nói Pháp giáo hóa chúng sanh”.
Tất cả tư tưởng của Eckhart là đưa con người đi về lại suối nguồn của Thiên Thể (Gottheit) muốn đi vào Thiên thể thì phải từ bỏ mọi sự kể của Chúa, bởi vì theo Eckhart, khi mà trong lòng còn rơi rớt lại một cái gì đó thì con người không thể đạt đến tận nơi suối nguồn của Thiên Thể. Nhưng Thiên Thể là gì? Trong một bài giảng Eckhart nói về Thiên Thể:
“Trong khi tôi tồn tại trên nền tảng , trên căn đễ, trong dòng sông và nguồn nước của Thiên Thể, không ai hỏi tôi đang đi đâu hay tôi đang làm gì: không có ai để hỏi tôi. Khi tôi đang trôi chảy tất cả các tạo vật nói về Chúa. Khi người ta hỏi tôi, Eckhart này, khi nào thì ông ra khỏi nhà? Thì hẳn là tôi đã ở trong nhà. Dù vậy đi nữa tất cả những tạo vật cũng nói về Chúa và tại sao họ không nói về Thiên Thể? Tất cả mọi vật ở trong Thiên Thể đều là một, và chã có gì để nói về điều ấy. Chúa làm việc, Thiên Thể không làm gì cả, chẳng có gì để làm. Trong Thiên Thể không có tác động. Nó không bao giờ trù tính một công việc gì cả. Chúa và Thiên Thể dị biệt với nhau như là hoạt động và bất động. Khi trở về với Chúa, ở nơi mà tôi vô hình tướng, sự phá thấu của tôi hẳn sẽ cao thượng hơn sự phát xuất của tôi. Một mình tôi đem tất cả tạo vật ra khỏi ý nghĩa của chúng vào tâm trí tôi và biến chúng thành trong tôi. Khi tôi trở lại nền tảng, vào những thâm xứ, vào suối nguồn của Thiên Thể, hẳn sẽ không ai hỏi tôi từ đâu đến và đi về đâu? Không ai tiếc nhớ tôi: Chúa tịch diệt.
D. T. Suzuki cho rằng, chân trời Thiên Thể của Eckhart hoàn toàn phù hợp với giáo lý Tánh Không (Sunyata) của Phật Giáo. Nhưng D. T. Suzuki cũng không quên lưu ý chúng ta biết rằng, chữ Sunyata là chữ đã gây ra ngộ nhận nhiều nhất tại Tây Phương, nếu không muốn nói là đã làm cho các nhà học giả Tây Phương sợ hãi. Và họ vẫn không ngớt bảo Phật Giáo là hư vô thuyết (nihilism). Sự hiểu lầm này, thật ra thì quá dễ hiểu, vì người Tây Phương họ đã sống trong một bối cảnh tâm linh khác biệt với chúng ta – bởi vậy, khi ta bắt buộc những tư tưởng gia này nhảy vào một hệ thống hay không khí xa lạ thì đương nhiên học phải mất thăng bằng hay kết án nó là tiêu cực hay phá hoại. Chúng ta phải hiểu Tánh Không như thế nào? Có một câu chuyện sau đây đã xảy ra giữa Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư của Phật Giáo Thiền Tông Trung Quốc và vua Lương Võ Đế. Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ vượt đại dương đến Trung Hoa. Lương Võ Đế mời Đạt Ma vào triều, thì câu chuyện đã xảy ra như thế này:
Lương Võ Đế vấn Đạt Ma Đại Sư. Như hà thị thánh đế đệ nhất nghĩa? Ma vân: quách nhiên vô thánh. Đế viết: Đối trẩm giả thùy?  Ma vân. Bất thức.
Đế hỏi: Thế nào là chân lý tối thượng?
Đạt Ma: Trống không, chẳng có gì là thánh trong đó cả,
Đế hỏi: Thế ai đang đứng trước mặt trẩm?
Đạt Ma: Không biết (bất thức).
Lương Võ Đế, ông vua mộ đạo đã từng lập chùa, độ tăng vô số này không hiểu nỗi đạo lý tối thượng của Bồ Đề Đạt Ma tức thì Đạt Ma liền quay về phương Bắc, ngồi nhìn vào vách đá chùa Thiếu Lâm (cửu niên diện bích) trong suốt chín năm trời.
D. T. Suzuki đã tưởng tượng một cách thú vị về cuộc diện kiến kỳ lạ này: 
“Hẳn sẽ là một biến cố sôi nổi nếu lại có Eckhart hiện diện ở buổi diện kiến này xảy ra trong cái vương quốc hoa lệ vào thế kỷ mười một trước ! Nhưng biết đâu Eckhart lại chẳng đang nhìn tôi viết những điều này ở thành Nữu Ước tân thời và cơ giới nhất?”
Trong cuộc hội kiến trên, hai tiếng “bất thức” của Bồ Đề Đạt Ma rất quan trọng. D. T. Suzuki cho là hai tiếng “bất thức” không thể hiểu theo những người theo thuyết bất khả tri (agnosticism) vì “bất thức” ở đây hoàn toàn thuộc vào một loại khác, “bất thức” thì phải hiểu theo Eckhart: “Trí thức chuyển hóa, chứ không phải sự dốt nát và thiếu hiểu biết. Chính nhờ biết mà chúng ta đạt đến cái không biết này. Bây giờ chúng ta biết rằng cái biết linh thánh, bây giờ cái dốt nát của ta mới được nâng cao và trang điểm với kiến thức siêu nhiên”.
Vì vậy, Sunyata (Emptiness) không có nghĩa là trống không. D. T. Suzuki cho rằng ngay cả những tiếng như: khiếm diện, tuyệt diệt hay trống không – thì đó không phải là ý niệm của Tánh Không. Tánh Không của Phật Giáo không ở trên bình diện tương đối siêu việt tất cả những hình thức liên hệ hỗ tương, của chủ thể và khách thể, sanh và tử, thượng đế và thế gian, có và không, xác nhận và phủ nhận. Trong Tánh Không không có thời gian, không có không gian, không có biến thành, nó là cái làm tất cả những cái này có thể có; Nó là một số không đầy những khả tính vô biên, nó là cái không với những nội dung bất tận.
Như vậy thấy được Tánh Không tức là thấy được khuôn mặt của mình trước khi mình sinh ra (bản lai diện mục) như Lục Tổ Huệ Năng, một nhà huyền học vĩ đại khác của Đông Phương đã nói vậy. Đâu đó, trong một bài giảng Eckhart, ông cũng nói tương tự: “Trước các tạo vật, trong cái bây giờ vĩnh cữu, tôi đã diễn trò trước Đức Cha trong nỗi tịch lặng thiên thu”, thấy được khuôn mặt mình trước khi mình sinh ra, tức là trở về thăm lại cố hương của mình trong trạng thái hồn nhiên nguyên thủy của nó. Ở đó, trái cây trí thức chưa bám rễ.
Có một điều đáng lưu ý ở đây là, căn bản triết lý của Phật giáo đặt trên nền tảng nào? Hiểu được điểm này tức là thấy được sự khác biệt của Phật giáo với mọi hệ thống tư tưởng khác. D. T. Suzuki đã nói lên sự khác biệt ấy – một cách triệt để, triết lý Phật giáo được xây dựng trên kinh nghiệm giác ngộ của Đức Phật – nếu không có giác ngộ tức là không có Phật giáo. Sử chép rằng, sau sáu năm lang thang khổ hạnh và trầm tư, Đức Phật, trong một đêm kia khi sao mai mọc, Ngài đã hốt nhiên đại ngộ. Lần đầu tiên ngài khám phá ra Gahakaraka (kẻ làm nhà), chính cái Gahakaraka này đã khiến con người đắm chìm trong đêm dài sinh tử, không làm chủ lấy mình. Khám phá ra cái Gahakaraka tức là chấm dứt mọi ràng buộc nô lê thúc phược của đời sống. Khi Đức Phật khám phá ra cái nguyên nhân này, Ngài thốt lên:
Tìm kẻ dựng căn nhà này
Ta lang thang vô ích
Qua bao kiếp luân hồi
Và những kiếp luân hồi mệt mỏi thay.
Nhưng giờ đây, kẻ làm nhà kia, ta đã thấy ngươi
Ngươi sẽ không dựng lên căn nhà này nữa
Tất cả những đòn ruôi của ngươi đã gãy
Kèo cột của người đã tan tành
Đã đạt đến tịch diệt của tất cả tham ái
(Pháp cú) 
Nhưng Đức Phật đã dùng khí giới gì để khám phá ra điều này? Khoản thứ nhất của Bát Chánh Đạo là Sammadassana – Chánh Kiến. Thấy tức là thể nghiệm thực tại; và kế đến là Sammasankappa, chánh trí, nhìn thấy sự vật trong trạng thái như tính (tathata) hay hiện tính của chúng. Toàn thể triết lý Phật giáo xuất phát từ chữ “kiến” cái mà Đức Phật đã từng trầm tư:
Các hành (sankhara) là vô thường
Nhờ trí (panna) quán xét vậy,
Sẽ nhàm chán thống khổ
Chính là đạo thanh tịnh
Các hành là thống khổ
Nhờ trí quán xét vậy
Sẽ nhàm chán thống khổ
Chính là đạo thanh tịnh
Các pháp là vô ngã
Nhờ trí quán xét vậy
Sẽ nhàm chán thống khổ
Chính là đạo thanh tịnh
(Pháp cú)
Chữ “kiến” này không thể nằm trong bình diện thông thường – điều này cần một tuệ giác siêu việt. Nói theo các nhà đại thừa Phật giáo thì đó chính là cái thấy của Trí Bát Nhã – chỉ có trực giác Bát Nhã mới thấy được tất cả các pháp (sarvadharma) thì  tự ngã của chúng mới phơi bày những tinh lực xây dựng tích cực và làm tiêu tan những mây mờ của maya (ảo hóa) tức là đập tan mọi cơ cấu ảo tưởng, và một thế giới khác sẽ được thiết lập trên nền tảng của Bát Nhã (trí tuệ) và karuna (từ bi). Vì vậy, nói theo D. T. Suzuki, giác ngộ có nghĩa là vượt qua thế giới của tâm lý học, là khai mở con mắt Bát Nhã, tức là nhảy thẳng vào thực tại cứu cánh, vượt qua bờ bên kia của dòng luân hồi (Samsara). Nơi đó, tất cả các pháp được nhìn thấy từ trạng thái như thị của chúng. Bởi thế, Phật giác ngộ có nghĩa là đã đạt đến những thâm xứ uyên áo nhất của thực tại.
Chữ “kiến” đóng một vai trò quan trọng trong tri thức luận của Phật giáo, vì “kiến” nằm trên nền tảng của “tri”, không có “kiến” thì không thể “tri” được. Tất cả tri thức được khởi đầu từ “kiến” – và chính “kiến” và “tri” đã đưa thái tử Tất Đạt Đa hoàn thành tuệ giác vô thượng dưới gốc cây Bồ Đề cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Một người đã đạt được trạng thái giác ngộ có nghĩa là đã đạt đến chiến thắng cuối cùng và không có một ai có thể thấy vết tích của người ấy được -  vì kẻ ấy đã đi và không để lại dấu vết, tiếng Phạn “không dấu vết” là apada.
Như vậy, giác ngộ tức là trở về lại mái nhà xưa sau bao kiếp lang thang trôi dạt. Trong một bài giảng Eckhart cũng đã nói về sự trở về này: “Trở về lòng mẹ, mà từ ấy tôi sinh ra, tôi không có Chúa mà chỉ có chính tôi: Tôi không ước muốn hay khát vọng gì cả, vì tôi là sự hiện hữu thuần túy, một kẻ biết về chính mình bởi chân lý linh thánh”. D. T. Suzuki đã nói rằng, Eckhart đã sống vào thời Trung Cổ, giữa những đầu óc hẹp hòi của người Thiên Chúa Giáo thời đó thì việc họ không chấp nhận Eckhart thì chẳng có gì lạ. Eckhart mất năm 1327. Hai năm sau (1329) Đức Giáo Hoàng Jean XXII đã khai trừ tư tưởng Eckhart.
Đọc Eckhart, ta bắt gặp một không khí hoàn toàn Đông Phương, nhất là Đông Phương của Phật giáo Đại Thừa. D. T. Suzuki đã trích lại cảm tưởng Coomaraswamy:  
“Eckhart tiêu biểu một đối chiếu gần gũi lạ lùng với những lối suy tưởng Ấn Độ. Đôi khi cả đoạn đọc giống như một bản dịch trực tiếp từ Sanskrit. Dĩ nhiên, không phải chúng ta nói rằng có những yếu tố Ấn Độ nào đó hiện diện thực sự trong văn phẩm Eckhart, mặc dù có một Đông Phương trong truyền thống Âu Châu, phát sinh từ những nguồn tân Plato hay Ả Rập. Nhưng những gì được chứng minh bằng loại suy tư không phải ảnh hưởng của một hệ thống tư tưởng đối với hệ thống khác, mà là sự nhất trí của truyền thông siêu hình học trên thế giới vào mọi thời”.
Chúng ta đồng ý với Coomaraswamy rằng Eckhart đã không ảnh hưởng Đông Phương gì cả, mà chính là “đồng thanh tương ứng” của những tâm hồn vĩ đại, những kẻ đã nhảy vào thực tại.

Thích Phước An

Tuesday, March 24, 2020

Cám Ơn Cụ Bùi Diễm… So Great!

Cám Ơn Cụ Bùi Diễm… So Great!

Uyên Nguyên

    Cụ Bùi Diễm (Ảnh: Uyên Nguyên)
Một lần khi Cụ Bùi Diễm về Cali, nhân đó anh Đinh Quát có ý định làm một loạt tư liệu “lịch sử truyền khẩu” (oral history). Cụ bảo cụ lớn tuổi rồi, viết chậm. Nên cách này có lẽ là hay nhất để lưu trữ tư liệu “Lịch Sử Việt Nam”. Tôi là một trong mấy anh em được anh Thái giao việc bấm máy trong studio. Buổi đó lợi dụng cơ hội gặp Cụ, nhân lúc nghỉ giải lao hoặc cuối giờ, tôi có hỏi mấy việc liên quan phong trào và những nhân vật liên hệ phong trào đấu tranh Phật Giáo ở Pháp.
Trở lại vấn đề Hoa Kỳ, ngoài những tình tiết liên quan Hiệp Định Gernever mà có lẽ Cụ là người am tường nhiều hơn hẳn, tôi cũng có dịp tranh thủ hỏi Cụ. Bởi đơn giản tôi cũng từng có những lúc bâng khuâng, như cách nhà thơ Vi Khuê bộc bạch:
“Con lớn lên vô cùng bở ngỡ
trước những điều tư lự của Cha Ông.”
Cái cách mà người lớn hay ví von “Khi đồng minh tháo chạy”, rồi có lúc “Khi đồng minh nhảy vào”. Hay nói một cách khác rằng chính phủ Mỹ đã từng bỏ rơi Miền Nam Việt Nam, quân đội Mỹ đã từng quay lưng với quân đội VNCH v.v… Tất nhiên ai nói thì tôi không cần phải dẫn chứng ở đây vì nếu chịu khó tìm hiểu và tìm hiểu một cách khách quan, cặn kẽ ắt sẽ có câu trả lời. Vậy thì khi nói như vậy, chẳng khác nào mình nói “nước Mỹ không vĩ đại”. Mình nói được, sao người khác nói không được?
Ở đây sẽ chẳng bao giờ có câu trả lời thỏa đáng, ngay cả công dân Hoa Kỳ còn chê tổng thống của họ, vẫn chưa vừa ý về “tính vĩ đại” của đất nước mình. Chính ở yếu tố này mà ứng cử viên tổng thống ngày nào, Donald Trump, mới giương khẩu hiệu “Make America great again!”
Ổng chê nước Mỹ không còn vĩ đại và vỗ ngực xưng tên sẽ làm cho nó vĩ đại trở lại được, sao người khác nói không được?
Cụ Bùi Diễm, một lần họp mặt tại nhà bác Ngô Nhân Dụng
ở Miền Nam California, có cả Cụ Trần Đĩnh
 (Ảnh: Uyên Nguyên)
Vậy thì, đúng là nước Mỹ (đang) không có vĩ đại, không có “great” chút nào cho nên ông Trump nói như vậy. Mà rồi ổng nói được, lại vẫn có người thích, có người không. Thậm chí có người chửi không ra làm sao nhưng chẳng ai bị đàn áp khủng bố như nhân dân Việt Nam chê Đảng và chê lãnh tụ nhà nước CSVN đâu? Cho nên cái không vĩ đại với người này thì nó lại vĩ đại với người khác. Cái vĩ đại của Vạn Lý Trường Thành mà vua Tần Thủy Hoàng bên Trung Hoa dựng lên bằng bao xương máu của bá tánh thì không thể so sánh cái vĩ đại của Chùa Một Cột ngoài Bắc Việt tuy “nhỏ như cái chuồng câu”*.
Tóm lại nếu bây giờ mà đi hỏi ông Trump, có người phê phán ông nước Mỹ của ông không có vĩ đại, ông nghĩ sao? Chắc cũng chẳng có gì mới ngoài câu: Make America Great, hãy làm cho nước Mỹ vĩ đại.
Ít ra, đừng làm cho nó hẹp lượng hơn!
Hổng chừng ổng lại nói cám ơn quý vị, vì có người đồng cảm với ông, rằng nước Mỹ tự nó có vĩ đại đâu. Vĩ đại là ở cách đối đãi, xử sự của mọi người với nhau.
Nước Mỹ vĩ đại là ở chỗ đó.
Cho nên tui thích cách trả lời rất kinh nghiệm từng trải của Cụ Bùi Diễm. Không chấp trước. Có lẽ Cụ từng trải với chính sự Thế Giới, Hoa Kỳ và cả Cộng Đồng Người Việt.
*
Thưa Cụ, Cụ nghĩ sao về Chính Phủ Mỹ đối với Việt Nam?
“Nước Mỹ là một đất nước RẤT NHÂN ĐẠO, nhưng đồng thời là một đất nước ĐẶT QUYỀN LỢI QUỐC GIA LÊN HÀNG ĐẦU!”
Great! Cám ơn Cụ Bùi Diễm.
Mặc Cốc, 24 tháng Ba, 2020
Uyên Nguyên

PRESCRIPTION FOR THE RESCUE OF THE MEKONG: GRAY MATTER WITH A VOICE




Ngô Thế Vinh at the foot of the Manwan Dam 1,500 MW, the first mainstream dam of the Yunnan Cascades on the Lancang-Mekong. [photo by NVH 2002] (Đọc tiếng Việt ở đây)

Foreword:  We are already in 2020, yet a number of articles were recently uploaded on the Internet in which their author argued that because only 16% of the Mekong River’s current flow comes from China, the impacts of the series of dams in the Yunnan Cascades would be negligible. This is an attempt to cover up the devastating impacts Beijing brings to bear on the Mekong River over the past three decades. Starting with the building of the series of dams in the Yunnan Cascades, China has set in motion the destruction of the long-term balance of the entire ecosystem in the Mekong Basin. In addition to the more than 30 billion cubic meters of water retained in the reservoirs of the dams [in 2016], a very large quantity of alluvia was also prevented from flowing down to the Mekong Delta. Lack of fresh water, absence of alluvia, invasion of seawater due to rising sea level, the entire Mekong River Delta, the cradle of the Civilization of Orchards, may face the bleak future of being transformed one day into barren lands because of desertification.

That is the distressful prospect confronting the 20 million inhabitants in the 13 provinces of the Mekong Delta during the first three months of the current year 2020. This "Interview with Ngô Thế Vinh MD – the explorer of the 4.800 km long Mekong River" conducted by environment correspondent Lê Quỳnh was first published in the newspaper Người Đô Thị [4/25/ 2016] under the heading: “Vũ khí giải cứu Mekong: chất xám và tiếng nói.” The content of that interview proves it is still relevant to current events. It gives an answer to the gratuitous argument that Mekong River Drained Dry is not the result of the series of hydroelectric mega-dams built by China. Viet Ecology Foundation 

Interview with Dr. Ngô Thế Vinh – the explorer of the 4.800 km long Mekong River


From the Editor. With almost two decades of involvement with the issues pertaining to the Mekong River and the Mekong Delta, Ngô Thế Vinh MD authored two books about this river: “The Mekong Drained Dry, The East Sea in Turmoil” and “Mekong – the Occluding River”. Throughout that time, he remains an environmentalist committed and unrelenting. He undertook several trips to explore the 4,800 km long Mekong River from Tibet all the way to the East Sea. Người Đô Thị conducts this interview with Doctor Ngô Thế Vinh on the hot topics that are facing the Mekong River and Mekong Delta. 

*
Dr. Vinh, 17 long years ago, from your explorations of the 4,800 km long Mekong River, you “sketched” a harrowing picture that showed the devastating impacts caused by the hydroelectric dams on the livelihood of the inhabitants in the Mekong Basin. What you discussed then still makes the news today. Based on the predictions you made about the impacts the hydroelectric dams brought to bear on the Mekong River as a whole and the Mekong Delta in particular, can you share with us your thoughts on the current state of affairs?
In 2000, any reference to “The Mekong Drained Dry” is regarded by many as utter nonsense because, at the time, as you recall, there was a big flood in the Mekong Delta.  At the mention of “The Mekong Drained Dry” many people considered it an oxymoron especially when a flood was mercilessly ravaging the Mekong Delta then.  Upon hearing the title of the book being mentioned, a religious who was busily doing relief works exclaimed: “How can anybody say the Mekong is being drained dry while we are watching houses being washed away by the current, people drowned right before our eyes?” However, if one realizes that floods and droughts come with the Rainy and Dry Seasons – a natural order of things with the Mekong’s current and her basins over past millenniums – then the only difference is that they have become more severe and destructive in our days. We just can’t bury our head in the sand, like an ostrich, and blame everything on “natural disasters” but must have enough courage and call things by their correct names. We must take into account the “man made” factor that has contributed to the destabilization of the entire complex yet fragile ecosystem of the Mekong River over past decades of unsustainable and self-destructive development.
I can cite a long list of “man made” disasters: (1) suicidal deforestation in the entire basin, these rainforests acted as giant sponges that retained rainwater during the Rainy Season and discharged it in the Dry One. They served as nature’s regulators of the rivers’ flow but have now disappeared from the face of the earth. (2) the building of hydroelectric dams not only on the main current but also on all the Mekong’s tributaries from upstream to downstream – most notably the series of dams of the Mekong Cascades in Yunnan Province, China. The dam reservoirs besides retaining the water also prevent alluvia i. e. natural fertilizer from reaching the Mekong Delta; with hydropower come industrialization and urbanization resulting in waste being discharged into the rivers creating pollution of the Mekong’s current; (3) we must not omit China’s plan to use explosives to blast away rapids and waterfalls to open the Mekong for navigation from Yunnan all the way to Vientiane.  Consequently, China has transformed the current flow and created soil erosion along the banks; (4) then, we have to consider the errors, blunders in the hydrological programs being committed in the Mekong Delta like: unplanned irrigation, local dykes’ construction, and sand removal from rivers...
The immediate consequences we now witness include: more pronounced floods even during the Rainy Seasons, more severe droughts in the Dry one, deeper seawater intrusion inland. The main culprits are us, humans, on top of that we have climate change, El Nino... nature’s own contribution. Not owning up to the truth and blaming everything on nature is tantamount to dangerous denial of the facts on the parts of the present Vietnamese leaders. 

On the Mekong’s main current, upstream, China has built and continues to build hydroelectric dams… Downstream,  Laos is doing the same, Thailand is diverting the Mekong’s water even during the Dry Season… in the face of such a situation,  what do you fear the most?

In the first two decades of the 21st century, with the two largest dams Nuozhadu 5,850 MW and Xiaowan 4,200 MW built, as a whole, Beijing has achieved its goal for electrification on half of the Lancang’s current, the Chinese name of the Mekong. According to Fred Pearce of Yale University, the Mekong has been transformed into China’s water tower and electrical powerhouse. On his part, Philip Hirsch, Director of the Mekong Research Group at the University of Sydney observed: “The two giant dams Nuozhadu and Xiaowan will affect the flow of the Mekong in its entirety, all the way to the Mekong Delta in Vietnam.”  With only 6 dams built on the main stream, China has already reached a total output of 15.150 MW – that is the equivalent of more than half of the hydropower potentials of the Lancang. In the first decades of the 21st century, it is expected that China can easily finish building the remaining 8 dams in its overall plan as well as any new ones it wishes to. 

We cannot simply conclude that the impacts from the series of dams in the Mekong Cascades in Yunnan are negligible because only 16% of the Mekong’s water comes from China. The building of those dams actually started the destruction of the long-term balance in the ecosystem of the Mekong basins. The dams’ reservoirs in Yunnan have the capacity to retain over 30 billion cubic meters of water [in 2016] but, at the same time, they also prevent a huge amount of alluvia from flowing down to the Mekong Delta. Threatened with water penury, lack of alluvia in addition to salinization, the once fertile Mekong Delta, the cradle of the Civilization of Orchards, may face the bleak future of being transformed one day into barren lands because of desertification. 

What do I fear the most at the present time? Clearly Vietnam is caught off guard and finds herself ill prepared to fight “the undeclared environmental war” with China.

The call for China to release the water from the dams in Yunnan to save the Mekong Delta speaks volume about Vietnam’s "vulnerability." Its leaders could have foreseen the danger years ago. Nowadays, we have to contend with the addition of 9 dam projects on the mainstream in Laos and 2 more in Cambodia.  The proposition to save the Mekong Delta is getting more challenging and complex while Vietnam is still groping for a coherent strategy to deal with it.

The Mekong Agreement of 1995 is seen as a monitoring vehicle tasked with the protection of the Mekong River. However, China refused to join. Similarly, The Convention on the Protection and Use of Transboundary Watercourses and International Lakes (Water Convention) in 1997 was signed by Vietnam in 2014. It was expressedly designed to correct and limit the deficiencies in the existing agreements pertaining to the basins like the Mekong Agreement of 1995. In the process, China has promoted a new venue:  The Lancang-Mekong Cooperation of November, 2015. What is your view of this new initiative? What are the opportunities opened to Vietnam and the other participating countries in the basin? In your opinìon, does China have any hidden agenda behind all this?
The Mekong River Committee was established by the United Nations since 1957. However, all its development projects were put on hold on account of the Vietnam War. After 1975, during peacetime, the countries in the Mekong Basin again turned their attention to the exploitation of its resources. Once more, the need to reestablish a transnational regulatory agency similar to the Mekong River Committee reemerged.  On April 5th ,1995,  the four member countries of the Lower Mekong Basin met at Chiang Rai, North Thailand to sign the “Agreement on the Cooperation for the Sustainable Development of the Mekong River Basin” creating the Mekong River Commission.
Representing his country, the Vietnamese Foreign Minister Nguyễn Mạnh Cầm signed the Agreement accepting a crucial change in its bylaw: the removal of the veto power of the member countries. This is a complete departure from the Mekong River Committee (1957) that gave its member countries the right to veto any projects deemed detrimental to the Mekong’s main stream. In a statement made before the Conference on the Mekong of 1999 in Southern California, I observed that this is a miscalculation of strategic importance on the part of Vietnam since this country lies at the southernmost location of the river.
The fact is the 6 countries in the Mekong Basin: China, Myanmar, Laos, Thailand, Cambodia, and Vietnam are faced with pressing and serious problems like economic, social as well as conservation of the environment – ecosystem. Nevertheless, geopolitical differences create considerable obstacles preventing those countries from cooperating with each other. The need arises therefore of finding a way to harmonize the national interests of the concerned parties. In your view, how do present political events impact regional cooperation as well as development in the Mekong Region? What are the prospects for the development of the Mekong within the context of Climate Change?

In regard to the Chinese initiative to form the Lancang-Mekong Cooperation, an institution of 6 nations that border the Mekong, a number of people are quick to offer the optimistic assessment that this is a good opportunity to force China to give more consideration to the interests of the countries in the Lower Mekong. This optimistic view may, in the end, prove well founded or it may not. However, we must never forget that since 1995, China has chosen to stay away from joining the Mekong River Commission / MRC comprising of only the four nations of Thailand, Laos, Cambodia, and Vietnam. To this day, this country has built 6 hydroelectric dams and can therefore rest reassured that its hydro electrification program on the 2,200 km long section of the Mekong that runs within its borders is for the most part completed.  

China’s initiative to establish the Lancang-Mekong Cooperation can therefore be looked upon as a strategic move to give this country an opportunity to burnish its friendly public image and extend its influence to allow it to eventually establish total dominance over the Mekong River Basin. With its technological capability and unlimited financial resources, China has all the assets at its disposal to eliminate American and Japanese influence from the Mekong River Basin. By the same token, it has neutralized the predominance of the US Seventh Fleet in the East Sea after it occupied the islands that belonged to Vietnam and built military installations on them.

The future of the Lancang-Mekong Cooperation totally depends on the questionable good will of big brother China. The China old hands who have been keeping a watchful eye on this country’s behaviors over the years, are however of the same mind: Beijing has failed to show "Good track records" on this issue. 

Another factor we must also take into consideration is whether the small member countries in the Lancang-Mekong Cooperation possess the needed “gray matter” and most importantly the shared interests to help them come together and form a common front or not. We are presently facing this stark reality: while China maintains its unwavering policy of divide and rule; the countries in the lower basin continue to display a disregard for the "Spirit of the Mekong", play “odd bedfellows" with each other, and harbor animosity among themselves. If nothing is done to change the situation, then, the Lancang - Mekong Cooperation would only become another venue for China to exert more influence on the countries downstream.

In case China genuinely shows its good faith, this nation can be persuaded to join a Lancang-Mekong Treaty in which individual countries are respected and treated as equals. This Treaty could be viewed as an expanded Mekong River Commission that also includes China and Myanmar.

A summary overview of the region offers this picture: PM Hunsen shows unconditional support for China’s policy. In spite of all warnings, Laos forges ahead with its plan to construct the 9 dams on the Mekong’s main current [it is currently building the Xayaburi and Don Sahong dams]. Thailand never stops its water diversion from the Mekong to irrigate its arid lands. Myanmar is not a serious player since only a small section of the Mekong in the Golden Triangle runs through its territory. As for Vietnam, this country appears to be unprepared and at a loss to act. It can be said that this country lacks a “winning strategy on the Mekong chess board” as it decides to participate in the Lancang – Mekong Cooperation. 

The urgent thing to do: move the Mekong River National Committee located at 23 Phố Hàng Tre, Hanoi to the Mekong Delta and establish a Department of the Mekong at the University of Cần Thơ. This "think tank" will set up a strategic roadmap, a Mekong File, for the use of the Vietnamese delegations attending Summits on the Mekong.  Mekong Delta SOS must rank as top priority in the agenda of each meeting of the Council of State, the National Assembly and also the Politburo. A catastrophic drought in the Mekong Delta, if warranted, must be referred to the United Nations forum for discussion.

How do you view the role played by the communities, social  organizations, NGOs in the countries of the Mekong Basin that are still divided by conflicting outlooks? In your opinion, how effective are they inside of Vietnam? What more do they need to do?

Taking an overall view of the 5 countries in the Lower Mekong countries [with Myanmar being the 5th and new member], a foreign reporter observed: it is quite rare to see any community organizations, social websites in Vietnam raise their voice about the issues facing the Mekong River. On the other hand, it is common occurrence to hear from the inhabitants of Northern Thailand, of Laos and even from the Cambodians. What is more troubling is the deafening silence coming from the 20 million inhabitants of the Mekong Delta. This is quite understandable when we consider that the majority of the peasants are not well educated by an education system whose quality is rated lower than that in the Central Highlands. Besides, they are kept uninformed by a state system that practices mind-control. Talking about the NGOs, their pronouncements are constantly being manipulated and directed by a government’s policy known for its nearsightedness that stifles any intellectual initiatives. But in spite of all this, looking from outside the country, a light can be seen at the end of the tunnel.  Active efforts are underway to establish authentic civil social groups whose voices do carry weight. Naturally there is a price to be paid for those trailblazing achievements. This is an irreversible process and the time has arrived for the government to realize that they will not be able to block the march forward of the trend of our time. 
Likewise, what is your view on the role of Vietnamese scientists at the present time in regard to the Mekong “dossier” in general and the Mekong River Delta in particular? What new “institutions”or “mechanism” do they need to help them become more effective in their work?
I do not have the chance to meet with all of them. However, I do keep abreast of their activities over the years.  They did and are doing their works under the extremely difficult circumstances that exist inside the country today.  Their efforts to voice the need to conserve a healthy ecosystem for Vietnam though muted have not gone unnoticed or unappreciated. Overseas, we always believe that the Mekong “dossier” and the preservation of the Mekong Delta must be won by scientists, and young people inside the country. Vietnam does not lack “gray matter”. However the scientists do not have the means and the freedom of action, even within the context of academic institutions. We can come to this conclusion: "Democracy and the Environment” must form an "Inseparable Duo."  
I happen to believe it is within our ability to save the heartbeat of the Tonle Sap Lake. By doing so, we will also save the Tonle Sap Basin in Cambodia and the Mekong Delta in Vietnam. Naturally the cost of such a venture will be extremely high and require that Cambodia and Vietnam work out a satisfactory formula to jointly fund it. 
We can say that you have conducted observations and collected precious materials that could be regarded as a treasure trove about the culture, history, environment…pertaining to the 4,800 km-long  Mekong – from Tibet to the South Sea - and its 65 million inhabitants. Those technical materials are not related to medicine, your profession. If given the opportunity to describe yourself, which one of the following will you choose: doctor, author, journalist, or scientist?
I graduated from the Saigon Medical School in 1968 then practiced in Vietnam and overseas for over 40 years. Medicine practically has been an integral part of my life. During my student years I wrote, worked as a reporter, got involved in social works like so many of my contemporaries. Our generation did not only devote ourselves to our studies but was very much interested in the issues confronting the country. In later years, I personally paid special attention to environmental issues including those of the Mekong River and the Mekong Delta. Since 1995, I have worked with the Friends of the Mekong Group and continue to do so for 21 years already. I have been given many hats to wear. But generally speaking, to borrow journalist Long Ân’s words, I feel most comfortable with the name “the green man” of the ecology. *
Doctor Ngô Thế Vinh: graduated from the Medical School in Saigon. He collaborated with the School’s publication “Tình Thương”, served as the chief medical officer of the 81st Airborne Ranger. In the US, he interned with the University of New York and is presently treating physicians at a hospital in Southern California. “The Mekong Drained Dry, The East Sea in Turmoil” is a faction pertaining to the environment and development of the Mekong River Basin and Mekong Delta.  It was later followed by “Mekong – the Occluding River.” This travelogue was translated into English and attracted the attention of a good number of scientists, newspersons, and environmentalists in the world…
 LÊ QUỲNH 
Người Đô Thị, April, 2016
 (*) The title in the printed newspaper: “Vũ khí giải cứu Mekong: chất xám và tiếng nói”