Tuesday, May 26, 2020

Thích Phước An: Một Vài Suy Nghĩ Về Hệ Thống Tổ Chức Của GHPGVN

Một Vài Suy Nghĩ Về Hệ Thống Tổ Chức Của GHPGVN

Thích Phước An

1. Hoàn cảnh đau buồn của Phật Giáo Việt Nam hiện nay:

Khi cuộc vận động đòi kinh bình đẳng tôn giáo được chính thức phát động tại Huế vào Phật Đản 1963, thì lúc đó tôi mới chỉ là chú điệu học lớp đệ lục. Đã hơn ba thập niên qua rồi, vậy mà tôi vẫn còn nhớ như in cái không khí lo âu của những người cùng lứa tuổi như tôi vào một buổi chiều tại chùa Linh Sơn ở Đà Lạt, sau khi nghe đài BBC loan tin Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu tại ngã tư đường Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt ở Sài Gòn. Thực ra, lo âu thì ít nhưng sung sướng và hãnh diện thì nhiều.

Rồi tiếp theo là Ngô Đình Diệm bị lật đổ vào ngày 1-11-1963, rồi đầu năm 1964 một đại hội Phật giáo được tổ chức tại chùa Xá Lợi. Lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, hai hệ thống tư tưởng lớn nhất của Phật giáo, hai hệ thống tư tưởng lớn nhất của Phật giáo là Đại thừa và Tiểu thừa được chính thức thống nhất ra đời. Chưa bao giờ tinh thần Phật Giáo của thời đại Lý – Trần lại sống dậy trong tâm hồn của những người tăng sĩ trẻ tuổi một cách mãnh liệt như vậy.

Nhưng niềm vui cũng như hy vọng đó chẳng bao lâu đã nhường chỗ cho nỗi lo âu và mất mác. Năm 1966 cũng tại Huế, Phật giáo đã phát động phong trào đòi tự do dân chủ. Chính cuộc vận động này là nguyên nhân đầu tiên đã dẫn đến chia rẽ trong hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo.

Giao điểm đã chủ trương rất đúng khi viết: “Đã đến lúc phải nhìn lại chính mình trước tấm gương lạnh lùng và trung thực của sự thật. Đã đến lúc phải biết phân biệt để củng cố lại cái gì là bất biến và phát huy cái gì là tùy duyên. Bằng trí tuệ Bát Nhã và bằng tâm nguyện Bồ Tát”. Nếu chúng ta không can đảm nhìn vào sự thật như vậy thì đúng như lời nhận định của giáo sư Lý Nguyên Quán : “Như một căn bệnh không thể chữa lành khi người ta chỉ tìm cách che đậy, trốn tránh hay loanh quanh với những lý luận mơ hồ, không ăn nhập gì với hiện trạng”.

Vậy bây giờ đã hơn ba thập niên qua rồi, ta thử tìm hiểu lý do nào mà chỉ trong khoảng chưa đầy ba năm, tính từ 1963 mà Phật giáo lại phải phát động thêm lại hai cuộc đấu tranh nữa chống lại hai chính phủ. Năm 1965 với chính phủ Trần Văn Hương và năm 1966 với chính phủ quân sự Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ :

– Lý do mà ta có thể dễ thấy nhất là, sau gần một thế kỷ bị kỳ thị và phá phách của thực dân Pháp và tiếp đến là chín năm dưới chính phủ Thiên Chúa giáo của Ngô Đình Diệm; nên các nhà lãnh đạo Phật giáo hầu như nghi ngờ hết tất cả các giới cầm quyền.

– Quá thất vọng khi thấy khí thế của cuộc cách mạng 1-11-1963 cứ tàn lại dần bởi những chính phủ kế tiếp.

– Còn một lý do nữa mà tôi cho là cũng rất quan trọng khiến Phật giáo cứ dấn thân mãi vào những cuộc đấu tranh là, sau thành công 1963, một số ít những nhà lãnh đạo Phật giáo hơi tự mãn. Từ sự tự mãn dẫn đến chủ quan. Vì vậy, đã đánh giá sai tình thực tế lúc đó là:

– Phật tử đã quá mệt mỏi sau các cuộc đấu tranh 1963 và 1965.

– Chiến tranh đã tràn vào các thành phố, nên đã rất có lợi cho các tướng lãnh cầm quyền. Họ sẽ viện lý do này để dập tắt cuộc đấu tranh, và trong thực tế họ đã làm như vậy.

– Các thể lực chính trị lúc nào cũng trong tư thế chuẩn bị lợi dụng cuộc đấu tranh của Phật giáo mà khai thác và lợi dụng, mà Phật giáo thì hầu như bất lực trong việc kiểm soát nội bộ của chính mình.

Theo tôi, đó là những lý do khiến cho cuộc vận động đòi tự do dân chủ của Phật giáo đã thất bại.

Nhưng dù sao thì đó cũng là thất bại trong ngắn hạn, nghĩa là Phật giáo không đem lại một chính phủ dân chủ tức thời cho đất nước như mục tiêu mà Phật giáo đã đề ra. Nhưng nếu nhân dân miền Nam, đặc biệt là giới trí thức trẻ ở các thành thị đã trưởng thành nhiều về mặt chính trị thì tất nhiên chính là nhờ những cuộc vận động liên tục của Phật giáo, dù Phật giáo đã phải trả một cái giá rất đắt. Tuy nhiên, tôi cho rằng những thế lực chính trị bên ngoài không phải là nguyên nhân chính đã gây ra phân hóa và chia rẽ Phật giáo Việt Nam từ năm 1963 đến nay, mà nguyên nhân chính là hệ thống tổ chức Giáo Hội.

Như chúng ta đều biết, hiến chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN), thiết lập cơ sở từ trung ương đến địa phương rập khuôn cách tổ chức của một nhà nước. Năm 1981, thì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN) được thành lập. Mặc dù nội dung bản Hiến Chương khác xa nhau, nhưng cách sắp xếp các chức vụ để điều hành Phật sự thì lại hoàn toàn giống nhau, chỉ có khác cách gọi mà thôi, ví dụ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo thì đổi là Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương, còn Tổng Vụ Trưởng thư đổi là Trưởng Ban, các chức vụ ở Tỉnh và huyện cũng thế, Chánh Đại diện tỉnh thì nay gọi là Trưởng Ban Trị Sự Tỉnh v.v…

Thực ra, các nhà sáng lập ra GHPGVNTN đã cưu mang hoài bão rất lớn cho Phật giáo và dân tộc Việt Nam (được thể hiện qua lời mở đầu hiến chương, rất ngắn gọn nhưng lại súc tích vô cùng). Tuy nhiên hoài bão lớn nhưng lại quên đi vấn đề nhân sự để phục vụ trong cơ chế ấy. Tăng sĩ của Phật giáo Việt Nam tương đối khá đông, nhưng có được bao nhiêu tăng sĩ thõng tay vào chợ đời mà không bị quyến rũ. Thực tế là từ năm 1963 đến nay, một số tăng sĩ đã xem hệ thống tổ chức của Giáo Hội như là nơi tiến thân rất tốt cho bản thân họ (Dù những tăng sĩ này chỉ là thiểu số, nhưng con sâu thì luôn luôn làm rầu nồi canh). Một số ít họ vào đạo để làm việc đó, vì việc tiến thân trong đạo có vẻ dễ hơn, vì họ đã có sẵn cái hình thức của kẻ đã vứt bỏ hết mọi ham muốn thế tục, mặc dù tâm niệm cũng như hành động của một thiểu số đó là thế tục hơn cả thế tục nữa.

Trước 1975, các tăng sĩ chỉ giữ các chức vụ trong giáo hội, thế nhưng không khí trong chốn thiền môn đã bắt đầu ô nhiễm bởi lợi danh giống như người thế gian rồi. Vậy mà từ 1981 đến nay, ngoài các chức vụ trong giáo hội, các tăng sĩ có điều kiện lại còn dòm ngó đến các chức vụ ngoài thế gian nữa, như thành viên mặt trận, hội đồng nhân dân tỉnh, thành, v.v… nên không khí trong chốn thiền môn đã bị ô nhiễm hơn. Đó là chưa nói đến việc các văn phòng của giáo hội hiện nay, không thiếu gì những ông xã trưởng, lý trưởng ở thời phong kiến, hay chủ tịch phường, chủ tịch xã trong những năm dưới thời bao cấp. Những tăng sĩ này ngồi đó, không phải để hướng dẫn Phật tử tu học và từ bỏ bởi những ràng buộc của thế gian, mà họ ngồi đó để tự khẳng định quyền hành của mình qua những nguyên tắc hành chính của thế gian vậy. Đúng như lời nhận định của giáo sư Lý Nguyên Quân: “Thiếu nội lực và yếu kém phẩm chất mà lại mang thân vào đời để đảm nhận các mặt thế trị phức tạp của một tổ chức giáo hội như yêu cầu mong muốn thì thật khó tránh được cái “họa sát thân”. Cái họa đã rõ, ít ra là từ 1963 đến nay. Ngoại trừ một số vị giữ mình nghiêm mật, còn một số lớn đã không tránh được cái bả lợi danh của thế tục”.

Đây quả là thực trạng đáng buồn và nhất là đáng xấu hổ của Phật Giáo Việt Nam hiện nay.

2. Nguyên nhân căn bệnh và phương pháp chữa trị

Bài “Phật Giáo Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ 21″ của Giáo sư Lý Nguyên Quân đăng ở “Phật Giáo trong thế kỷ mới” tập I do Giao Điểm xuất bản tại Hoa Kỳ 1996. Theo tôi, không những Giáo Sư đã nói lên được tấm lòng của chính mình mà dường như còn nói thay cho những người đã từng đem hết tấm lòng mình hiến dâng cho Phật Giáo Việt Nam, hay những kẻ đã từng “khóc cười” với Phật Giáo Việt Nam, nói theo cách nói của giáo sư.

Cũng chính trong bài ấy, tác giả không những đã tìm thấy được nguyên nhân căn bệnh, mà gần như còn đưa ra được phương pháp để chữa trị căn bệnh trầm kha của Phật Giáo Việt Nam. Nghĩa là đã phát họa đại cương cho hướng đi của Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ mới. Theo giáo sư Lý Nguyên Quân thì, Phật Giáo Việt Nam ít nhất là từ 1963 đến nay “cứ bị lôi cuốn hút vào cơn lốc của thời thế để không có được những quan tâm đúng mức nhu cầu sanh tử này của Phật giáo”.

Nhu cầu sanh tử này là gì? Giáo sư viết “Như xương sống của cơ thể, những trung tâm tu học và truyền thống tu tập là yếu tố quyết định tối hậu cho lịch sử hưng vong của Phật giáo xưa nay. Thử tượng tượng, Phật giáo Trung Hoa mà không có các bậc cổ đức đời đời nối tiếp thiết lập các đạo tràng dịch kinh, giảng kinh, nói pháp, thành lập các pháp môn tu tập Thiền, Tịnh và các tòng lâm hướng dẫn đồ chúng tu tập thì di sản Phật Giáo Trung Hoa có còn gì ? Như Phật Giáo Nhật Bản, không phải là Tổng Hội Phật Giáo Nhật Bản, thường được xem là cơ cấu đại diện cho Phật Giáo Nhật Bản. Nắm mạng mạch của Phật giáo ở đây, mà chính là hệ thống của tông phái với những sắc thái sinh hoạt và truyền thống tu tập khác nhau được giữ gìn đã tạo nên cái sức sống cho Phật giáo xứ này. Phật Giáo Tây Tạng đang phải chịu đựng một trong những thảm kịch đau thương nhất của lịch sử dân tộc mà tương lai chưa biết thế nào thì Phật Giáo Tây Tạng theo cùng tình cảnh lưu vong của một phần dân tộc họ, lại đang ảnh hưởng lớn trong đời sống tâm linh và trí tuệ của con người Tây phương”.

Như vậy, qua kinh nghiệm của lịch sử Phật Giáo Nhật Bản, Trung Hoa và đặc biệt là vị trí của Phật Giáo Tây Tạng hiện nay thì, sở trường của Phật Giáo chính là những giá trị tâm linh siêu việt. Nhưng thế giới tâm linh siêu việt lại chỉ thành tựu trong các tu viện, thiền viện, hay nơi những cá nhân sống âm thầm xa trần tục, chứ không phải tại các trụ sở Giáo Hội quá nặng nề thế trị như hiện nay. Nói như vậy, không có nghĩa chúng ta muốn Phật giáo phải trở lại trong bốn bức tường thành của Thiền môn, vì một lối tu tập như vậy chẳng còn thích hợp với thời đại nữa. Nhưng chắc chắn, Phật Giáo Việt Nam muốn tồn tại và phát triển trong thế kỷ 21 thì phải bắt đầu ngay từ bây giờ củng cố cái xương sống của chính mình bằng cách trở lại các trung tâm nghiên cứu, thiền viện, tu viện, như đại tòng lâm để các tăng sĩ đủ phương tiện mà tăng trưởng trí tuệ và trau dồi đạo hạnh. Chúng ta tin chắc rằng, khi đời sống tâm linh và trí thức phát triển mạnh mẽ thì cái bả lợi danh của thế tục sẽ không còn dám bén mảng đến cổng tu viện nữa.

3. Vấn đề nguy hiểm mà tăng sĩ Phật Giáo Việt Nam phải đối mặt trong thế kỷ 21

Không còn hồ nghi gì nữa, chắc chắn trong thế kỷ tới, đời sống đô thị sẽ phát triển rầm rộ ở Việt Nam. Văn minh đô thị đi đến đâu thì đời sống nặng nề về hưởng thụ sẽ đi đến đó. Đọc lịch sử Phật Giáo Nhật Bản chúng ta còn nhớ, có một thiền sư sống cách xa chúng ta hơn một ngàn năm rồi, vậy mà Ngài đã nhìn thấy được sự nguy hiểm của đời sống đô thị với đạo nghiệp của các tăng sĩ, vì những thế hệ đi trước Ngài đã hưởng thụ quá nhiều, người đó chính là Truyền Giác Đại Sư (DENYO DAISHI, 767-823). Chính Đại Sư đã chọn ngọn núi Tỉ Duệ (Hisi) cao nhất ngất ở Kyoto đề làn trung tâm hoạt động của Thiên Thai Tông, và cũng để cho các tăng sĩ thuộc phái Thiên Thai Tông tránh xa đời sống đô thị ở kinh đô Kyoto.

Điều mà Truyền Giác Đại Sư đã nhìn thấy hơn một ngàn năm trước bây giờ chẳng những đang lập lại, mà còn lập lại một cách nguy hiểm hơn nữa cho các tăng sĩ đang sống ở đô thị.

Báo chí Phật giáo trong nước trong thời gian gần đây, đã can đảm phản ảnh rất nhiều về hiện tượng sa đọa của một số tăng sĩ đang sống tại các thành phố, nhất là những thành phố, nhất là những thành phố lớn như Sài Gòn chẳng hạn.

Và chúng ta, những tăng sĩ của Phật Giáo Việt Nam cũng phải can đảm mà thừa nhận rằng, hầu hết chúng ta đều không còn thích sống ở những nơi mà gần như thiếu vắng tiện nghi của đời sống đô thị, mặc dù hầu hết tăng sĩ Việt Nam đều được sanh ra và lớn lên ở các miền thôn dã. Nói như vậy, không có nghĩa là tăng sĩ phải trở về sống lại các chùa ở thôn dã, càng không phải sống thơ mộng như một bài thơ xưa, một túp lều tranh khiêm tốn trên núi cao, mà một nửa dành cho những đám mây trắng, còn nửa kia thì dành cho những nhà ẩn sĩ. Điều quan trọng là tăng sĩ chúng ta phải tự đấu tranh với chính mình để vượt qua những thú vui vật dục tầm thường mà đời sống đô thị đã quyến rũ chúng ta, phải vượt qua được thử thách đầy hiểm nguy này, thì chúng ta mới khẳng định được rằng, chính những giá trị tâm linh siêu việt của Phật giáo mới đem lại sự an lạc và hạnh phúc vĩnh cửu cho con người, còn các thú vui vật chất thì chỉ đem lại bất an và tạm bợ mà thôi.

4. Nhưng không phải chỉ có Phật Giáo Việt Nam mới sai lầm

“Phật giáo dù đã vấp phải những lỗi lầm và ngu ngốc trong lịch sử của nó ở Nhật Bản, không có gì nghi ngờ rằng nó là một thế lực tâm linh rất mạnh đã từng bảo dưỡng dân Nhật, với tư cách một quốc gia cũng như trên phương tiện cá nhân, trong những công trình chung của văn minh. Không có Phật giáo, Nhật Bản tất nhiên không thể đạt tới trình độ văn hóa và khai phát hiện tại”. (D. T. Suzuki, Thiền Luận, quyển hạ, Tuệ Sỹ dịch, NXB An Tiêm 1973).

Đoạn trên D. T. Suzuki muốn nói đến Phật Giáo Nhật Bản sau thời đại Kiến Thương (Kamakura, 1168-1334). Nghĩa là sau thời đại Kiến Thương chùa chiền dưới sự bảo trợ của các ông Hoàng và các lãnh chúa vẫn tiếp tục được xây cất nhiều hơn lên, giai cấp tăng lữ cũng thịnh hành hơn nhưng cũng phức tạp hơn, họ được hưởng quá nhiều đặc quyền đặc biệt. Nhưng Phật giáo thì lại đã mất hết sinh động, chỉ còn tồn tại như một tín ngưỡng, nặng nề về hình thức sùng bái, còn về mặt học thuật thì từ chương, suy lý và quá rườm rà.

Tuy nhiên, Phật giáo Nhật Bản, vẫn theo D. T. Suzuki cuối cùng đã tỉnh giấc ngủ say. khi chế độ phong kiến bị sụp đổ, Thiên Chúa giáo được truyền vào với những phương pháp tân kỳ và nắm vững các quan niệm tiên tiến, mặc dù Thiên Chúa giáo đã từng sống chung với Phật giáo một thời gian dài trước đó. Phật Giáo Nhật Bản không còn cách lựa chọn nào hơn, hoặc là bị diệt vong, hoặc là phải vùng dậy, bằng cách đào bới lại nguồn sinh động vẫn còn tiềm ẩn để phát triển và đã trở thành một Phật Giáo Nhật Bản huy hoàng như hiện nay.

Có lẽ, trường hợp Phật Giáo Nhật Bản có cái gì tương tự như trường hợp của Phật Giáo Việt Nam. Dường như lẽ thịnh suy thì ở nơi nào cũng thế, nếu có khác nhau thì chỉ khác ở chỗ là có sớm nhận ra sự sai lầm của mình để mà điều chỉnh hướng đi cho đúng cách không thôi.

Phật Giáo Việt Nam sau gần năm thế kỷ cực thịnh, thì bắt đầu suy yếu dần ở cuối đời nhà Trần. Đến đời Lê thì chùa chiền, tăng lữ vẫn còn đó, nhưng cũng đã mất hết sinh khí, và cũng chỉ tồn tại như một hình thức tín ngưỡng nặng nề cúng bái mà thôi. Phải đợi cho đến đầu thế kỷ 20, khi khoa học Tây phương vào và Thiên Chúa giáo, tôn giáo của kẻ xâm lược bắt đầu xâm lấn, thì Phật Giáo Việt Nam mới chịu thức tỉnh, mới khởi sự chấn hưng. Năm 1963 dường như Phật Giáo Việt Nam đã lấy lại được vị trí lịch sử của mình, nhưng chẳng bao lâu thì những oan nghiệp và ngang trái một lần nữa lại đến với Phật Giáo Việt Nam.

Nhưng chúng ta có đủ chứng cơ để tin rằng, đây là pháp nạn cuối cùng của Phật Giáo Việt Nam. Vì thế giới đã đổi thay, đất nước cũng đang thay đổi, lẽ nào Phật Giáo Việt Nam lại không như thế. Niềm hy vọng mà chúng ta có thể thấy được là, hiện nay Phật tử Việt Nam trong cũng như ngoài nước đều ý thức rằng, hơn ba thập niên qua Phật giáo đã lãng phí quá nhiều thời gian trong những cuộc tranh chấp với thế gian mà lại quên đi cái sở trường của chính mình. Một lần nữa, xin được nhắc lại lời của giáo sư Lý Nguyên Quân : “Như cái xương sống của cơ thể, những trung tâm tu học và truyền thống tu tập, đã là yếu tố quyết định tối hậu cho lịch sử hưng vong của Phật giáo xưa nay”. (1)

Phật Giáo Nhật Bản cũng là từng phạm phải những sai lầm, nhưng cuối cùng đã vượt qua được để có một Phật Giáo Nhật Bản như ngày nay.

Cầu mong Phật Giáo Việt Nam cũng sẽ như vậy, để tăng ni, Phật tử trong và ngoài nước có điều kiện dựng xây lại Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ sắp đến, vẫn tiếp tục con đường mà Khuông Việt Thiền Sư, Vạn Hạnh Thiền Sư, Mãn Giác Thiền Sư, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Thái Tông Thiền Sư, Trần Nhân Tông Thiền Sư và tất cả những Thiền Sư khác của Lý Trần đã làm và nuôi dưỡng đời sống tâm linh cho toàn thể dân tộc vậy.


VĨNH HẢO: VỌNG TƯỞNG


VỌNG TƯỞNG
Vĩnh Hảo

Đàn chim bay ngang phố. Xao xác tiếng cánh vỗ. Con quạ già trên nhánh cây hè phố ngước nhìn một lúc, rồi im lặng sà xuống đất, nhảy lò cò vài bước với một chân bị què, tiếp tục kiếm ăn.

Phố im lạ thường. Những con đường vắng xe đã vơi mùi khói xăng từ những ngày trước. Lan tỏa đâu đây hương bạch đàn hòa lẫn với mùi nước cống vẫn ngày đêm chảy ngầm dưới lòng đất. Thỉnh thoảng có tiếng còi hụ của xe cứu thương băng ngang góc phố xa. Khách bộ hành mang khẩu trang chỉ chừa lại hai mắt ngầu đục sau gọng kiếng râm, không sao nhìn ra được vẻ đẹp tráng lệ của một bình minh tràn ngập nắng tàn xuân.

Gió mai lành lạnh trong công viên thành phố. Ông già ngồi phơi nắng trên chiếc ghế gấp mang theo từ nhà. Hai vợ chồng trẻ khoác áo gió dắt chó đi bộ quanh bãi cỏ xanh. Một cơn gió mạnh thổi qua làm cho những hàng cây rùng mình buông lá úa. Giờ không phải mùa thu, cũng chưa vào hạ, mà lá vàng vẫn rơi lác đác, trông như những cánh bướm cải nhởn nhơ trong gió. Nhưng không, chỉ trong thoáng chốc, những cánh bướm đã nằm im trên lá cỏ. Những đợt gió tiếp theo không còn kéo theo lá. Chỉ có hơi lạnh phả trên da ông già mặc áo ngắn tay vì đinh ninh hôm nay trời nóng.

Vài con quạ tưởng rằng có thể làm tan tác một đàn chim.

Anh nài nhỏ bé vẫn luôn tin rằng có thể chế ngự con voi suốt đời.
Cáo mượn oai hùm, qua năm tháng, quên mất cái oai của mình chỉ là vay mượn dựa dẫm mà có; cứ đinh ninh như thật rằng muôn loài đều ngưỡng mộ và tuân phục phong độ của chính mình.

Những con người, chỉ với vẻ ngoài của làn da, mặc nhiên tự nhận mình như là hàng thượng đẳng của nhân loại, vênh vênh tự đắc ngay cả khi phải sống trong nghèo cùng vật chất, và rỗng tuếch tri thức; xua đuổi, tấn công, mạt sát kẻ khác bằng hành vi và ngôn ngữ thiếu học.

Những người sai lầm, bày vẽ con đường sai lầm, tiếp tục uốn nắn, bẻ cong lịch sử để giành phần chính nghĩa cho sai lầm phe phái của mình; và vẫn ngoan cố ngụy tạo những âm mưu, gán ghép sai lầm cho những ai đối nghịch.

Những người u mê, nhắm mắt giương cờ, trương biểu ngữ, bày tỏ sự sùng bái của mình với biểu tượng ngoa ngụy, xấu-ác; tưởng rằng biểu tượng này sẽ mãi đi vào tâm tưởng và sự nghiệp đời đời của muôn dân.

Và con người, với trí thông minh, sáng tạo, như là đặc quyền tối ưu trong muôn loài, vẫn luôn tự mãn kiến thức và kinh nghiệm của mình có thể chinh phục thiên nhiên, khám phá vũ trụ, chế ngự không gian (thật và ảo)…

Nhưng không, tất cả đều là vọng tưởng, là những giấc mơ hão huyền, dù rằng hệ quả thực tế của chúng có khi kéo dài mười năm, năm mươi năm, trăm năm, thậm chí một nghìn năm. Vọng tưởng vẫn cứ là vọng tưởng, không thể vượt qua được tính chất bất định, giả huyễn của cuộc đời.
Sóng vô thường sẽ cuốn phăng đi tất cả, bất kể địa vị, màu da, chủng tộc, bần cùng hay phú quý, trí thức hay không trí thức, phẩm hạnh hay vô đạo đức.
Cuộc sống của mỗi cá thể, hay tập thể, là nguyên nhân và cũng là kết quả của từ một võng lưới trùng trùng vọng tưởng, chẳng biết đâu là mắc xích khởi đầu hay kết thúc. Chỉ khi nào ngồi trong tịch lặng, bốn mươi chín ngày đêm thiền quán thâm sâu như một lần đạo sĩ Gotama bên sông Ni-liên[1], mới bẻ gãy được đầu mối của mê vọng, tham ái[2]; hay như một lần hốt nhiên bừng sáng trí tuệ khi trực nhận nguyên lý vô thường duyên sinh qua mất mát, đớn đau tận cùng từ sinh, già, bệnh, chết.

Không tỉnh thức được như thế thì con người hôm nay hay ngày mai, vẫn tiếp tục thả trôi cuộc sống của mình trong dòng mộng tưởng, vô minh.

Còn vô minh, ái ngã là còn vọng động, tàn phá, hủy diệt.

Sự vọng động của những ai đó trong quá khứ hãy còn lưu đậm dấu tích trong tâm tưởng người nay. Hãy chiêm nghiệm và học bài học từ những đổ nát ấy. Hãy ngưng lại mọi thứ manh động, tham lam và tật đố, oán hận và tranh chấp[3]. Hãy ngưng lại những toan tính, âm mưu, sục tìm bả danh lợi rơi rớt lại trong tàn tích hoang phế.

Niềm bình an chỉ có được khi mọi thứ vọng tưởng lắng xuống, lắng xuống.

Con quạ già lủi thủi đi về hướng bãi tha ma khi đàn chim vỗ cánh trên trời cao, bay về nơi yên tĩnh.

Chó dạo công viên chỉ gầm gừ một chút với người ngược hướng, rồi cũng theo chủ về nhà.

Đâu đó trên non cao, nước từ nguồn xa vẫn tiếp tục róc rách chảy ra sông, đổ về biển lớn.

Lão già thiếp đi trong giấc ngủ ngắn. Trở mình tỉnh giấc thì mặt trời đã lên cao.

California, ngày 25 tháng 5 năm 2020
Vĩnh Hảo

______________________________________
[1] Cội cây bồ-đề bên sông Ni-liên-thuyền (Nairanjana) là nơi đức Phật thành đạo.
[2] Đạo sĩ (họ) Gotama là cách của những người đương thời gọi đức Phật. Khi chứng được thánh trí dưới cội bồ-đề sau 49 ngày đêm đi vào đại định, đức Phật đã thốt lên rằng: “Ta lang thang trong vòng luân hồi qua bao kiếp sống, tìm mãi mà không gặp kẻ làm nhà. Đau khổ thay kiếp sống cứ tái diễn mãi! Hỡi kẻ làm nhà! Nay ta gặp được ngươi rồi. Ngươi không thể làm nhà nữa. Cột và đòn tay của ngươi đều gãy cả, nóc và xà nhà của ngươi đã tan vụn rồi. Ta đã chứng đắc Niết bàn, bao nhiêu dục ái đều dứt sạch” (Kinh Pháp Cú, câu 153-154, HT. Thích Thiện Siêu dịch). Kẻ làm nhà ở đây được hiểu là vô minh, tham ái, khởi nguyên cho sự vận hành của sinh-tử luân-hồi.
[3] “Những ai bị chế ngự bởi phẫn nộ và oán hận, ngụy thiện và não hại, tham lam và tật đố, giảo hoạt và man trá, ác dục và tà kiến; những người ấy không tôn kính Phật, không tôn kính Pháp, không tôn kính Tăng, không nỗ lực hoàn thiện các học giới. Những người như vậy thường xuyên gây tranh chấp, tranh luận trong Tăng; gây bất ổn và khiến nhiều người không được an lạc.” (Pháp Diệt Tránh, Thích Nguyên Chứng biên tập, Như Như xuất bản năm 2008, trang 15)

____________________
Chú thích ảnh của Uyên Nguyên: Thầy Nguyên Tánh Phạm Công Thiện và nhà văn Vĩnh Hảo. Hai vị, một là chủ bút và một là phụ tá chủ bút Tạp Chí Chân Nguyên, từ giữa thập niên 1980-2000. Có thể nói đây là "cơ quan truyền thông, ngôn luận và luận thuyết" của Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại rất giá trị. Tờ báo góp phần rất lớn cho tiến trình phục hoạt GHPGVNTN. (Ảnh: www.vinhhao.info)

____________________

Monday, May 25, 2020

Thích Đức Nhuận (1924-2002): Hình Thái Tổ Chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

Hình Thái Tổ Chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

Thích Đức Nhuận (1924-2002)

trích ĐẠO PHẬT VÀ DÒNG SỬ VIỆT của cố Hoà Thượng Thích Đức Nhuận (1924-2002),
Cố Vấn Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo GHPGVNTN,
do Phật Học Viện Quốc Tế California, Hoa Kỳ ấn hành 1998.

Tiến Trình Lịch Sử và Nhu Cầu Hiện Đại Đòi Hỏi Sự Thống Nhất Đạo Phật Việt
Cách vài năm sau (1963) thì nền thống nhất Phật giáo phải chịu sự thống khổ chia rẽ hàng ngũ nội bộ Phật giáo và tiếp theo là những khủng hoảng!… Mà bất cứ một cuộc khủng hoảng… nào rồi cũng sẽ qua đi.
Do đó, chúng tôi đề nghị một biện pháp xây dựng GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM lớn mạnh trong tương lai nên cũng ghi lại đây những cảm khái suy tư chân thành ngưỡng mong liệt vị Tôn Đức chứng minh.
Năm 1963, Đạo Phật Việt đã là một hiện tượng thức tỉnh của Phật giáo thế giới và toàn thể nhân loại đang muốn vượt thoát khỏi kiềm tỏa của các thế lực và mưu mô độc tài.
Năm 1963, Đạo Phật Việt đã là một hiện tượng thống nhất giữa các tông phái của Đạo Phật sau hai mươi thế kỷ phân ly.
Năm 1963, Đạo Phật Việt đã là nguồn nghị lực của con người muốn giải quyết các vấn đề thế sự bằng những hy sinh cao cả của chính mình.
Sau ba năm đầy thăng trầm cam go, do những nhầm lỗi: tự kiêu tự mãn, thiếu tổ chức giáo dưỡng, nhiều tin tưởng và xây dựng giáo quyền nghiêm minh, thiếu sáng suốt và nhiều mê vọng, nên đã để cho các khuynh hướng chính trị len vào tàn phá nền tảng cao đẹp của Đạo Phật Việt.
Năm 1966, Đạo Phật Việt lại là một hiện tượng đổ bể về mặt lãnh đạo. Những tâm địa tầm thường, đầy mưu mô thế tục, đã dấy động, chặn đứng sự vươn lên của Đạo Phật trong việc giải quyết các vấn đề Dân tộc và Hòa bình thế giới.
Năm 1966, Đạo Phật Việt cũng lại là một hiện tượng thức tỉnh những ai còn có ý thức phải rút lấy kinh nghiệm đắt giá ở cuộc khủng hoảng ấy, để tu sửa đổi tâm trí mình, nhằm hoàn thành sứ mệnh thời đại của Đạo Phật.
Và những năm 1967-1968, Đạo Phật Việt là một hiện tượng đãi lọc những vẩn đục trong làn nước ngọt Phật giáo, để tưới lên tâm tư bỏng khát của nhân loại khổ đau, trong những ngày sắp tới.
Nhận định trên không phải là những nhận định chủ quan của một ai, mà là phản ảnh trung thực nhận định của mọi người Phật tử có suy nghĩ và của toàn thể thức giả, trong cũng như ngoài nước.
Nói lên nhận định đó, chúng tôi không làm công việc gây thêm những khó khăn cho công cuộc xây dựng đạo pháp, mà chỉ nhằm đưa ra một sự thật, mong những người đang có thế lực trong giáo hội phải gấp rút dẹp bỏ mọi tị hiềm, mặc cảm, mọi tà kiến âm mưu (nếu có) để đừng phụ công lao hy sinh của tăng, ni, Phật tử, và đừng phụ kỳ vọng của nhân loại đang trông đợi ở sự phục hoạt nhiệm mầu của Đạo Phật, giữa thời đại ma vương này.
Chúng tôi cũng cần nhấn mạnh ở đây là: Dù gặp bất cứ trở lực nào thì Đạo phật cũng đã phục hoạt và cũng sẽ sắm vai trò trọng đại, trong những giải quyết của cuộc sống nhân loại thời đại. Dù những nhà lãnh đạo hiện nay có còn xứng đáng hay sẽ bị đào thải thì Đạo Phật cũng vẫn đi tới trong sứ mệnh thời đại của mình. Dù các âm mưu chính trị đủ mọi khuynh hướng đế quốc cố tình phân hóa Đạo Phật, để cùng Đạo Phật như một bức bình phong khống chế dân chúng, thì các khuynh hướng kia cũng sẽ thất vọng. Vì thực chất của Đạo phật là GIÁC NGỘ. Mà khi đã giác ngộ thì tất nhiên bao nhiêu mưu mô đều không còn đất đứng, và những âm mưu ấy có đắc dụng cũng chỉ đắc dụng trong nhất thời mà thôi. Đạo Phật đã tồn tại trên hai nghìn rưỡi năm. Đạo Phật còn đáp ứng nổi tư tưởng đang vươn tới của nhân loại. Do đấy, Đạo Phật hẳn nhiên sẽ vượt thoát khỏi sự ma hóa của chính trị thủ đoạn, để hằng hóa tốt đẹp.
Sau cuộc vận động thần thánh nhiệm mầu của Đạo Phật Việt Nam 1963, sự thành công đã đến, và đã gây cho mọi người có một lầm tưởng là Đạo Phật đã đại thắng trên mặt chính trị: Đạo Phật là một thế lực chính trị nghiền nát tất cả thế lực chính trị thế tục. Đó là một sai lầm dẫn đến sự phiêu lưu thảm bại. Đó còn là một cái bẫy Đạo Phật thành một thế lực thực tại chính trị, để đẩy Đạo Phật vào những hành động có lợi cho họ. Họ đã có lợi thật. Vì hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo từ chỗ quyết tâm phục vụ đạo, phục vụ dân tộc, đã phát sinh sự chống đối nhau về chính kiến, để rồi quên mất mục đích cao cả của mình. Thậm chí có lớp người đã chạy theo quyền lực, muốn dùng quyền lực thế gian để thực hiện mau chóng chương trình kiến tạo Đạo Phật. Thật là một sai lầm lớn. Tội hơn nữa là vì phải giao tiếp, phải dùng phương tiện quá nhiều của thế gian để làm việc cho thế gian, nên đã gây ngộ nhận là: Sự thành công của Đạo Phật chỉ đem lại lợi lộc cho một thiểu số lãnh đạo có uy thế. Nguy hiểm hơn nữa là những người kém đức tu đã lại bằng lòng ngay với những phù phiếm kia vốn là mần mống của khổ đau, loạn lạc, sa đọa.
Nếu, ngay từ lúc phục hoạt, giáo hội đã có đủ uy đức và khả năng trầm tĩnh đi lên như sự mọc chồi của cây đại thụ, thì đương nhiên sẽ hóa giải được mọi hình thái, văn hóa, mọi ý hệ và mọi xáo trộn của thế cuộc, sẽ ngăn chặn được mọi toan tính của đế quốc và âm mưu độc tài, cũng như sự băng hoại của giáo hội.
Điều này quả thực rất khó, đối với một giáo hội sơ khai và, tiếp đó, vì không khí quần chúng đấu tranh quá sôi bỏng, các âm mưu chính trị trong ngoài quá thâm độc nặng nề. Những vụ phản bội cách mạng, liên tiếp xảy ra, đã được giáo hội phải ra tay nghĩa hiệp. Trong lúc đó thì hàng ngũ lãnh đạo giáo hội quá nặng nề xúc cảm, đối xử việc trong cũng như việc ngoài đều bằng tình nghĩa, không bằng giáo quyền và trí tuệ. Những người thừa hành đã vừa thiếu, lại vừa chưa được tổ chức và giáo huấn, nên rất khó thực hiện được phương pháp chế cản ngoại cuộc bằng sự trầm phát. Bởi đó Đạo Phật chúng ta đã bỏ mất một dịp rất hiếm để thực hiện đường lối hóa giải cao siêu của mình.
Nói như vậy không phải để tiếc xót những gì tốt đẹp đã qua, mà là để rút kinh nghiệm cho thực tại Đạo Phật ngày mai.
Đạo Phật phải nhập cuộc để chuyển hóa thế giới, giải thoát nỗi khổ đau cho chúng sinh. Nói thế, ta không nên ngộ nhận: Đạo Phật (trước đấy) là xa lìa cuộc thế. Mà chỉ có ý nói rằng: Với sức lớn mạnh của kỹ thuật khoa học hiện đại, tâm hồn con người đang bị sa đọa trước mọi cám dỗ vật chất để rồi tự thỏa mãn với những tiện nghi giả tưởng sẵn có, mà quên đi phần cao đẹp của cuộc sống tinh thần, đáng lý phải được thực hiện từ lâu: đó là TÌNH THƯƠNG YÊU NHÂN LOẠI. Đạo Phật là đạo Từ bi, nên lúc này hơn lúc nào hết, Đạo Phật phải nhập cuộc để cho nhân loại, đem lại sự an lành cho cuộc đời. Điều đó đã hiển nhiên.
Nhưng muốn nhập cuộc, phải xây dựng tổ chức. Tổ chức, ở đây, không có nghĩa là tạo ra một thế lực là công cụ cho giáo hội hoặc cho giáo chủ nào đó mà tổ chức ở đây là đáp ứng những nhu cầu của thời đại để vừa giáo dưỡng tín đồ Phật tử, vừa chuyển hóa tốt đẹp cho đại cuộc nhân loại, bằng tổ chức Nhân Chủ, Từ Bi, Trí Tuệ của mình.
Xét về tổ chức thì bản Hiến Chương giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất đã là một ước chế có hiệu lực từ sáu năm qua, nhưng bản Hiến Chương đó chưa đủ đáp ứng cho một tôn giáo như Đạo Phật hiện đại. Bản Hiến Chương đó đã tổ chức giáo hội quá lỏng lẻo, mang nặng tính chất đại chúng hơn là giáo quyền: đáng lý ra đã là một giáo hội, thì giáo quyền phải được thiết lập vượt lên trên quyền đại chúng. Tất nhiên không chấp nhận hình thái tổ chức giáo quyền độc tôn, nhưng chúng tôi lại cũng không đồng ý về hình thái đại chúng bầu cử ra những vị lãnh đạo giáo hội. Vì giáo quyền luôn thuộc về quyền tối thượng siêu nhiên, không do đại chúng mà ra. Mà đích thị, phải do sự tu trì mà có.
Đành rằng giáo quyền phải do hàng thừa hành giáo pháp mà có, nhưng khác với tôn giáo thần quyền, Đạo Phật lấy Con Người (nhân bản) làm cứu cánh cho sự giải thoát cuộc đời, nên đại chúng cũng được dự phần quyết định Phật sự. Ý kiến của đại chúng nếu xét không đi ngược với tôn chỉ Đạo Phật thì giáo hội phải triệt để tôn trọng và thực hiện làm lợi ích cho đại chúng. Như vậy giáo hội không vì quyền lực thiêng liêng mà thành lập, giáo hội thành lập trên sự đòi hỏi của đại chúng và thực hiện giáo pháp theo Tâm Duyên đại chúng, để chuyển hóa tốt đẹp cho đại chúng.
Bằng vào nguyến tắc đó, giáo hội Phật giáo Việt Nam – chúng tôi chỉ dùng Phật giáo Việt Nam vì kinh nghiệm đắt giá đã cho thấy thêm chữ Thống Nhất vào tất nhiên sẽ có các tổ chức dưới nhiều danh nghĩa khác xuất hiện – cần phải tổ chức một Giáo hội có Giáo quyền, và những hành vi của các cấp giáo quyền phải có sự cân nhắc đồng quyết của đại chúng. Nhưng nếu ý kiến của đại chúng không còn mang ý nghĩa của đạo pháp nữa thì, cơ quan tối cao của giáo hội; phải dùng giáo quyền để phủ quyết.
Bản Hiến Chương hiện nay tuy gồm có hai viện Tăng Thống và Hóa Đạo, Tăng thống giữ về nguyên tắc giáo luật giáo pháp, Hóa đạo giữ việc điều hành Phật sự và thế pháp, nhưng cả hai đều do Đại hội của đại chúng bầu ra. Giáo quyền đã không có, đối với đại chúng, lại cũng không có, đối với cả hai viện Tăng thống – Hóa đạo, nên chính điều này đã nảy sinh không biết bao đau lòng như hiện nay.
Do đó mà bản Hiến Chương chỉ mới là một văn kiện có tính cách nhất thời để xoa dịu những tông phái, địa phương, và phân quyền giữa các vị lãnh đạo của thời kỳ vận động vừa qua chứ thực sự chưa mang một giá trị nền móng cho cơ cấu tổ chức và điều hành giáo hội lâu dài.
Ảnh tư liệu (Trần Trung Đạo)
Đề Nghị: Một Biện Pháp Xây Dựng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Vấn đề xây dựng một giáo quyền Đạo Phật Việt hiện nay đã trở thành khẩn thiết hơn bao giờ hết. Chính vì thiếu giáo quyền, nên cuộc khủng hoảng về tổ chức và lãnh đạo của giáo hội đã chịu cảnh bế tắc.
Vậy cần phải tổ chức giáo quyền ra sao?
Tất nhiên, Phật tử và bản chất Đạo Phật là không bao giờ chấp nhận một hình thức giáo quyền như sự nhân danh quyền lực thiêng liêng để thắt buộc Phật tử trong một tổ chức, nhằm khống chế tư tưởng.
Như trên chúng tôi đã trình bày, tổ chức giáo hội phải có hai phần: phần lãnh đạo và điều hành, thuộc giáo quyền; phần quyết duyệt đường lối của tổ chức, thì đại chúng cũng có quyền góp ý.
Phần Giáo Quyền – Giáo quyền tập trung nơi Hội đồng Chưởng pháp do các tăng sĩ được đức Tăng thống triệu thỉnh và tấn phong. Hội đồng Chưởng pháp quyết duyệt giáo luật, giáo pháp, giáo chế và suy tôn đức Tăng thống.
Đức Tăng thống chỉ định một vị tăng sĩ đứng ra thành lập viện Hóa đạo.
Toàn thể viện Hóa đạo sẽ được đức Tăng thống đưa ra trước Hội đồng Chưởng pháp để chấp thuận.
Hội đồng viện Hóa đạo chịu trách nhiệm, trước đức tăng thống và sự giám sát của Hội đồng Chưởng pháp.
Hội đồng Chưởng pháp có thể yêu cầu đức Tăng thống giải tán viện Hóa đạo, hoặc xin thay đổi một số Tổng vụ trưởng.
Nếu dức Tăng thống không chấp thuận lời yêu cầu thì ngài sẽ trình bày lý do trước Hội đồng Chưởng pháp, và yêu cầu Hội đồng biểu quyết tín nhiệm. Nếu hai phần ba (2/3) số hội viên Hội đồng Chưởng pháp nhất quyết giữ vững ý định thì đức Tăng thống, sẽ thành lập một viện Hóa đạo mới, hoặc vị Viện trưởng viện Hóa đạo sẽ thay đổi một số Tổng vụ trưởng theo quyết định của Hội đồng Chưởng pháp.
Phần Đại chúng – Đây là Đại hội Phật giáo toàn quốc gồm đại biểu các tỉnh giáo hội.
Vị Viện trưởng viện Hóa đạo triệu tập Đại hội Phật giáo mỗi năm một lần thu hẹp, hai năm một lần khoáng đại: để xét duyệt đường lối mới do chính Đại hội xướng xuất.
Tất cả quyết định của Đại hội phải được đệ trình lên Hội đồng chưởng pháp duyệt xét. Nếu Hội đồng Chưởng pháp không đồng ý với Đại hội, thì đức Tăng thống sẽ đứng ra giải quyết. Nếu đức tăng thống đồng ý với Hội đồng chưởng pháp thì đại hội sẽ nhóm họp để thay đổi. Nếu đức Tăng thống đứng về phía Hội đồng thì ngài sẽ triệu tập một cuộc họp chung giữa Hội đồng Chưởng pháp và Đại hội để quyết định.
Đây là đề nghị của chúng tôi trong công cuộc xây dựng đạo pháp, tuy mang tính cách lâu dài, nhưng cũng có thể kịp thời giải quyết những vấn đề hiện tại. Vì, nếu một Hội đồng của các bậc tu trì có uy tín được đức Tăng thống triệu tập, thì đó cũng là một biện pháp để giải quyết các vấn đề khủng hoảng hiện nay của giáo hội.
Từ một Đại hội như vậy, thể chế tổ chức tương lai của giáo hội được đưa ra duyệt xét. Nếu Đại hội đó tìm được một thể chế thích đáng cho giáo hội rồi thì sau đó đức Tăng thống sẽ triệu tập Đại hội Phật giáo toàn quốc để quyết duyệt tối hậu. Và, bằng vào thể chế đó, các cấp lãnh đạo và điều hành được cử ra để điều khiển giáo hội, đương nhiên sẽ chấm dứt được tình trạng không mấy tốt đẹp hiện nay.
Trên ý nghĩ đó, chúng tôi trông đợi sự tỉnh giác của toàn thể các câp lãnh đạo Phật giáo và Phật tử.
Chúng ta hãy cố gắng chung sức giải quyết các vấn đề khó khăn hiện nay của giáo hội. Rồi, tư đó, dẫn tới sự giải quyết các vấn đề dân tộc và thế giới thời đại.
Thích Đức Nhuận

Saturday, May 23, 2020

Tuệ Sỹ: Ðạo Phật Với Thanh Niên

Thay lời dẫn: Cách nhìn của Những Bậc Thượng Nhân và cái thấy của phàm phu:
Bữa nay thì không kể chi chuyện nghiêm trọng, mà kể chuyện quý Ôn lớn, chuyện thật trong đời tu chứ không có chi huyền bí cả. Sự đời thì thường hay có câu “tam sao thất bổn”, đó là nói cái việc chữ và nghĩa sai lệch. Chữ mà nghe tới người thứ ba, chép lại, thuật lại thì dễ bị sai chữ rồi. Nhưng có khi chữ chép, hay nói thì vẫn đúng nguyên bản chứ không gì sai, nhưng người nghe, đọc, do sở kiến cục bộ của mình, đã diễn thành nghĩa sai biệt. Cái sai tai hại ở mức độ nào cũng tùy thuộc chỗ này, bằng ngược lại, lợi ra sao thì trong bài này xin được kể vài ví dụ. Nhưng không có một kết luận nào, ngẫm suy là việc của mọi người, để rồi tự mình rút ra những kinh nghiệm cho bản thân.
Ví như tôi trích lại đoạn di huấn này của Ôn Đôn Hậu, để lại cho thất chúng đệ tử: “… Suốt cuộc đời của Thầy hơn tám mươi năm, sống tận tụy bên đồ chúng, không phải giờ ra đi chỉ để lại có bấy nhiêu lời. Nhưng vì đó là những điều cần yếu khi lâm sự, nên phải dặn dò, còn những ưu tư trong bản nguyện của Thầy đối với Đạo Pháp, Dân Tộc và Đồ Chúng thì không sao nói hết được. Là những người thường sống bên cạnh Thầy, các con phải tế nhị mà tự cảm nhận lấy. Còn như chỗ thâm yếu của giáo lý Phật Đà, thì các con phải dụng công tu tập mới có thể giác ngộ, chứ không thể dùng lời dặn dò mà thấu hiểu được.” (LỜI DI HUẤN của Đức Đệ Tam Tăng Thống GHPGVNTN, Hòa Thượng Thích Đôn Hậu)
Tam sao thất bổn, là chuyện ngoài đời đã vậy. Thiền môn, qua cách mật truyền, truyền khẩu, truyền tâm hay hành động ứng xử hàng ngày v.v… của các thầy tăng, hay là giữa thầy và trò, thì có những chuyện khó mà nắm bắt, bằng khi nắm bắt bằng sở học của mình chưa tới đâu, và kiến giải phiến diện cục bộ của mình, tất nhiên là có chỗ bất cập, tam thế Phật oan. Nhưng nói vậy cũng không quá khó, nếu mình nhiệt tình, thành tâm mưu cầu biết điều chân thật. Thời buổi này, phương tiện kỹ thuật thông tin viễn liên và khoảng cách địa lý không còn làm khó sự đi lại của nhân loại, thì chuyện chi cũng không khó mà lần.
Do phàm tính của mình, nên thấy có tình trạng Tông môn, Hệ phái; Chùa trên, Chùa dưới; cũng phân biệt Thầy mình, hay Thầy của họ. Cho nên hễ nghe Thầy họ nói cái chi “động” tới Thầy mình là không ưng, và ngược lại nghe Thầy mình kể cái chi về Thầy họ, thì rằng theo đó diễn thêm, khuếch trương ra thành chuyện kỳ tích, thời sự. Rồi chính mình làm chỗ cho những mưu chước thế tục thâm nhập, quấy rối, mà đâm rối theo.
Mình đọc sách của Ôn Quảng Độ, chưa nói qua trung gian biên tập, từng kể giai đoạn 1981 thì tất nhiên nếu tôn sùng Ôn thì không ưng việc của những Ôn khác nguyên là thành viên của GHPGVNTN lúc bấy giờ, mặc nhiên không tìm hiểu tâm cảnh, tâm cảm của quý Ôn ở mỗi hoàn cảnh lịch sử, giai đoạn lịch sử đó như thế nào thì nghĩ đúng hiện tượng nhưng sai lệch bản chất là bình thường. Chưa nói chi cao siêu phương tiện-cứu cánh; tuỳ duyên bất biến.
Cũng như khi đọc thầy Tuệ Sỹ - “Đạo Pháp-Dân Tộc-Chủ Nghĩa Xã Hội, Biến Thái Của Phật Giáo Việt Nam Hiện Tại” - kể cái lúc Pháp Sư (Hòa thượng) Trí Độ từ Bắc vô Nam, mặc áo sơ mi tay cụt đứng trên lễ đài “chiến thắng” gồm các lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, hàng cao nhất, thì hẳn nhiên suy nghĩ của mình như thế nào thì tự mình cũng biết rồi. Nhưng đó là do mình nhận định, còn tìm hiểu hành trạng của Hòa thượng Trí Độ giữa phong trào Chấn Hưng Phật Giáo thì có thể hiểu thêm nhiều điều thú vị khác. Vậy thì ở đây còn có một ý nghĩa nào nữa không?
Dưới đây là nhận xét của bậc Thượng Nhân, Hòa Thượng Trí Quang, “Thầy Trí Độ có chủ ý của Thầy, ổng mặc cái áo tay cụt ngoài Bắc vô Nam, là muốn cho mấy Thầy trong Nam thấy cái nguy cơ trước mắt. Đó, Phật giáo dưới chế độ cộng sản, nó ra như vậy đó. Mấy Thầy (trong Nam) lo mà liệu…”
Bậc Thượng Nhân chọn góc nhìn nghệ thuật để nhận biết sự việc, nên tâm cơ giữa Thầy Tăng, giữa Thầy và Trò thường hằng ở chỗ này, còn thân xác, danh vị đều tạm bợ, huyễn hoặc vô thường hết!
Cho nên khi nói, khi kể lại điều gì sử lịch, sử lịch Phật giáo Việt Nam trong mạch nguồn thịnh suy của Dân tộc này, và khi chúng ta đọc, chúng ta nghe, nghe của bất kỳ ai, thì cái cách mà Thầy Tuệ Sỹ, cẩn mật, mà vẫn rất thơ mộng căn dặn mình lâu nay rồi, tại mình không chịu thâm nhập mà thôi: “Lần bước theo những vết mờ của người đi trước, tuổi trẻ định hướng cho tương lai của mình. Trong số họ, rất ít người bước ra khỏi bóng đêm của rừng rậm, để bằng chính đôi mắt của mình, nhìn thấy rõ con đường đang đi đang chạy theo hướng nào, dưới mặt trời rực sáng của ban mai.(…) Ðừng có phổ nhạc những lời ấy thành giai điệu với tiết tấu hành khúc dồn dập, mà hãy thử phổ thành một sonata nhỏ của mặt hồ tĩnh lặng, ta sẽ nghe được âm hưởng này…”.
Câu chuyện hôm nay, không biết có góp thêm được một chút nào không cho suy nghĩ của anh chị em đang phụ trách các diễn đàn áo lam, cho những mục đích lớn và nhỏ, riêng và chung, với tâm niệm đóng góp tiếng nói của mình làm thay đổi tổ chức tốt đẹp hơn. Song, cần phải xác định hướng đi ban đầu của mình, để làm sao trong hoàn cảnh trăm hoa đua nở, không có tình trạng “Tre già, măng mọc. Nhưng mọc búa xua”, đó là lời của cố trưởng niên Như Tâm Nguyễn Khắc Từ, nói và kết luận, tình hình này tuy “mừng”, nhưng “không thể không lo.”
Thân chào tất cả anh em diễn đàn Áo Lam.

QUẢNG PHÁP

Tuệ Sỹ: Ðạo Phật Với Thanh Niên

ÐẠO PHẬT VỚI THANH NIÊN
Tuệ Sỹ
Chuyển ngữ: Viên Minh
Phổ Hòa Publisher ấn hành, 2014
Trình bày: Uyên Nguyên
Vị Sư đó, dáng mảnh khảnh, mắt tinh anh, từ thời trẻ, đã từng đứng trên bục giảng Viện Ðại Học Vạn Hạnh (Sài gòn trước 1975), thao thao giảng những luận đề triết học Ðông Tây Kim Cổ, những khảo luận uyên thâm về Phật Giáo Nguyên Thỉ, Phát Triển, Thiền Tông…
Vị Sư đó, cũng có thời, quay lưng với thủ đô (miền Nam) náo hoạt, lui về đồi Trại Thủy (Nha Trang) lộng gió biển khơi, quây quần cùng lớp tăng sinh Phật Học Viện Hải Ðức, say sưa trao truyền, chia sẻ sở học và kiến văn sâu rộng của mình.
Vị Sư đó, vào tuổi trung niên, đã lừng lửng dấn bước chân Bồ Tát bất thối vào chốn nguy nan để dậy lên lớp lớp hải triều gọi kêu tự do, dân chủ công bình cho nhân sinh giữa vô minh dằng dặt.
Vị Sư đó, mọi thời mọi lúc, cứ như nhất hành trạng vô úy, thong dong với chiếc lam y, tự tại trong áo nâu sồng, dù đang giữa thị tứ đô hội, giữa núi đồi cỏ cây tịnh mặc, hay giữa chốn ngục tù với án tử hình vô nghĩa (1988).
Ngày nay, vị Sư đó – Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ – đến với các bạn trẻ trong và ngoài nước, gởi trao lời pháp thân tình: “Ðạo Phật với thanh niên.” Mỗi một chúng ta chắc hẳn sẽ đón nhận bài pháp theo từng tâm đắc khác nhau.
Mỗi chúng ta, với tâm thức và tấm lòng có thể riêng khác, nếu ví được như những chiếc chuông treo, và lời pháp của Thầy như khúc dùi khua, đủ sức khua chuông ngân tiếng. Tiếng chuông, dù ngắn hay dài, dù trầm hay thanh, dù thong thả hay xôn xao, có lẽ nếu Thầy nghe được, chắc Thầy cũng xem như lời pháp vọng âm từ chúng ta. (Như có lần Thầy nghe một người bạn – có lẽ cũng là bạn trẻ – tâm sự về tình yêu và sự vĩnh hằng và Thầy xem đó là một “bài pháp rất hay”).
Hôm nay, bài pháp thoại “Ðạo Phật với thanh niên” của Thầy Tuệ Sỹ, như một tách trà còn bốc khói, chúng ta thử đón nhận và thưởng thức, và mỗi bạn riêng mình biết rõ hương vị. Dù tâm cảm của mỗi bạn có sao đi nữa, các bạn hẳn đồng ý rằng bài pháp đã được trao gởi trong ánh sáng của Ðạo Giải Thoát – Giải thoát khỏi mọi hệ lụy tầm thường. Giải thoát khỏi những trói buộc của tâm/vật lý phi nghĩa. Giải thoát khỏi những giới hạn cứng nhắc của lý tưởng, ý hệ, tín điều mù lòa.
Trong đời thường, tìm kiếm giải thoát đó còn có nghĩa là phóng thoát đến tự do đích thực. Và trong ý nghĩa giải thoát/tự do này, bài pháp của Thầy Tuệ Sỹ đã không thúc dục, gò ép các bạn vào một định khung, một khuôn khổ nào.
“Tự mình thắp đuốc mà đi.” Mỗi một bạn trẻ tự tìm thấy chánh pháp cho chính mình! –– HOA ĐÀM, 2009
Các anh chị thân mến, đề tài thảo luận của chúng ta hôm nay là “ÐẠO PHẬT VỚI THANH NIÊN.” Tiêu đề như thế thường gây ấn tượng rằng có nhiều hình thái đạo Phật khác nhau; và mỗi hình thái cho từng lứa tuổi, hay tùy theo thành phần xã hội khác nhau. Nhưng cũng có thể hiểu, chỉ có một đạo Phật mà thôi, và nội dung thảo luận của chúng ta nay sẽ xem xét đạo Phật ấy có những đặc điểm gì được xem là cơ bản, rồi từ đó rút ra kết luận rằng, đạo Phật trong ý nghĩa như vậy có phù hợp với tuổi trẻ hay không? Tất nhiên, các Anh Chị ở đây đều là Phật tử, do đó câu trả lời đã có sẵn từ bao lâu rồi. Dù nói theo ý nghĩa nào, hay nhìn vấn đề từ góc cạnh nào, chúng ta sẽ không nêu ra bất cứ định nghĩa, và cũng không quy chiếu đạo Phật vào những yếu tính hay đặc tính nào.
Nói thế, có khi cũng hơi khó cho các Anh Chị thấy rõ vấn đề. Chắc ở đây cũng có nhiều Anh Chị đã từng đọc sách Thiền, và có thể đã nghe nói đến công án Thiền, đại khái như thế này. Một người hỏi Thiền sư: Phật là gì? Thiền sư đáp: “Ba cân gai.” Không phải là câu chuyện bông đùa, cũng không phải Thiền sư muốn đưa ra một mệnh đề triết học siêu nghiệm rắc rối. Bởi vì, ở đây chúng ta đi tìm ý nghĩa của đời sống, tìm để phát hiện những giá trị của đời sống. Nói theo cách nói của một nhà văn hay nhà thơ, chúng ta không định nghĩa, không mô tả, vì chúng ta không đi tìm kiến thức bách khoa về sự sống, mà đi tìm hương vị đích thực của nó. Như con ong đi tìm hoa, không phải chỉ tìm hương sắc của hoa. Hương sắc của hoa chỉ là tín hiệu của giá trị tồn tại. Nó tìm hoa để hút mật, làm dưỡng chất cho sự tồn tại của mình và cho tất cả nòi giống của mình.
Tuổi trẻ thường được nhắc nhở, khuyên bảo rằng cần phải học hỏi để sống cho đáng sống. Ca dao cũng nói rằng “làm trai cho đáng nên trai, xuống đông đông tĩnh lên đoài đoài yên”, và các bạn trẻ hiểu rằng, ta sẽ phải làm nên sự nghiệp hiển hách nào đó kẻo không thì sẽ uổng phí cuộc đời. Rồi bạn ấy làm nên sự nghiệp lớn thật, và người đời thán phục. Chúng ta cũng hết sức thán phục. Nhưng hãy nhìn sâu vào đôi mắt của bạn ấy một chút, nếu có ai trong chúng ta đây có vinh dự được nhìn. Chúng ta thấy gì? Những phương trời cao rộng, để cho “cánh hồng bay bỗng tuyệt vời”, hay một phương trời tiếc nuối, “khi ngoảnh lại ngắm màu dương liễu, thà khuyên chàng đừng chịu tước phong?”
Cả hai. Người đuổi bắt ảo ảnh để tìm ảnh thực vĩnh cửu của chính mình. Vị ngọt của đời ở đâu, trong cả hai? Bây giờ chúng ta hãy tạm rời bức tranh lãng mạn ấy, để nhìn sang một hướng khác. Có hình ảnh nào đáng chiêm ngưỡng hơn hay không? Cũng còn tùy theo điểm đứng nghệ thuật của người nhìn.
Thuở xưa, có một vương tử, mà ngai vàng đã dọn sẵn, vó ngựa chinh phục cũng đã sẵn sàng yên cương. Rồi một đêm, khi cả cung đình đang ngủ say trong giấc ngủ êm đềm của uy quyền, danh vọng, giàu sang; vương tử gọi quân hầu thắng cho ngài con tuấn mã trường chinh. Nhưng vó ngựa trường chinh của ngài không tung hoành chiến trận. Thanh gươm chinh phục của ngài không đánh gục những chiến sĩ yếu hèn. Gót chân vương giả từ đó lang thang khắp chốn sơn cùng thủy tận: cô đơn bên bờ suối, dưới gốc cây. Ngài đi tìm cái gì? Ta hãy nghe Ngài nói: “Rồi thì, này các Tỳ kheo, một thời gian sau, trong tuổi thanh xuân, khi tóc còn đen mượt, với sức sống cường tráng; mặc dù cha mẹ không đồng ý với gương mặt đầm đìa nước mắt, Ta đã cạo bỏ râu tóc, khoác áo càa-sa, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta trong khi ra đi như vậy, làm người đi tìm cái gì đó chí thiện, tìm con đường hướng thượng, tìm dấu vết của sự tịch mịch tối thượng.” Ngài đi tìm và khai phát con đường dẫn về thế giới bình an và hạnh phúc vĩnh cửu.
Rồi con đường ấy được công bố, được giới thiệu cho những ai như những đóa sen tuy sinh trưởng từ bùn sình, nước đọng, đang đã có thể vươn lên khỏi bùn sình, bản thân không bị nhiễm mùi tanh hôi của bùn sình. Tuy vậy, không phải ngay từ đầu con đường vừa được khám phá và công bố ấy được tiếp nhận một cách đầy tin tưởng bởi tất cả mọi người. Số người chống đối không phải ít. Khi đức Ðạo sư trẻ tuổi đến Magadha, vương quốc hùng mạnh nhất thời bấy giờ, nhiều thanh niên con nhà gia thế, như Yasa cùng các bạn bè, và các thanh niên trí thức hàng đầu như Sariputta và Moggallana, và nhiều thanh niên quý tộc, vương tôn công tử, tiếp nối nhau từ bỏ gia đình, từ bỏ địa vị xã hội sang cả, chọn con đường vinh quang của Chân lý. Từ một góc độ nào đó mà nhìn, sự ra đi của họ tạo thành một khoảng trống lớn cho xã hội, làm đảo lộn nếp sống đã thành thói quen của quần chúng. Dân chúng lo ngại. Họ thì thầm bàn tán, rồi phiền muộn, rồi thất vọng, và rồi giận dữ. Dư luận gần như dấy lên đợt sóng phản đối: “Sa-môn Gotama làm cho những người cha mất con, những bà vợ trẻ trở thành góa bụa. Sa-môn Gotama làm cho các gia đình có nguy cơ sụp đọa.” Dư luận phản đối ấy không kéo dài đủ để gây thành làn sóng phản đối. Chẳng mấy chốc, những người cha, những bà vợ trẻ ấy nhận thấy không phải họ bị phản bội hay bị bỏ rơi cho số phận cô đơn, mà họ được chỉ cho thấy hương vị tuyệt vời của tình yêu và hạnh phúc mà trong một thời gian dài họ không tìm thấy. Như thế, trong những ngày đầu tiên khi vừa được công bố, con đường chí thiện, con đường tối thắng và tối thượng của thế gian, dẫn đến thế giới bình an vĩnh cửu không phải bằng sức mạnh chinh phục của gươm giáo, mà bằng sức mạnh của từ bi và trí tuệ; con đường ấy được nồng nhiệt tiếp nhận bởi những con người rất trẻ, bởi tầng lớp ưu tú nhất của xã hội; tầng lớp định hướng tương lai của xã hội.
Có lẽ chúng ta nên dừng lại ở đây. Hình ảnh ấy đối với nhiều người quá cao xa, nhìn lâu tất choáng ngợp. Dù vậy, tự thâm tâm của mình, không một bạn trẻ nào, dù là nam hay nữ, không cảm nhận rằng mình đang được thúc đẩy bởi một động lực không thể cưỡng, đó là khát vọng chinh phục. Chinh phục tình yêu, chinh phục danh vọng, chinh phục địa vị. Dù nhìn từ góc độ nào, dù tiến theo hướng nào; chúng ta như những trẻ nít đuổi theo cánh bướm. Khi đã nắm được xác bướm trong lòng tay, ít ai tự hỏi: chinh phục và chiến thắng này có ý nghĩa gì? Và ta vẫn mãi miết đuổi theo những cánh bướm này rồi đến cánh bướm khác. Trong lịch sử loài người, có bao nhiêu nhà chinh phục vĩ đại, sau chiến thắng, lại cảm thấy ta cũng chỉ là một con đường yếu đuối trước sức mạnh bao dung của tình yêu nhân loại?
Vó ngựa của Thành-Cát-Tư-Hãn không chùn bước trước bất cứ kẻ thù nào, nhưng tâm tư của Ðại Hãn cảm thấy bất an khi nhìn sâu vào cuối con đường chinh phục một bóng dáng đang thấp thoáng đợi chờ. Ðó là kẻ thù cần phải chinh phục sau cùng. Ðại Hãn cũng biết rằng dẫu cho tập hợp sức mạnh của trăm vạn hùng binh cũng không thể đánh bại kẻ thù ấy, chinh phục vương quốc ấy. Ông cho đi tìm một người trợ thủ, tìm cố vấn thông thái nhất và khôn ngoan nhất để tập hợp được sức mạnh siêu nhiên. Sứ giả của Ðại Hãn đi vào núi Chung Nam thỉnh cầu Ðạo trưởng Khưu Xử Cơ. Ðạo trưởng khởi hành, băng sa mạc, đến tận đại bản doanh của Ðại Hãn, để giảng giải cho Ðại Hãn ý nghĩa trường sinh bất tử, những ẩn nghĩa huyền vi từ quyển thiên thư năm nghìn chữ của Thái thượng Lão quân. Cuối quyển thiên thư, khi tất cả ẩn ngữ coi như đã phơi bày ý nghĩa thâm sâu. Khả Hãn chỉ xác nhận được một điều: ta sẽ là người chiến bại trong cuộc chiến cuối cùng ấy.
Vậy, ý nghĩa của chinh phục là gì? Mỗi người trong chúng ta sống và đi tìm một cái gì đó, một ý nghĩa nào đó, cho sự sống hay lẽ sống của mình. Với tuyệt đại đa số, tình yêu và hạnh phúc là lẽ sống, hoặc là tài sản, hoặc danh vọng, hoặc quyền lực, là lẽ sống. Người ta tự đày đọa tâm trí mình, làm khổ nhọc hình hài mình, để đuổi bắt những gì được coi là tinh hoa của đời sống. Người ta cũng biết rằng ngoài những cái lẽ sống phù du, ảo ảnh của hạnh phúc, còn có những phương trời cao rộng, còn có con đường chí thiện; nhưng chỉ một số rất ít người bước theo hướng đó, và lại rất ít người đến đích. Vì sao thế?
Có một nhà nghiên cứu văn học, khi viết về nhà thơ Lý Bạch, không tiếc lời ca ngợi con người tài và đời sống phóng khoáng ấy. Rồi nhà nghiên cứu kết luận: nhưng chúng ta không sống như Lý Bạch được, vì chúng ta còn có gia đình vợ con, và nhiều thứ ràng buộc khác. Phải chăng tất cả chúng ta đều sinh ra với một dây thòng lọng treo sẵn nơi cổ, còn Lý Bạch thì không? Phải chăng chúng ta chỉ được phép chiêm ngưỡng, thán phục những cuộc đời và những nhân cách cao thượng, như người hành khất đói rách chỉ được phép từ xa đứng nhìn một cách thèm thuồng những ngọc ngà châu báu trên thân thể một công nương mỹ miều? Lý Bạch không thể sống như ta, và ta cũng chẳng cần phải trở thành người như Lý Bạch để được người đời thán phục. Mỗi người ẩn chứa trong tự thân một kho báu vô tận. Cần gì phải vay mượn hay ăn cắp giá trị của tha nhân. Không nên tự đánh giá mình quá thấp kém.
Người cùng tử trong kinh Pháp Hoa, không dám vọng tưởng bản thân là con trai và cũng là người thừa kế duy nhất của vị trưởng giả giàu sang, mà thế lực có khi còn lấn lướt trên hàng khanh tướng của triều đình. Anh chàng trai trẻ này cảm thấy sung sướng khi người ta nhận mình làm một tôi tớ hèn mọn, và rất lấy làm vinh dự được là tôi tớ hèn mọn của gia đình sang cả ấy. Vinh dự với công việc quét dọn các hố xí. Vinh dự được nằm ngủ trong chuồng ngựa. Thế nhưng, tự bản chất, trong huyết thống, và như một định mệnh quái dị, nó phải là người thừa kế duy nhất của gia đình ông trưởng giả. Nó chỉ được công nhận tư cách thừa kế khi nào tự nhận ra nguồn gốc huyết thống của mình, tự khẳng định giá trị cao sang của mình. Không thể rằng một kẻ tự xác nhận giá trị con người của nó không cao hơn giá trị con ngựa nòi của ông chủ, mà kẻ đó lại có ý nghĩa muốn khẳng định mình là kẻ thừa kế duy nhất. Ðó không phải là thừa kế, mà là âm mưu sang đoạt.
Chắc chắn nó sẽ phải bị trừng phạt vì tham vọng điên rồ. Ở đây, trong khi chúng ta không tự khẳng định được phẩm chất cao quý của mình, không nhìn thấy những giá trị cao cả của đời sống; những giá trị không cao hơn các hàng ghế và các nấc thang xã hội đã được cố định như là trật tự không thể đảo lộn; ấy thế mà nghĩ rằng “Ta là Phật tử,” nghĩa là kẻ thừa tự hợp pháp của gia tộc Như lai, há chẳng phải là một sự soán nghịch chăng?
Trong số những người bạn trẻ của tôi, không ít người cố vươn lên, tự khẳng định giá trị bản thân; tự cho rằng khi cần và nếu muốn thì có thể khoác lên mình phẩm phục sang nhất, ngồi ở địa vị cao nhất trong xã hội không phải là khó; và khi không cần thiết thì cũng có thể “vứt bỏ ngai vàng như đôi dép rách.” Những người bạn ấy, sau một thời gian vật lộn với đời để tự khẳng định giá trị của mình, có bạn “may mắn” leo lên được chiếc ghế cao, bỗng chợt thấy tất cả ý nghĩa và giá trị của đời sống đều được vẽ vời, được khắc chạm lên chiếc ghế này. Từ đó, họ cố buộc chặt mình vào đó, và quyết tâm bảo vệ nó “với bất cứ giá nào.”
Cũng có người bạn, sau cuộc tình đổ vỡ, chợt thấy hạnh phúc trong vòng tay chỉ là ảo ảnh. Anh tìm đến tôi sau những ngày lang thang, đau khổ. Không phải anh đến tìm nơi tôi một nguồn an ủi, mà đến để giảng cho tôi một bài pháp rất hay về nghĩa của tình yêu và vĩnh cửu; hạnh phúc chân thật và lẽ sống cao cả, chí thiện. Trong khi lặng lẽ nghe anh nói, cảm thấy như mình đang uống từng giọt nước cam lồ ngưng tụ từ những giọt nước mắt nóng bỏng; và thầm tự hỏi: bạn mình đã “chứng ngộ Niết bàn” rồi chăng? Phải thú nhận rằng, bây giờ, đã ba mươi năm sau, tôi vẫn không quên được “bài thuyết pháp” tuyệt vời ấy. Nhưng chỉ một thời gian ngắn thôi; anh lại lao mình chạy theo những cuộc tình mới. Tôi hỏi. Anh nói, hương vị ngọt ngào của mối tình đầu ấy không nhạt mờ theo năm tháng được. Nó vĩnh viễn ẩn kín ở một góc tối nào đó trong trái tim anh. Anh đuổi theo những mối tình hời hợt, thoáng chốc; chạy theo danh vọng phù hoa; tất cả chỉ muốn quên đi những gì đã đi và đi mất mà không bao giờ níu kéo lại được. Thỉnh thoảng, nhớ lại anh, tôi tự hỏi, bây giờ thực tế anh đang gặt hái những thành công trên đường đời; nếu nghĩ lại những năm tháng của tuổi trẻ ấy, anh có thấy mình dại dột chăng? Là đuổi bắt ảo ảnh chăng? Và giữa hai quãng đời ấy, thật sự đâu là ảo ảnh?
Người ta nói, tuổi trẻ các bạn đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời; vậy hãy chuẩn bị hành trang mà vào đời. Tôi muốn nói cách khác. Bằng tuổi trẻ của mình đã đi qua, tôi muốn nói rằng, tuổi trẻ các bạn đang được đặt trước hai câu hỏi cần phải trả lời dứt khoát, hay trước hai ngả đường cần phải lựa chọn không lưỡng lự: tình yêu và sự nghiệp. Trước mặt các bạn là con đường thăm thẳm, đang ẩn hiện mơ hồ dưới ánh sao mai. Chưa phải là buổi bình minh để các bạn thấy rõ mình đang đứng đâu và con đường mình sẽ đi đang dẫn về đâu. Và trước mắt có thật sự là hai ngả đường phải lựa chọn, hay thực tế chỉ một mà thôi? Các bạn sẽ tiến tới theo hướng nào? Học tiến lên theo con đường công danh sự nghiệp, bởi vì “đã sinh ra ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”? Hay săn đuổi bóng dáng một mùa xuân vĩnh cửu? Cả hai ý nghĩa, các bạn trẻ đều hiểu rõ.
Chúng ta không cần biện giải dài dòng. Có điều, sự hiểu biết của các bạn về con đường trước mắt không phải do chính mình đã nhìn thấy, như thấy rõ con đường mình đang đi, khi ánh bình minh xuất hiện; mà do dấu vết của nhiều thế hệ đi trước. Dễ có mấy ai tự vạch cho mình một lối đi riêng biệt, không giẫm theo bất cứ lối mòn nào. Lần bước theo những vết mờ của người đi trước, tuổi trẻ định hướng cho tương lai của mình. Trong số họ, rất ít người bước ra khỏi bóng đêm của rừng rậm, để bằng chính đôi mắt của mình, nhìn thấy rõ con đường đang đi, đang chạy theo hướng nào, dưới mặt trời rực sáng của ban mai.
Chúng ta hãy đi tìm một người trong số rất ít người ấy. Người không xa lạ với chúng ta. Tôi muốn nhắc các bạn vua Trần Nhân Tông. Tuổi trẻ, lớn lên giữa cung đình xa hoa, đầy lạc thú, nhưng người thiếu niên vương giả lại sống như một ẩn sĩ ngay giữa hoàng thành. Trường trai, khổ hạnh; không biết người ta có nhìn thấy phong độ hào hoa nơi thiếu niên vương giả này hay không. Nhưng vua cha nhìn thân thể gầy còm của người kế vị ngai vàng mà khóc: Biết con có đủ nghị lực để giữ vững giềng mối giang sơn chăng?
Tuy vậy, con người ấy, về sau, khi ngự trị trên ngai vàng, làm chủ một đất nước, không chỉ đã tự khẳng định giá trị bản thân, mà còn khẳng định ý nghĩa sinh tồn của một dân tộc. Dù ngồi trên bệ rồng cao vời vợi; dù xông pha chiến trận; hay dù trên vó ngựa khải hoàn, từ những chiến thắng oanh liệt; mà cho đến nay, trong bóng đền khuya, trong bóng đêm tịch mịch của lịch sử, chúng ta vẫn mường tượng nhịp mõ công phu và giọng kinh man mác nhưng vẫn rành rọt khí phách anh hùng của bậc quân vương vốn coi ngai vàng như đôi dép bỏ: “Nhất thiết hữu vi pháp, Như mộng huyễn bào ảnh.” Làm sao trong con mắt nhìn, thế giới này chỉ tồn tại như hạt sương trên đầu cỏ, lại có thể định hướng không chỉ cuộc đời của riêng mình mà cho cả vận mệnh của dân tộc? Hy vọng các bạn trẻ có thể tự mình tìm thấy câu trả lời. Bởi vì, nếu các bạn có thể trả lời được câu hỏi ấy, các bạn cũng có thể định hướng cuộc đời của mình mà không e ngại rằng sẽ có điều nhầm lẫn.
Bây giờ, chúng ta hãy trở lại đề tài thảo luận. Rất nhiều Anh Chị khi nghe đọc lên đề tài, nghĩ rằng diễn giả sẽ nêu lên một hình thái đạo Phật như thế nào đó, sau đó nghiệm xét xem hình thái ấy có những điểm nào phú hợp với tuổi trẻ, ích lợi thiết thực cho tuổi trẻ. Cho đến đây, chưa có hình thái nào được giới thiệu. Có Anh Chị nào cảm thấy thất vọng không? Cũng nên thất vọng một ít. Như thế để chứng tỏ rằng chúng ta đến với đề tài không phải thụ động; ai nói sao nghe vậy. Nhất định, phải có sự lựa chọn; dù không phải là lựa chọn một cách tùy tiện. Khởi đầu của nhận thức, tất phải có sự lựa chọn. Hoạt động trí năng của tuổi trẻ, trước tất cả, là khả năng lựa chọn. Tuổi trẻ học tập để biết lựa chọn. Ðịnh hướng cho tương lai của mình bằng sự lựa chọn sáng suốt.
Vả lại, ở đây ta cũng không nên thất vọng nếu nói rằng không có một hình thái đạo Phật nhất định nào dành riêng cho tuổi trẻ. Chỉ có một mảnh trăng trên trời. Nhưng là trăng bạc màu tang tóc; hay trăng tươi mát hồn nhiên; hoặc là trăng thề làm chứng cho trái tim chung thủy; và cũng có khi là “trăng già độc địa làm sao, xe dây chẳng lựa buộc vào như chơi.” Cũng có tuổi trẻ đến với đạo Phật, mong cầu giọt nước cành dương làm sống dậy một tâm hồn khô héo vì tình yêu bị phản bội. Cũng có tuổi trẻ đến với đạo Phật để gột rửa sạch “gót danh lợi bùn pha sắc xám, mặt công hầu nắng rám mùi dâu.” Các bạn trẻ ấy tự tìm thấy hình thái đạo Phật thích hợp với mình. Nếu đạo Phật không đáp ứng được cho những tâm hồn đau khổ, chán chường cuộc sống ấy, chẳng khác nào y sĩ từ chối bịnh nhân. Vậy thì, các bạn trẻ cũng nên tự mình tìm cho mình một hình thái cho đạo Phật thích hợp; không phải là hình thái được lập thành khuôn mẫu do bởi các Anh Chị trưởng, do các Ðại đức, Thượng tọa, hay do các nhà nghiên cứu uyên bác. Một thiền sư Việt Nam đã nói: “Nam nhi tự hữu xung thiên chí, hưu hướng Như lai hành xứ hành.” Ta hãy đi con đường do chính ta lựa chọn, không cần gì phải lắc nhắc theo dấu vết của Như lai.
Khẩu khí này nhiều khi khiến ta sợ hãi, e rằng có quá tự phụ, quá ngạo mạn chăng? Ðừng có phổ nhạc những lời ấy thành giai điệu với tiết tấu hành khúc dồn dập, mà hãy thử phổ thành một sonata nhỏ của mặt hồ tĩnh lặng, ta sẽ nghe được âm hưởng này: hãy bình thản tự chọn cho mình một hướng đi, sẵn sàng chịu trách nhiệm đối với hậu quả xuất hiện trên hướng đi mà ta đã chọn. Lời Phật cần ghi nhớ: “Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm.” Và còn có lời Phật khác nữa: “Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai; chớ đừng là kẻ thừa tự tài vật.”
Các bạn trẻ đang học tập để chuẩn bị cho mình xứng đáng là kẻ thừa sự. Kế thừa gia nghiệp của ông cha, của dòng họ. Kế thừa sự nghiệp của dân tộc. Kế thừa di sản nhân loại. Dù đặt ở vị trí nào; bản thân của các bạn trẻ trước hết phải sẽ là người thừa kế. Thành công hay thất bại trong sự nghiệp thừa kế của mình, đó là trách nhiệm của từng người, của từng cá nhân. Hãy tự đào luyện cho mình một trí tuệ, một bản lãnh, để sáng suốt lựa chọn hướng đi, và dũng cảm chịu trách nhiệm những gì ta đã lựa chọn và gây ra cho bản thân và cho cả chúng sanh.
Không có đạo Phật chung chung cho đồng loạt tuổi trẻ. Mỗi cá nhân tuổi trẻ là biểu hiện của mỗi hình thái đạo Phật sinh động.
Chúc các Anh Chị có đầy đủ nghị lực để chinh phục những vương quốc cần chinh phục; để chiến thắng những sức mạnh cần chiến thắng.

BUDDHISM & THE YOUTH

TUE SY
Translated by Vien Minh
Ever since a very young age, the rather slim monk with sharply glinting eyes, had many times been at the podium of the Van Hanh Buddhist University (in Saigon before 1975) to lecture tirelessly on topics ranging from Ancient and Modern as well as Eastern and Western philosophical topics, to profound debates on the Original, the Developmental, and the Zen Buddhism.
That same monk had once walked away from the boisterous city life in the capital (of the South) to find solitude in the breezy ocean-side Nha Trang on the Trai Thuy hill, spending quiet teaching days with the young student-monks of Hai Duc Institute of Higher Buddhist Studies, passionately sharing and eagerly passing down his enormous profundity and vast knowledge.
And that monk, in his middle years of life, had proudly walked the steps of an undaunted Bodhisattva into the perilous danger zone to stir up multitude of oceanic tidal waves demanding freedom, democracy, and equality for the entire human race in the midst of this life’s full of interminable ignorance.
Always peaceful and carefree with just his faded brown robe and grey cassock, whether living in the raucous cities or among the serene wooded forests or even during the imprisoned years with inexplicable death penalty (in 1988), that same monk showed an unyielding fearlessness through all occasions and circumstances.
And today, that graceful monk – the Most Venerable Thich Tue Sy – will present to you, the young Vietnamese people in the country as well as those all over the world, this genial discourse about “Buddhism and the Youth.” Certainly each and every one of us will receive this topic in our own diverse perception.
Each of us, with individual thinking and distinctive insight, are somewhat like the bells hung high. The words of Thay are like mallets that could create the beautiful ringing sounds. The bell sounds, whether long strike or short beat, deep baritone or high soprano, shrilling pitch or unhurried pace, if Thay could hear them, he would also agree that they seem to be the sounds echoing from all of us. (There was this one time when Thay heard a friend – probably a young friend – shared about love and eternity, Thay thought that was a sensational talk.)
Today this marvelous discourse on “Buddhism and the youth” by the Reverend Thich Tue Sy is like a steaming hot cup of tea. We shall try to receive the offer and sip the brew to individually taste the wonder of tea. Regardless of how you feel it, we should all agree that this discourse is offered in the light of an Enlightened Religion – liberated from all mundane sufferings; released from the binding of the arcane mind and body; uninhibited by the restricted boundaries of ambitious ideals, of fixed thoughts, or of blinding belief.
In our ordinary life, searching for that enlightenment also means that you are trying to reach the ultimate freedom. And in the sense of this liberation/freedom, the discourse of Master Thay Tue Sy is by no means pushing or forcing any of us into a predetermined mold, nor preset standards of any kind.
“Light your own path.” Each of us has to discover our own true dharma! — HOA ÐÀM, 2009
My dear friends, the topic of our discussion today is “Buddhism and the Young people.” Such title tends to create an impression that Buddhism comes in many different forms; and each form caters to certain generation, or certain socio-economic class. But then, one can also believe that there is only one Buddhism, and today’s topic will examine thoroughly the basic characteristics of Buddhism, and extract from them the conclusion as to whether Buddhism in that sense would be appropriate for the young people. Of course, here, all of you are Buddhists, so the answer is probably already available long ago. We are not going to state any definition, nor reference Buddhism in any particularity or trait, no matter what definition we use, or in what side we would see it.
In so saying, it may still be hard for you to grasp the heart of the matter. Many of you probably have read books on Zen Buddhism, or at least have heard of Zen ko-an, which somewhat goes like this. A person asked a master: What is Buddha? His master replied: “three pounds of hemp.” That wasn’t a jokingly replied story, nor was it an intricate statement on the transcendental philosophy microprocessed by the Zen master. But it’s just because here, we are going to search for the significance of life and to discover its worth and benefits. As if defined by a writer or a poet, we are not here to characterize or describe life, because we are not looking for its encyclopedic knowledge, but we are here to explore true qualities of life. Just like a bee seeking a flower, not to find the physical beauty and alluring scent of that flower because the flower’s beauty and scent are only representations of existence. The bee only seeks the flower to extract the sweet nectar deep inside that flower in order to provide nourishment for its own surviving and that of its species.
Young folks are often reminded and advised to learn to live a life worth living. Our proverbs also taught “Be worth the value of the young! As you land in the East, the East would be calm; as you mount the West, the West would be in peace”, and for that, our young people would think that they should perform certain illustrious acts, otherwise their life would be a waste. Some of them have, indeed, succeeded with a brilliant achievement that is worth everybody’s admiration. All of us are in awe of him, too. But just look into his eyes a little bit, had any of us here has a mind to do so. What do we find in those eyes? Would we see a lofty vast firmament, onto which an eagle majestically stretches its wings, or would it be a lost heaven in the regretful reminiscences of his youth as he left behind his most beloved for the conquest of fame?
The answer would be both. One would chase after illusion to search for his own real image. Where is the sweetness of life, on either side? Now we are temporarily leaving the romantic panorama to look into another aspect of it. Could there be any other picture worth more in appreciation? That depends again on the viewer’s artistic standpoint.
Long ago, there was a prince to whom the golden throne was to be expected, and under whom the hoofs pounded on the long march in submission. That night, as the whole royal palace was sound asleep in the deep and quiet night of power, fame, and wealth, the prince ordered his charioteer to saddle the best of his warhorses. But his galloping horse would not trample the battlefield. His powerful dagger would not overthrow the pathetic enemy. From then on, the royal footsteps began gallivanting all through to the ends of mountains and rivers; at times lonesome by the waters, or alone under the treetops. What did he want to find? Let’s hear Him say: “And then, O Bikkhus! While in my youth, with hair still dark, and life full of vitality; despite the disapproval of the parents, their face stained with tears of sorrow… I have left the family, I have shaved and donned the frock, I have chosen the celibate life. Leave behind everything in order to seek something more virtuous, to find a direction guiding toward superiority, to search for trace of an ultimate tranquility.” Thus he left, he searched, and he discovered the way leading to a peaceful realm and perpetual happiness.
So the path that He had taken was then announced and introduced to others. These capable people are like the lotus flowers that only grow in the muddy standing water, but these lotus flowers would bloom upward out of the filthy mud so that they themselves are not tampered by the stench from which they come. However, the path that was announced and introduced was not by any mean an easy acceptance with faith by everyone. The people who protested against it were not in small numbers. When the young Master arrived in Magadha, one of the most powerful nations of that time, several young men from wealthy families like Yasa and his friends, other well-educated men like Sariputra and Moggallana, or young men of royal descendant, princes and noble courtiers took turn to leave behind their own family and denounce their grand social status, to accept the glorious Path to Ultimate Truth. From a certain perspective, their leaving did produce a large vacancy in society, causing a disturbing upheaval to the ordinary life that everyone was accustomed to. So people worried. They started to discuss the situation in whisper at first, then disapproval and disappointment came among them, and at last they even got angry. This opinionated inclination almost initiated a wave of opposition: “Sramana Gautama is causing fathers to lose their sons, wives to become widows. Sramana Gautama disrupts our normal family life.” But the trend in opposition did not last long enough to become real public hostility. Because not for very long afterwards, these fathers and young wives realized that they were not actually forgotten or deserted by their love ones, but that they were finally shown the fantastic taste of love and happiness which was absent in their lives for the longest time.
So from the initial introduction, this rightful way, this pre-eminent and ultimate path that could lead to an everlastingly blissful world, did not materialize by the power conquered with daggers and blades, but by the power that comes from compassion and wisdom; this supreme path was graciously accepted by the young generation of people, the brightest class of society, the ones who would stipulate the future direction of the whole populace.
Maybe we ought to stop right here. That image may seem too farfetched, unreachable and overwhelming for a lot of people. Despite the fact, not a single one of us male or female young person, would not agree, from the deepest of our heart, that we are driven by an unrestrained powerful force. This power is called the desire to dominate. Such as dominating love, conquering fame and attaining status in life. It doesn’t matter from what angle or direction one looks at it, it is like all of us are little children chasing after a butterfly. Once you hold the dead butterfly satisfactorily in your hands, would you ever wonder: what do this conquest and this victory mean to me? No, we don’t ever wonder that, we continue to chase one butterfly after another. In the history of human kind, how many famous conquerors, after each victory, would only see themselves as just small delicate ones in front of the power of gentle human love?
The galloping stallion of Genghis Khan did not stall in front of enemies, but the great Khan’s innermost feelings were not at peace when he knew that there was someone longing for his return at the other end of his conquering road. That was the last enemy to battle with. Khan knew very well that even with the combined power of his ten thousand mighty soldiers, he wouldn’t be able to win over such enemy, or to claim victory over such empire. He sent for an assistant, a wisest and most proficient advisor, to help gather the supernatural power instead. His diplomat went to Zhongnanshan Mountain to seek Qiu Chuji. The Taoist priest left his mountain, crossed over the desert to arrive personally at Khan’s supreme headquarter, to explain his view of living forever and never dying, and to clarify the secret meaning contained in the Book of Tao consisting in 5000-words ascribed to Laozu, the founder of Taoism. At the conclusion of the Holy Book, once all of the riddles of the language had somewhat betrayed their hidden meaning, the great Khan came to the exclusive assertion, that he would be the loser in this very last battle.
So, what is the signification of conquest? Each of us tends to look for something in our life, for certain significance, for the ideal and the reason to live. For the majority, love and happiness are those ideals of life; for others, it could be wealth, fame, or power.
People even agonize themselves mentally or torture themselves physically, in pursuit of what they think the paramount for their existence. But we also know that besides the illusory and precarious happiness of life, there are also far-reaching horizons and a path to altruistic selflessness; but only a handful of us are taking that route, and a whole lot less people reaching its destination. Why is that?
Once there was a literary researcher who, when commented about the poet Li-Po, had no reserve whatsoever in raving this exceptionally brilliant individual with a liberal and extravagant way of life. But then he concluded: we are not of the class of Li-Po, and we cannot live like the way Li-Po lived, because we do have family, wives and children, and many other responsibilities. Be it as it may, could it be that all of us were born predestined with a noose on our neck, but Li-Po was not? Could it be that we are only allowed to admire, and marvel at the outstanding characters and their lives, just like a ragged beggar would only stand from far away to crave and long for the precious jewels worn by an attractive princess? Sure, Li-Po cannot live like us, and of course we do not have to become like Li-Po in order to have the recognition of others. Each of us has within ourselves an endless hidden treasure. There is no need to borrow or steal the attributes of another individual. And no need to inadequately evaluate ourselves.
The Lost Son in the Lotus Sutra wouldn’t think of himself as the only son and heir of the rich proprietor, the one whose power even surpassed that of many high ranking dignitaries of the royal court. This young man even felt happy when he was hired as a lowly servant, and was so proud to become the humble servant of this affluent family. He took pride in cleaning out the latrines, and was pleased to be permitted to sleep in the horses’ stalls. However, deep in his essential nature, in his bloodline, and from an unlikely peculiar destiny, he was the sole inheritor of this wealthy family. He would be recognized as successor only when he himself can trace his own lineage, and can substantiate his own aristocratic significance. Otherwise, one who thought of himself no better than the breeding horse of his boss, cannot have dreams to prove himself the sole heir of the family. Because that wasn’t inheritance, it was more like strategic plans of a usurper.
In that case, definitely would he be punished on account of his extravagant ambition. Here while we cannot ascertain our own noble dignity, and cannot appreciate the precious values of life – the values that are certainly not higher than the rows of social chairs and the steps of social ladders which are instituted in an irreversible order; meanwhile, we call ourselves “Buddhists”, meaning we see ourselves as rightfully legal descendants of the Tathagata’s Holy lineage; is this somewhat contradictory? Among my young friends, many have tried to ascend and move up in life, establishing their own values; they thought that if needed and when wanted, it is not hard for them to just don the most expensive clothing or sit at the highest position in society; and when not needed anymore, they can just “discard the golden throne just like throwing away some broken shoes.” Those friends, after a time struggling with life in order to prove their self-worth, some of them are even “lucky enough” to climb up these high-profiled chairs, suddenly realize that the importance and value of this life are being painted, decorated, and engraved into these chairs. So from then on, they would fasten themselves firmly onto them, and insist on defending these values at any cost.
Some other friends of mine, after a broken relationship, suddenly realized that happiness, so real in their own hands minutes earlier, was now just pretentious. One came to me after many days wandering around in his miserable sorrow. He came searching for me not to find a consolation, but he came to graciously lecture me on the meaning of love and eternity; and the meaning of true happiness and the supreme cause of life, the ultimate good. While listened intently to his talk, I felt like I have drunk all the drops of sweet dew dispersed from each of his burning teardrops; and I have asked myself whether my friend had realized the meaning of Nirvana? Now that 30 years have passed, I have to confess that I could not forget that marvelous “sermon.” But just a short time afterwards, my friend again threw himself onto new romance. When I asked him why, his answer was that the sweetness of that first love could have never been adulterated with time. It forever resided in an obscure part somewhere in his heart. He only chased after frivolous and fleeting relations, pursued the empty fame; just because he attempted to forget things that was gone, and gone forever, that never could be retrieved. Once in a while, when thinking of this friend, now quite successful in his real life, I often wonder if he had ever thought back to those youthful years, wouldn’t he think he was being so stupid, chasing after illusion? And furthermore, between these two stages of his life, which one is truly illusion?
They say that Young People are standing at the threshold of life, so you have to prepare your baggage to enter life. I want to say it in a different way, by relating to my own youth that has passed. What I want to relay is that you – the young generation – are placed with two questions that demand immediate and confident answers; or that you are positioned at the forked road that requires your decision without hesitation, either Love or Achievements. In front of you is a long winding road that looms in the dim residual light of morning stars. It is not quite dawn so as to easily distinguish where you are standing and where the road you’re taking will lead you. Moreover, are there really two branched out roads for you to choose or is it just one? Which way are you going to proceed? Whether to follow the path of achievements and reputation, just as the saying goes “to have been born in the world, may one’s name be impressed upon the mountains and rivers”; or perhaps to pursue the silhouette of an eternal springtime? Both of them make sense, and I know all of you would understand them clearly.
We do not have to go through lengthy explanation and argument. But there is one thing that I have to stress. Your understanding of the future path ahead of you is not quite what you are seeing by yourself, and knowing yourself which way to take as the first morning light breaks through. It’s rather the remnants left behind from many generations before you. It’s not often that one can just formulate one’s own distinct pathway and not trailing any other pre-existing track. Tracing slowly step by step after other generation’s direction, only then young people can carefully develop their own future roadmap. Among these youthful individuals, many would not step out of the jungle’s darkness to find for themselves, with their own eyes, the roadway that leads out to the future even when daybreak has come and the morning sun brightly shines.
We will now explore in history and find such a youth. The one that came to my mind was not a stranger to any of you, and I want to remind you of the Emperor Tran Nhan Tong. When still young and growing up in lavishly splendid palace filled with joy, this aristocratic young man lived like a recluse amidst the royal kingdom; with a true hermit life of abstention and ascetism. I wonder if the graceful bearings would have been appreciated by anyone in this young royalty, but the King Father – only seeing the dreadfully emaciated body of his own heir – could not help but uttering a cry, wondering if his son would have enough strength and energy to look after the empire, safeguarding its territory.
Nonetheless, that same young man, once enthroned and residing over the entire nation, not only ascertained his own selfworth, but also substantiated the lasting existence of his whole populace. Whether sitting at the towering royal throne, or embarking impressively in the battlefield, or returning home on victorious mounts after triumphant conquests; nights after nights in the serene darkness of history, even now, we can nearly imagine the sound of his repetitive gong strikes and distinctive ritual chanting of this royally majestic king who once viewed the throne like a pair of discarded sandals: “What that is to be produced by conditions should be viewed as a dream, a mirage, a bubble…” How could the one who perceives with his own eyes the whole universe as ephemeral – like dewdrops on the grass blades – nevertheless with supremacy, would be able to make up his own destination as well as that of the entire sovereignty? I hope that all of you young people out there can come up with the answers yourselves. Because when you can provide answers to those questions, you surely can make up your own destination and not worry so much in making erroneous mistakes.
Now we finally come back to the main discussion of our topic. Many of you when hearing the title of this topic would probably have thought that the speaker will present something related to certain Buddhist structural standpoint, and gathering from that viewpoint he will analyze and explore whether it would apply to the young generation, or bring about actual benefits to this young age group. Up until now, I have not introduced any form, any structure yet. Are any of you disappointed? Well, maybe you ought to be a little disappointed. That way, it’s apparent that none of you come to passively listen to me, whatever I say would satisfy you. Rightly so, you should have choices, even though the choices are not up to your own wishes. Beginning with realization, there would undoubtedly be options. When working with the talented capacity of youth, first of all there is the ability to choose. Young people are educated to know how to select options. Determining one’s future plan is making the right choices intelligently.
Furthermore, we should not be too disenchanted if there is not a specific Buddhist structure applying to the young generation. There is only one moon up in the sky. But that moon can be graying with old age and death, or it can be a new moon freshly emerged with youthful innocence; likewise, it can be a bright moon that bears witness to faithful hearts, or it can be an “old moon of spitefulness that maliciously causes the discord between lovers.” Yet other young people come to Buddhism hoping that the blessed water by the compassionate Bodhisattva would revive their wilted heart which was rejected by love. And yet others come to seek Buddhism to wash off “the heel pacing after fame tainted with grey mud, or the face of marquee suntanned by the rays of great changes.” They may find on their own a Buddhist structure that correlates well with them. If Buddhism cannot alleviate their mental sufferings and their weariness of life, it would be just like a doctor refusing to treat sick patients. Therefore, you are advised to find your own viewpoint that corresponds with Buddhism, not taking those that are already being molded by others such as your superiors, your reverend monks, or some other brilliant researchers. A Vietnamese Zen master once said: “Young people should bear in themselves the will of soaring high, and not content with retracing the footsteps of the Buddhas, though. We will walk the path that we select ourselves, no need to drudgingly follow after the trace of others.
This manner of speaking sometimes causes people to feel bewildered. Wouldn’t it be too conceited, too arrogant? Then please, do not create a song with a quick tempo out of those words, but try to compose a gentle sonata like smooth undulating water of a lake, then we can easily comprehend the sound of these words: Be at ease in choosing a direction for yourself, and ready to take on the responsibility for what happens along the path that you have chosen. These are the words of the Buddha that you should remember: “sentient beings are the inheritors of all actions that they have carried out themselves.” And Buddha also taught us: “Be the successor of the Tathagata’s true dharma, and not the heir of material resources.”
All of you are learning to prepare yourselves for worthiness of being heirs: Inheritors to the heirloom of familial ancestors; Inheritors to the traditions of a country’s heritage; Inheritors to the humankind legacy. No matter what position you are placed in, first and foremost, you, the young generation today, have to be the heirs. Victory or defeat in the position of being an heir is the responsibility of each one of you, personally, individually. Be prepared to develop your own wisdom, build your own ground, to cleverly choose the pathway to life, and be ready to accept the responsible actions for what you have committed to for your own self and all other sentient beings.
There is not a universal Buddhism that is broad-spectrum for the entire young generation. Each one of you individual is representative to the dynamic form of Buddhism.
I sincerely wish you would have enough strength to conquer lots of kingdom that are to be conquered and win over the powers that are to be won.