Tuesday, May 31, 2022

Bạch X. Phẻ – W. Edward Bureau: Ba con đường đan xen dẫn đến hòa bình bền vững

 

Lời dẫn:  Đây là bài thuyết trình cho Đại Lễ Phật Đản của Liên Hiệp Quốc tổ chức tại Ninh Bình Việt Nam vào năm 2019. Bản tiếng Anh và tiếng Việt  ở phần link dưới. Nhận thấy, bản dịch Tiếng Việt được Ban tổ chức dịch không được chuẩn, nên chúng tôi lượt dịch lại ở phía dưới. Kính mong quý vị chỉ giáo nếu có những thiếu sót để thay đổi cho tốt hơn. Xin cảm ơn.

http://www.undv2019vietnam.com/Subtheme-01/en/21.pdf
http://www.undv2019vietnam.com/Subtheme-01/vi/13.pdf


Hội nghị UNDV 2019
Chủ đề phụ: “Lãnh đạo có Tâm vì Hòa bình Bền vững”

Ba con đường đan xen dẫn đến hòa bình bền vững

Tiến sỹ Bạch X. Phẻ (Phe Bach, Ed.D.)
Người sáng lập và Giám đốc điều hành của C. Mindfulness LLC
Trường trung học Mira Loma, SJUSD, Hiệp hội giáo viên California, Hoa Kỳ.

Tiến sỹ W. Edward Bureau, Ph.D. (Đã nghỉ hưu)
Đại học Drexel, Philadelphia, PA, Hoa Kỳ

Giới thiệu

Hòa bình bền vững gắn liền với chánh niệm trong từng giây phút hiện tại, con người và các mô hình thu nhỏ nơi đó chúng ta đang tồn tại. Thay vì tồn tại như một trạng thái tĩnh, hòa bình có tính hữu cơ và năng động, tự nó tạo ra những mơ hồ của “bất an”. Vì vậy, trở thành một nhà lãnh đạo có chánh niệm bắt đầu bằng việc thực hành Năm Chánh Niệm (Năm Giới) trong Bát Chánh Đạo (Xem Phụ lục A) và tìm kiếm sự bình an trong bản thân và tiếp tục chánh niệm bằng cách thể hiện sự bình an đó mỗi ngày. Việc làm này là hạt giống để từ đó các hệ thống và hoàn cảnh tự chúng có thể duy trì được sự hòa bình bền vững.

Suy nghĩ về cách lãnh đạo bằng chánh niệm có thể duy trì hòa bình, chúng ta phải xem xét cách thức mà chánh niệm có thể được nuôi dưỡng trong mỗi cá nhân và cách người đó có thể duy trì chánh niệm hàng ngày bất chấp những thách thức bên ngoài. Kết hợp thực hành chánh niệm với sự hiểu biết về “tư duy hệ thống” sẽ mở ra những con đường duy trì hòa bình trong và khắp các tổ chức, cơ quan chính phủ và các cấu trúc chính trị. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo, giáo viên và những người khác cũng phải nắm lấy “dòng chảy liên tục” và biết rằng cái tưởng dường như “kết thúc” chỉ mới là một sự “khởi đầu”. Hòa bình có thể giữ chúng ta trong hành trình vòng tròn thông qua các hệ thống và thời gian.

Do đó, có “Ba con đường đan xen dẫn đến Hòa bình bền vững”.

Học tập và Duy trì Hòa Bình dựa trên Thực hành Chánh niệm

Những nhà lãnh đạo muốn duy trì hòa bình mà không có hòa bình thì họ phải tìm cho ra và vun đắp nó trong chính họ. Đây không phải là vấn đề của ý chí hay điều gì là quan trọng mà thực hành chánh niệm phải được bắt đầu và liên tục thông qua việc thực hành hàng ngày. Chánh niệm thay đổi cuộc sống, vận dụng bộ não, giúp giảm đau đớn thể chất và cảm xúc, và nâng cao khả năng học tập. Thực hành chánh niệm trong một tổ chức mang lại một bầu không khí và văn hóa an bình, khoan dung và trân trọng hơn. Dạy người khác cách sống có chánh niệm và cách thực hành thiền định mang lại cho họ kỹ năng suốt đời để đương đầu với những áp lực của cuộc sống hiện đại trong một thế giới đầy biến động và gặt hái được sự hòa bình bền vững.

Hòa bình, hòa hợp phổ quát và những trách nhiệm chung được chia sẻ bắt đầu từ bên trong, và hòa bình nội tâm bắt đầu với chánh niệm và thiền. Các công trình nghiên cứu cho thấy chánh niệm và thực tập thiền trước khi bắt đầu các buổi họp nhóm hoặc vào giờ giải lao hàng ngày giúp mọi người cải thiện sự tập trung đồng thời giảm bớt lo lắng. Những tổ chức tập thể nào có thực hành chánh niệm có thể trở nên vui vẻ và ổn định vì mọi người có được sự thư giãn, cảm thấy hài lòng và buông bỏ được âu lo.

Tư duy có hệ thống như một con đường dẫn đến hòa bình bền vững

Trong một thời đại thay đổi nhanh chóng và không chắc chắn, các nhà lãnh đạo phải đối mặt với những tình huống phức tạp, những điều chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến sự hòa bình. Chỉ nhìn thấy và phản ứng với các phần cụ thể của hệ thống dẫn đến các phản ứng vụn vặt chỉ giải quyết được các vấn đề tức thì. Bằng cách nhìn nhận và gắn bó với hệ thống như một tổng thể hữu cơ, người lãnh đạo có thể cùng tạo ra hòa bình bền vững. Hiểu được rằng một hệ thống sống sẽ tự tái tạo, mở ra khả năng hòa bình và sẽ trở thành trung tâm trong các mối quan hệ, quá trình và nội dung của hệ thống.

Khi có cái nhìn mang tính hệ thống rộng lớn hơn, phong phú hơn thì sẽ không thể bỏ mặc cho những may rủi hoặc một cam kết mơ hồ xuất hiện. Giống như chánh niệm, tư duy hệ thống phải được học và thực hành hàng ngày. Trong các tác phẩm của Peter Senge và Otto Scharmer (Thuyết U) có các khái niệm và phương pháp để các nhà lãnh đạo trở thành người thực hành tư duy hệ thống. Làm như vậy họ mới có thể chuyên chú, vun bồi những thay đổi tích cực và tạo ra được sự bình an trong mỗi hệ thống và giữa các hệ thống với nhau, trong đó có cả Phật giáo.

Nắm bắt dòng chảy liên tục

Một số nhà lãnh đạo tin rằng, khi một cái gì đó được duy trì, nó đã đạt đến trạng thái tĩnh lặng và liên tục ở trạng thái đó theo với thời gian. Các nhà lãnh đạo và những người trong cùng một hệ thống có thể cố gắng bám chặt và giữ lấy hòa bình, không muốn thấy nó biến mất. Hòa bình, theo quan điểm này, không nên được duy trì. Tuy nhiên, hòa bình có thể tồn tại vĩnh viễn, nếu chúng ta chấp nhận rằng nó không có bắt đầu hay kết thúc. Đúng hơn, hòa bình là một hiện tượng năng động và tự nhiên, một hiện tượng liên tục chảy từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.

Việc nắm bắt dòng chảy liên tục sẽ đưa hiện tượng hòa bình vào trong phương pháp thực hành chánh niệm hàng ngày của nhà lãnh đạo. “Thuyết O” (hai Tiến sĩ Bạch và Bureau) soi đường cho các nhà lãnh đạo tận tâm sống theo dòng chảy hòa bình. (Xin nói thêm  chữ “O” giống như vòng tròn viên dung là con đường tròn dung hoà, dung thông, đã hoàn tất, không có bắt đầu hay kết thúc, nhưng chúng ta có thể chọn một điểm trong vòng tròn dung hợp như sự bắt đầu. Chữ viên dung cũng có thể là sự dung hợp, là dung hòa với nhau trong một thể thống nhất, giữa lý và sự, giữa tướng và tánh. Đó cũng là một trong những yếu tố cần thiết tối ưu của từ bi và hòa bình). Sử dụng lại nhiều lần về bản chất, “Thuyết O” chảy vòng tròn qua các yếu tố: nhận thức, chấp nhận, ôm ấp, học hỏi, thực hành, chuyển đổi, chia sẻ và tái tưởng tượng. Là một nhà lãnh đạo tỉnh thức và sống với những điều trên, người đó sẽ sống với hòa bình, có hòa bình. “Là hòa bình” sẽ có hoà bình. Đó là một đề xuất khác về Phương pháp tiếp cận của Phật giáo đối với lãnh đạo toàn cầu và trách nhiệm chia sẻ với các xã hội bền vững.

Học tập và duy trì hòa bình dựa trên thực hành chánh niệm

“Chúng ta có thể chọn cách sống cuộc đời của mình ngay bây giờ. Chúng ta có thể nắm bắt bất kỳ khoảnh khắc nào và bắt đầu lại.” Và “Bạn cần thức dậy từ chế độ lái tự động của mình. Bạn phải sống sâu sắc và có ý thức hơn để bạn có thể chú ý đến từng khoảnh khắc.” – Thích Nhất Hạnh

Là một nhà giáo dục và thực hành đạo Phật, là tác giả chính (trong bài này) đã thực hành và giảng dạy Lãnh đạo Chánh niệm như một mô hình thực hành chánh niệm dựa trên sự bình an trong cuộc sống và trong công việc của mình (xem Phụ lục A, Lãnh đạo từ lòng Bao dung), hoặc như Malala Yousafzai (Người đoạt giải Nobel năm 2014) đã nói: “Hãy để chúng tôi mang lại bình đẳng, công lý và hòa bình cho tất cả mọi người. Không chỉ các chính trị gia và các nhà lãnh đạo thế giới, tất cả chúng ta đều cần phải đóng góp. Tôi. Bạn. Đó là nhiệm vụ của chúng tôi.” Chúng tôi có trách nhiệm mang lại thứ lãnh đạo tinh thần, bình an và chánh niệm cho chính mình và cho những người khác.

Chánh niệm là nhận thức về điều gì đó có thể quan trọng(Từ điển Merriam-Webster) hoặc như Từ điển Oxford định nghĩa, Ý thức hoặc nhận thức về điều gì đóPhục tùng hoặc sẵn sàng làm điều gì đó. Sự sẵn sàng làm điều gì đó là sự thực hành chánh niệm trong cuộc sống hàng ngày. Chánh niệm trau dồi sự chú tâm, khả năng tập trung và nhận biết; nó là nền tảng của thành công và là một kỹ năng đòi hỏi sự luyện tập để cho phép chúng ta cảm nhận được những cảm xúc mà không cần phản ứng, đáp trả thay vì dối trá lúc bị kích động. Chỉ riêng trong lĩnh vực giáo dục, theo Parker, và các đồng tác giả (2014), chánh niệm nâng cao năng lực tự điều chỉnh của trẻ em, cho thấy những cải thiện đáng kể trong các kỹ năng ứng phó với cuộc sống và giảm thiểu đáng kể tính hung hăng và các vấn đề trong giao tiếp. Black, D. S. và Fernando, R. (2014) cũng đưa ra thông tin là các giáo viên báo cáo rằng học sinh của họ đã cải thiện hành vi trong lớp học (tức là chú ý, tự chủ, tham gia vào các hoạt động và quan tâm / tôn trọng người khác). Hơn nữa, có hơn hàng trăm nghìn nghiên cứu về chánh niệm và hiệu quả của chánh niệm. Các nhà nghiên cứu đã báo cáo những lợi ích được thực nghiệm ủng hộ chánh niệm bao gồm: giảm lo lắng, giảm căng thẳng, tăng cường trí nhớ lúc làm việc, tập trung hơn, ít phản ứng cảm xúc hơn, nhận thức linh hoạt hơn, tăng mức độ hài lòng trong mối quan hệ, tăng trí tuệ cảm xúc và kết nối xã hội, tăng đạo đức, kiểm soát được nỗi sợ hãi, tăng chức năng miễn dịch, an vui hơn trong cuộc sống, tăng tốc độ xử lý thông tin, giảm tâm trí lan man, giảm huyết áp, tăng sự đồng cảm / lòng trắc ẩn, nâng cao hiểu biết về bản thân, cải thiện các mối quan hệ, điều chỉnh sự chú ý, hành vi, và cảm xúc, sức khỏe và hạnh phúc cũng như nâng cao kết quả học tập và các hoạt động trí tuệ khác.

Chánh niệm, như trong Chánh niệm ngay thực, trong Bát chánh đạo, là nghệ thuật sống, một quan niệm về một lối sống bình an, hài hòa và chuẩn mực nhằm nâng cao sự an toàn và hạnh phúc của gia đình, cộng đồng và xã hội. Như vậy, thực hành chánh niệm và thiền định hàng ngày là một cách sống. Nói một cách ngắn gọn, như Bạch (2014) đã chỉ ra, chánh niệm là năng lượng của sự ‘chú ý’, tự quan sát và nhận thức về khoảnh khắc hiện tại, không phán xét, và với thái độ tử tế và từ bi về những gì đang diễn ra xung quanh bạn và bên trong bạn. Chánh niệm đưa bạn trở lại khoảnh khắc hiện tại. Khoảnh khắc hiện tại là điều duy nhất mà chúng ta thực sự có được vì như một câu tục ngữ xưa đã nói: “Ngày hôm qua là lịch sử và Ngày mai là điều bí ẩn. Hôm nay là món quà – ở đây và bây giờ. (Đó là lý do tại sao nó được gọi là HIỆN TẠI)”. Vì vậy, các tác giả sử dụng Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo như một cách để sống, giảng dạy và lãnh đạo.

Boorom (2009) gợi ý rằng lãnh đạo có nguồn gốc trong tôn giáo, vì có mối tương quan trực tiếp giữa năng lực lãnh đạo và phẩm chất tâm linh. Marques (2010) khẳng định rằng “hoàn toàn có thể là tâm linh và chưa phải là có tôn giáo. Có nhiều người sống tâm linh nhưng là người vô thần, chẳng tin gì, hoặc chấp nhận nhiều tôn giáo” (tr.13). Đối với bà, “một người phục vụ tinh thần là một người chỉ đơn giản là duy trì các giá trị nhân văn tốt đẹp, chẳng hạn như tôn trọng, khoan dung, thiện chí, hỗ trợ và nỗ lực để xây dựng những gì tốt đẹp hơn ở nơi làm việc của mình” (trang 13). Trong công trình nghiên cứu của mình, DeVost (2010) khám phá ra rằng thực hành ‘khuyến khích trái tim’ – một trong năm giá trị lãnh đạo điển hình – có ý nghĩa tích cực. Theo Kouzes & Posner (1995), năm điều thực hành để lãnh đạo tốt là: “Thách thức quá trình, truyền cảm hứng cho tầm nhìn chung, giúp người khác hành động, làm gương và khích lệ trái tim” (trang 9).

Trong khi đó, các nhà lãnh đạo thường thực hành đời sống tinh thần cũng như niềm tin đạo đức và các giá trị nhân văn của họ. Như Northouse (2004) đã lập luận rằng đạo đức và lãnh đạo chính là “quan tâm đến các loại giá trị và đạo đức mà một cá nhân hoặc xã hội muốn có hoặc thấy phù hợp” (trang 342). Hơn nữa, ông chỉ ra rằng mô hình lãnh đạo nhân văn bao gồm năm thành phần: a) biểu hiện sự tôn trọng, b) phục vụ người khác, c) thể hiện sự công bằng, d) bày tỏ sự trung thực và e) xây dựng cộng đồng. Trong một nghiên cứu khác, Zhu, May, & Avolio (2004) định nghĩa lãnh đạo có đạo đức là “làm những gì đúng, công bằng và tốt” (trang 16). Zhu và cộng sự, (2004) nói thêm rằng các nhà lãnh đạo thể hiện các hành vi đạo đức khi họ đang làm những gì là đúng đắn, công bằng và tốt về mặt đạo đức và khi họ giúp nâng cao nhận thức đạo đức và thể hiện đạo đức của con chiên. Bass và Steidlmeier (1998) cho rằng một sự lãnh đạo thực sự mang tính chuyển đổi và hiệu quả phải dựa trên: a) phẩm chất đạo đức của người lãnh đạo và mối quan tâm của họ đối với bản thân và những người khác, b) các giá trị đạo đức được gắn trong tầm nhìn của người lãnh đạo, và c) đạo đức của các quá trình và các lựa chọn và hành động đạo đức xã hội mà các nhà lãnh đạo và tín đồ tham gia.

Thay vì là một đề xuất hay một ý tưởng cho các nhà lãnh đạo và tổ chức, sự quan tâm có thể được dệt thành cấu trúc của tổ chức. Làm như vậy phải có chủ ý và không thất thường, nhưng các tổ chức và các nhà lãnh đạo có thể cần một khuôn khổ để làm việc đó. Một trong những cách tiếp cận như thế được đưa ra bởi Viện bảo tồn và các công trình của Otto Scharmer, như được thấy trong cuốn sách thuyết U và thuyết U: Dẫn đầu từ tương lai khi nó mới xuất hiện (Schramer, 2017 và 2013). Viện tiếp tục tập hợp mọi người trên toàn cầu lại với nhau để học cách “vượt qua thuyết U” nhằm hướng tới sự thay đổi bền vững và hòa bình. Được hiểu từ cái nhìn ban công, việc tham gia vào sự thay đổi có chủ ý như vậy có thể biến đổi các hệ thống và con người trong chính họ, thay vì chỉ hy vọng vào sự thay đổi. Với phần lớn “tính không hòa bình” trong các hệ thống trên toàn cầu, chúng tôi -hai tác giả- tin rằng, thông qua việc thực hành các quá trình của thuyết U, con người có thể biến đổi các hệ thống.

Ý niệm và thực hành chánh niệm chuyển qua giai đoạn đầu của thuyết U. Chúng tôi phát triển năng lực để “đình chỉ” những định kiến ​​và phán đoán của chúng tôi. Trong ngôn ngữ của thuyết U, chúng tôi nhận thức được việc “tải xuống” những quan niệm ngăn cản chúng tôi nhìn bằng đôi mắt mới mẻ, và chúng tôi học cách quan sát (một cách tập trung) làm sao những định kiến ​​đó hình thành quan điểm của chúng tôi về con người, hệ thống và tình trạng con người. Cá nhân và tập thể, chúng ta học cách “buông bỏ” để “cho đi” những gì chúng ta không thể nhìn thấy trước đây, những gì có thể là bản thân chúng ta trong tương lai. Như chúng tôi đang làm, chúng tôi đang “dự đoán” – trạng thái vừa hiện tại trong thời điểm vừa cảm nhận được những gì có thể xảy ra trong tương lai. Do đó, sự phán đoán là “kinh nghiệm về sự xuất hiện của cái mới và sự biến đổi của cái cũ” (Scharmer, 2013).

Hình 1: Chuyển động U: Ba Không gian, Bảy Khả năng
I: Cảm nhận; III: Thực hiện: 1. Đình chỉ, 7. Định chế hóa; II: Hiện diện: Chuyển đổi cá nhân và ý chí, 2. Chuyển hướng, 6. Tạo mẫu, 5. Kết kinh, 3. Ra đi, 4. Để trở lại

Theo ngôn ngữ của thuyết U, có những “điểm mù” riêng và chung có thể khiến chúng ta mất khả năng trong việc tạo ra sự thay đổi về mặt ý thức xã hội và sự chuyển đổi mang tính hệ thống. Chính những điểm mù này đã bẫy chúng ta rơi vào những lối suy nghĩ hiện nay và mô hình hành vi hiện tại, trên cả hai bình diện cá nhân và hệ thống. Rồi đến lượt mình, những điều này cũng sẽ ngăn cản chúng ta tạo ra hòa bình toàn cầu bền vững. Nếu chúng ta có thể lưu tâm đến những điểm mù của mình, chúng ta có thể bắt đầu nhìn với một tâm hồn rộng mở, một trái tim rộng mở và một ý chí rộng mở. Mỗi một trong ba điều đó là thước đo con người. Làm thế nào chúng ta có thể đủ chánh niệm để sống trong “trạng thái cởi mở” của ba thước đo đó? Các quá trình của thuyết U, thông qua chánh niệm, cung cấp cho chúng ta những con đường có chủ ý để nắm lấy chúng và tìm kiếm hòa bình bền vững trong các hệ thống.

Hành trình luyện tập của tiến sĩ Phẻ!

“Thực hành chánh niệm có nghĩa là chúng ta hết lòng cam kết có mặt trọn vẹn trong từng khoảnh khắc hiện tại; mời gọi bản thân tiếp xúc với khoảnh khắc này trong nhận thức đầy đủ, với ý định có được tâm thanh tịnh, chánh niệm và sự bình an ngay tại đây và ngay bây giờ.” – Jon Kabat-Zinn

Thế giới ngày nay có những xu hướng suy giảm đạo đức trong hàng ngũ lãnh đạo. Các sở thích cá nhân, lợi ích và tham đắm dường như lớn hơn những giá trị và phúc lợi của cộng đồng. Các nhà lãnh đạo thường thiếu hiểu biết sâu sắc về thực hành các phương pháp lãnh đạo tinh thần của bản thân, vì vậy các tác giả này bắt đầu hướng nội để tìm ra giải pháp cho vấn đề này. Giải pháp bắt đầu bằng việc sống một cuộc sống có chánh niệm, và trong trường hợp này là sống theo Bát Chánh Đạo. Những phẩm chất lãnh đạo này nâng cao các thực hành tâm linh như lòng từ bi, trí tuệ, chánh niệm, hoặc hiểu biết có thể dẫn đến các hậu quả về luân lý và đạo đức.

Hành trình của Phẻ bắt đầu gia nhập vào tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam tại GĐPT Linh Quang năm 1991 và bắt đầu với vị trí lãnh đạo năm 1994 khi còn là sinh viên năm nhất đại học tại Đại học Nebraska, Lincoln. Anh tham gia Trại huấn luyện thành Huynh trưởng GĐPT năm 1996 tại Trại huấn luyện A Dục Lộc Uyển ở Houston, TX. Kể từ đó, Phẻ tiếp thu và thực hiện Lãnh Đạo (Thân giáo), anh đã viết một bài nghiên cứu sâu về lãnh đạo, có tựa đề là Lãnh đạo tại Hội Thanh niên Phật tử Việt Nam (VBYA) hay còn gọi là GĐPT. Đây là phần cuối của bài tiểu luận nghiên cứu trong cuốn sách Bản chất của Lãnh đạo Tư duy: Học tập Thông qua Chánh niệm và lòng Từ bi (Bach, 2015).

… Lãnh đạo GĐPT Việt Nam (VBYA) hay còn gọi là GĐPT phải tu tập và thực hiện giá trị của việc làm gương (Thân Giáo); đây chắc chắn là điều cần thiết cho sự thành công của tổ chức. Theo Bạch (2012), “Dẫn dắt bằng cách làm gương đúng là một bài học vô giá mà Đức Phật đã dạy cho chúng ta. Lãnh đạo dựa trên suy nghĩ, lời nói và hành động trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Những lời dạy của anh đã tiếp cận và biến đổi vô số người từ mọi tầng lớp xã hội. Sự phát triển hòa bình của nhân loại một phần lớn là nhờ những lời dạy giác ngộ của Đức Phật. Ngày nay, Phật giáo có thể là một giải pháp khả thi cho những khủng hoảng của con người” (trang 5). Anh tiếp tục đề nghị rằng các nhà lãnh đạo thanh thiếu niên Phật giáo nên thiết lập những khuyến nghị sau: 1) Thiết lập Tư duy Đạo hạnh và Luân lý; 2) Hiểu biết và diễn đạt nguyên lý nhân quả (Luật Nghiệp báo); 3) Suy nghĩ toàn cầu và hành động theo từng môi trường – trước tiên tạo ra sự khác biệt xung quanh bạn; 4) Tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi; 5) Có mặt cho nhau – (Trình bày như trong thuyết U), 6) Sức mạnh của sự thống nhất hoặc sự hợp tác với các tổ chức khác vì sự thay đổi bền vững; và 7) Hãy là một hành giả (Phật giáo), chứ không chỉ là một học viên (tr.6).

Là một nhà lãnh đạo, đặc biệt đối với những người lãnh đạo trong các cơ sở Phật giáo, người ta phải có tâm và có nền tảng vững chắc về Giáo Pháp (lời dạy của Đức Phật). Như Michael Carroll (2008) trong cuốn sách của ông, Nhà lãnh đạo có tâm, đã gợi ý mười tài năng của một nhà lãnh đạo có chánh niệm là: giản dị, đĩnh đạc, tôn trọng, can đảm, tự tin, nhiệt tình, kiên nhẫn, tỉnh thức, khéo léo và khiêm tốn. Carroll cũng cho rằng việc mang toàn bộ con người của chúng ta vào công việc: đồng bộ hóa, gắn kết toàn bộ, truyền cảm hứng cho sức khỏe và phúc lợi cho các tổ chức và thiết lập tính xác thực, tất cả kết hợp lại để xác định một nhà lãnh đạo thành công.

Hơn nữa, các nhà lãnh đạo nên sống một đời sống tinh thần và lãnh đạo bằng cách nêu gương tích cực. Đây là một nghiên cứu khác của Andre L. Delbecq (2008), giáo sư Phân tích và Quản trị Tổ chức tại Đại học J. Thomas và Kathleen L. McCarthy; và là giám đốc của Viện Tâm linh và Lãnh đạo Tổ chức tại Trường Kinh doanh Leavey của Đại học Santa. Delbecq (2008) gợi ý rằng các nhà quản lý, những người đang làm việc với ông ta, có những thay đổi tích cực thông qua thiền định và các kỷ luật tâm linh (trang 495):

  • Cải thiện khả năng lắng nghe — ít phần thống trị hơn
  • Kiên nhẫn hơn với người khác — ít phán xét và tự khẳng định mình hơn
  • Khả năng thích ứng tuyệt vời – ít muốn kiểm soát các sự kiện và những thứ khác
  • Tập trung tốt — ít bị phân tâm và lo lắng
  • Khả năng cống hiến bản thân để phục vụ thông qua công việc nhiều hơn — ít thất vọng hơn với gánh nặng và sự cáu kỉnh trong công việc
  • Nhiều hy vọng và vui vẻ hơn ngay cả khi gặp khó khăn — bớt hoài nghi và bi quan
  • Thanh thản và tin tưởng hơn về tổng thể
  • Tự tin hơn trong việc sử dụng năng lực cá nhân — hiểu biết sâu hơn về những hạn chế của bản thân, tin tưởng hơn những việc sẽ diễn ra
  • Kiên trì và siêng năng – ít rút lui và tự chủ khi bị căng thẳng.

Đối với Bạch, việc nuôi dưỡng tâm hồn của người lãnh đạo và sự trưởng thành bên trong chắc chắn rất quan trọng. Do đó, khía cạnh tinh thần của lãnh đạo là đặc biệt quan trọng và quan trọng đối với sự thành công trong bất kỳ tổ chức nào. Nói tóm lại, đã từng là một nhà lãnh đạo Phật giáo và là một nhà lãnh đạo trọn đời, ông Phẻ vẫn tiếp tục giảng dạy môn Lãnh đạo Chánh niệm cho các nhà giáo dục đồng nghiệp tại tiểu bang California và trên khắp nước Mỹ. Anh đã đào tạo hơn 3000 nhà giáo dục trong 5 năm qua (xem Phụ lục B).

Hệ thống tư duy như một con đường để duy trì hòa bình

“Chúng ta không bao giờ có thể có được hòa bình ở thế giới bên ngoài cho đến khi chúng ta sống hòa bình với chính mình.” Dalai Lama

“Niềm hy vọng sẽ sống khi mọi người còn nhớ đến nó.” Simon Wiesenthal.

Tạo ra hòa bình bền vững có thể phát triển từ việc chúng ta khám phá hai khái niệm: ‘Hòa bình là một hiện tượng năng động và hữu cơ, một hiện tượng kéo dài liên tục từ quá khứ đến hiện tại đến tương lai trong các hệ thống’ và ‘Một hệ thống sống sẽ tự tái tạo và mở ra khả năng hòa bình là trung tâm của các mối quan hệ, quy trình và bối cảnh của hệ thống.” Cả hai khái niệm đều có thể được đóng khung thông qua “tư duy hệ thống”. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi bắt đầu khám phá cả hai, nhưng trước đó là lưu ý đến cách nào hạt giống của tiến trình hòa bình được tìm thấy trong các bài viết và phương pháp thực hành của Thích Nhất Hạnh và những người khác. Phần này kết thúc với một lưu ý về cách các hệ thống tư duy vì hòa bình là cầu nối từ thuyết U đến thuyết O (vòng tròn viên dung).

Quan trọng hơn, hãy lấy việc làm của Thiền sư Việt Nam Thích Nhất Hạnh là một ví dụ. Ngài là một nhà hoạt động vì hòa bình, một nhà văn, một nhà thơ, một học giả và một tu sĩ Phật giáo, và là người dẫn đầu trong phong trào chánh niệm. Công việc của Thiền sư Nhất Hạnh đã đưa thực hành chánh niệm vào văn hóa chính thống. Trí tuệ và sự thực hành chánh niệm của Ngài là sự chỉ dẫn và tiếp cận thực tế, điều này mang lại lợi ích cho các cá nhân, gia đình và tổ chức. Thích Nhất Hạnh (1993, 2007) nhấn mạnh: “Với chánh niệm, chúng ta nhận thức được những gì đang diễn ra trong cơ thể, cảm xúc, tâm trí của chúng ta và thế giới, và chúng ta tránh làm tổn hại đến bản thân và người khác”. Thiền sư cũng chia sẻ rằng: “Chánh niệm bảo vệ chúng ta, gia đình và xã hội của chúng ta, đồng thời đảm bảo một hiện tại an toàn và hạnh phúc cũng như một tương lai an toàn và hạnh phúc. Giới luật là biểu hiện cụ thể nhất của sự thực tập chánh niệm” (tr. 2).

Giới luật hay Sila (trong tiếng Sanskrit và Pali – ngôn ngữ cổ của Ấn Độ) là “quy tắc ứng xử bao gồm cam kết hòa hợp và tự kiềm chế với động cơ chính là bất bạo động hoặc tự do không gây tổn hại” (Bodhi, 2005). Nó có thể được mô tả theo nhiều cách khác nhau như đức hạnh (Gethin, 1998, trang 170; Harvey, 2007, trang 199), ứng xử đúng đắn (Gethin (1998), trang 170), đạo đức (Gombrich, 2002, trang 89; Nyanatiloka, 1988, và Saddhatissa, 1987, trang 54, 56), giới luật (Bodhi, 2005, trang 153) và giới luật.

Trong cuốn sách của mình, “Vì một tương lai có thể thành hiện thực: Đạo đức của người Phật tử đối với cuộc sống hàng ngày”, ngài khuyến khích chúng ta thực hành những giới luật mà chúng ta đã tuân thủ. Năm giới căn bản nhất của thời xưa (không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối hoặc dùng rượu / chất nghiện) vẫn được áp dụng cho tất cả các Phật tử ngày nay (Bodhi, 2005; Thich, 1993, 2011). Thích Nhất Hạnh (Thích 1993, 2007, 2011) đã dịch những giới luật này một cách khéo léo và từ bi cho thời hiện đại của chúng ta và gọi chúng là “Năm sự rèn luyện chánh niệm”. Theo Thiền sư, chúng “đại diện cho tầm nhìn của Phật giáo về một tâm linh và đạo đức toàn cầu. Chúng là sự thể hiện cụ thể những lời dạy của Đức Phật về Tứ diệu đế và Bát chánh đạo, con đường của sự hiểu biết đúng đắn và tình yêu thương chân chính, dẫn đến chữa lành, chuyển hóa và mang lại hạnh phúc cho bản thân và cho thế giới”.

Ngoài ra, Thích Nhất Hạnh (Thích 1993, 2007, 2011) chỉ ra rằng “thực hành Năm phép tu tập Chánh niệm là để trau dồi cái nhìn sâu sắc về hiện-tại-đang-diễn-ra, hay Chánh kiến, có thể xóa bỏ mọi phân biệt, cố chấp, giận dữ, sợ hãi và tuyệt vọng.” Năm giới cổ xưa đã được điều chỉnh cho phù hợp với thời hiện đại của chúng ta dưới nhãn quan của Thích Nhất Hạnh với tên gọi Năm khóa rèn luyện chánh niệm. Chúng như sau:

Phương pháp huấn luyện chánh niệm thứ nhất – Đây là Giới Thứ Nhất: Bảo Vệ Sự Sống

Ý thức được những khổ đau do sự giết hại gây ra, con nguyện thực tập nuôi dưỡng tuệ giác Tương tức và lòng Từ bi, để có thể bảo vệ sự sống của mọi người, mọi loài và môi trường sống. Con nguyện không giết hại, không để kẻ khác giết hại và không tán thành bất cứ một hành động giết hại nào trên thế giới, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hằng ngày của con. Thấy được rằng tất cả những bạo động do sợ hãi, hận thù, tham vọng và cuồng tín gây ra đều bắt nguồn từ cách tư duy lưỡng nguyên và kỳ thị; con nguyện học hỏi thái độ cởi mở, không kỳ thị, không cố chấp vào bất cứ một quan điểm, một chủ thuyết hay một ý thức hệ nào để có thể chuyển hóa hạt giống cuồng tín, giáo điều và thiếu bao dung trong con và trên thế giới.

Phương pháp huấn luyện chánh niệm thứ hai – Đây là Giới Thứ Hai: Hạnh Phúc Chân Thật

Ý thức được những khổ đau do lừa gạt, trộm cướp, áp bức và bất công xã hội gây ra, con nguyện thực tập chia sẻ thời giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ thiếu thốn, trên cả ba phương diện: tư duy, nói năng, và hành động trong đời sống hằng ngày. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện thực tập nhìn sâu để thấy được hạnh phúc và khổ đau của người kia có liên hệ mật thiết đến hạnh phúc và khổ đau của chính con. Con biết hạnh phúc chân thực không thể nào có được nếu không có hiểu biết và thương yêu, trong khi đó đi tìm hạnh phúc bằng cách chạy theo quyền lực, danh vọng, giàu sang và sắc dục có thể đem lại nhiều hệ lụy và tuyệt vọng. Con ý thức được hạnh phúc chân thực phát sinh từ cách nhìn của con mà không phải từ bên ngoài đem tới. Thực tập tri túc giúp con sống hạnh phúc được ngay trong giây phút hiện tại để nhận diện những điều kiện hạnh phúc mà con đang có. Con nguyện thực tập Chánh mạng để có thể làm giảm thiểu khổ đau của mọi người, mọi loài, bảo hộ được trái đất và chấm dứt những nguyên nhân gây biến đổi khí hậu bất thường.

Phương pháp luyện chánh niệm thứ ba – Đây là Giới Thứ Ba: Tình Thương Đích Thực

Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con nguyện thực tập theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo hộ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người, mọi gia đình và xã hội. Con biết tình dục và tình yêu là hai cái khác nhau. Những liên hệ tình dục do sự thèm khát gây nên luôn mang tới những hệ lụy và đổ vỡ cho con và cho người khác. Con nguyện không ăn nằm với bất cứ ai nếu không có tình yêu đích thực và những cam kết chính thức lâu dài. Con sẽ làm mọi cách để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa. Con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong con, để thấy được sự thật thân tâm nhất như và nguyện nuôi lớn các đức Từ, Bi, Hỉ và Xả, tức là những yếu tố căn bản của một tình yêu thương đích thực, làm tăng trưởng hạnh phúc của con và của người khác. Con biết thực tập Tứ vô lượng tâm, con sẽ được tiếp tục đẹp đẽ và hạnh phúc trong tương lai.

Phương pháp huấn luyện chánh niệm thứ tư – Đây là Giới Thứ Tư: Ái Ngữ và Lắng Nghe (Lời nói yêu thương và Lắng nghe sâu sắc)

Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm và thiếu khả năng lắng nghe gây ra, con nguyện học hạnh Ái ngữ và Lắng nghe để có thể hiến tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt nỗi khổ đau của người. Con nguyện tìm cách đem lại an bình và hòa giải giữa mọi người, giữa các quốc gia, chủng tộc và tôn giáo. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hay khổ đau cho người, con nguyện học nói những lời có khả năng gây thêm niềm tự tin, an vui và hi vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không nói gì khi cơn giận đang có mặt trong con. Con nguyện tập thở và đi trong chánh niệm để nhìn sâu vào gốc rễ của cơn giận ấy, để nhận diện những tri giác sai lầm trong con và tìm cách hiểu được những khổ đau trong con và trong người mà con đang giận. Con nguyện học nói sự thật và lắng nghe sâu để có thể giúp người kia thay đổi và vượt thoát những khó khăn đang gặp phải. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và trong đoàn thể. Con nguyện thực tập Chánh tinh tấn để nuôi dưỡng khả năng hiểu biết, thương yêu, hạnh phúc và không kỳ thị nơi con, để làm yếu dần những hạt giống bạo động, hận thù và sợ hãi mà con đang có trong chiều sâu tâm thức.

Phương pháp huấn luyện chánh niệm thứ năm – Đây là Giới Thứ Năm: Nuôi Dưỡng và Trị Liệu (Chế độ ăn uống cho một xã hội tri thức)

Ý thức được những khổ đau do sự tiêu thụ thiếu chánh niệm gây nên, con nguyện học hỏi cách chuyển hóa thân tâm, nuôi dưỡng sức khỏe cơ thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực để tránh tiêu thụ những thực phẩm độc hại. Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ bất cứ một sản phẩm nào có độc tố, trong đó có mạng lưới toàn cầu, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, sách báo, bài bạc và chuyện trò. Con nguyện thực tập thường xuyên trở về với giây phút hiện tại để tiếp xúc với những gì tươi mát, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu trong con và xung quanh con mà không để cho tiếc nuối và ưu sầu kéo con trở về quá khứ; không để lo lắng và sợ hãi kéo con đi về tương lai. Con nguyện không tiêu thụ chỉ để khỏa lấp khổ đau, cô đơn và lo lắng trong con. Con nguyện nhìn sâu vào tự tính tương quan tương duyên của vạn vật để học tiêu thụ như thế nào mà duy trì được an vui trong thân tâm con, trong xã hội, và trong môi trường sống.

Một hạt giống khác của sự lãnh đạo chánh niệm là thân giáo, dẫn dắt bằng gương sáng của mình. Hoà thượng Thích Minh Đạt (2011) tin rằng lãnh đạo ảnh hưởng bởi: 1) Truyền đạt thông qua hành động hoặc cách cư xử của bạn. Người ta phải sống một cuộc sống tâm linh và có đạo đức. Mang lại lợi ích cho bản thân và mang lại lợi ích cho người khác, từ đó tạo ảnh hưởng và đóng góp tích cực cho cộng đồng và xã hội của chúng ta. 2) Giảng dạy bằng lời nói yêu thương: tìm kiếm sự hiểu biết và trí tuệ. 3) Giảng dạy bằng cách thực hành Bát Chánh Đạo: Đầu tiên là Chánh niệm: tư duy của bạn phải mang tính xây dựng và luôn dựa trên những lời dạy của Đức Phật – Từ bi và Trí tuệ.

Để nhấn mạnh điểm này, người ta nên sống phù hợp với lời dạy của Bậc giác ngộ, Đức Phật. Tác giả đưa điều đó vào thực tiễn cuộc sống hàng ngày của mình. Ngài đang áp dụng và triển khai bằng cách giảng dạy nhiều khóa hội thảo cho giáo viên ở bang California. Một số hội thảo được đề cập là Lãnh đạo có Tư duy: Hội thảo Phát triển Chuyên môn dựa trên Chánh niệm dành cho Tất cả các Nhà giáo dục; Khoa học thần kinh của Chánh niệm: Nghệ thuật để trau dồi sự hiểu biết, sự tôn trọng, thành công trong học tập và sức khỏe xã hội-tình cảm; Chánh niệm trong lớp học; Sự quan tâm; Lãnh đạo có Tâm: Thực hành Chánh niệm cho một Lớp học Bình đẳng, An toàn về Tình cảm; Lãnh đạo có Tâm: “Chuẩn bị sẵn sàng” và “Làm tốt mỗi ngày” theo tinh thần của người Mỹ gốc Việt; và Kỹ năng cảm xúc xã hội cho cuộc sống.

Do đó, nếu chúng ta biết rằng hòa bình tăng lên từ bên trong các buổi thực hành chánh niệm hàng ngày của mỗi cá nhân, chúng ta không còn băn khoăn tự hỏi làm thế nào hệ thống mà con người tạo ra có thể trở thành máy phát ra những bối cảnh hòa bình lớn hơn. Điều gì tạo nên một “hệ thống” mà chúng tôi định nghĩa rất rộng – bất kỳ thiết kế nào do con người tạo ra để đáp ứng nhiều mục đích, có thể là tinh thần, chính trị, từ thiện, tài chính, v.v. Vậy làm thế nào để “hòa bình có thể là một hiện tượng năng động và hữu cơ, một hiện tượng liên tục chảy từ quá khứ đến hiện tại đến tương lai – trong các hệ thống?”

Trước tiên, chúng ta phải nhìn thấy các hệ thống trong tổng thể và biết rằng chúng là hữu cơ và đang sống. Mặc dù có nhiều phép ẩn dụ để nhìn từ những góc nhìn rộng, nhưng “góc nhìn ban công” giúp chúng ta học cách nhìn và biết hệ thống về tất cả sự phức tạp, động lực tăng trưởng và dường như trì trệ của hệ thống. Tuy nhiên, để trở thành một “nhà tư tưởng hệ thống”, chúng ta phải tạm dừng các phán đoán của mình về hệ thống, đặc biệt nhất là về những người trong đó. Chúng ta không thể nhìn thấy và tham gia vào một hệ thống hữu cơ, sống động nếu chúng ta bị những “điểm mù” hạn chế, chỉ nhìn vào những gì đã có trong hệ thống và nhìn vào những yếu tố của con người trong đó. Điều này dẫn đến “những thất bại tập thể” được mô tả rất rõ trong các tác phẩm của Scharmer. Nhìn từ ban công, nhìn mà không phán xét cung cấp cho chúng ta tầm nhìn từ ban công và mở ra khả năng đi lên phía bên phải của Thuyết U để đồng sáng tạo và đồng phát triển với những người khác trong “hệ thống hòa bình”.

Nếu có sự tuần hoàn ở đây, thì đó là điều này: Để nhìn từ ban công, ngưng các phán đoán của chúng ta, để đồng sáng tạo và đồng tiến hóa với người khác, chúng ta phải duy trì thực hành chánh niệm của mình. Làm như vậy chính là “hạt giống của việc làm gương” (Thích Nhất Hạnh). Đối với những nhà lãnh đạo sẽ cùng phát triển với những người khác trong một hệ thống để đạt được hòa bình bền vững, Tiến sĩ Phẻ Bạch đã nhắc nhở chúng ta rằng “Nhà lãnh đạo có tâm là người dẫn dắt từ trong ra ngoài bằng sự hiểu biết, từ bi và trí tuệ”. Các hệ thống có thể được chuyển đổi vì hòa bình bền vững bởi con người trong các hệ thống. Và do đó, con người trong hệ thống cũng có “ac lạc trong từng bước chân” – mượn cụm từ của Thích Nhất Hạnh. Bằng cách đó, chúng tôi hiểu rằng “một hệ thống sống sẽ tự tái tạo và mở ra khả năng hòa bình trở thành trung tâm của các mối quan hệ, quy trình và bối cảnh của hệ thống”.

Là những nhà lãnh đạo giàu lòng nhân ái với tầm nhìn bao quát một hệ thống, chúng ta có thể cùng phát triển với những người khác để tạo ra những hệ thống thể hiện hòa bình bền vững. Điều đó chúng ta có thể làm bằng cách chuyển qua “Thuyết U” để tạo ra các nguyên mẫu của các hệ thống mới nổi dựa trên nền tảng hòa bình và lòng trắc ẩn. Tạo ra các nguyên mẫu cho hòa bình và đánh giá chúng, như sẽ được thực hiện thông qua Thuyết U, không phải là một quá trình kết thúc. Chế độ xem và thực hành ban công của chúng ta sẽ luôn liên tục, xoay tròn và xuôi theo dòng như được tạo ra trong Thuyết O (vòng tròn viên dung).

Ôm chặt dòng chảy liên tục

“Sống 24 giờ với chánh niệm đáng giá hơn sống 100 năm mà không có nó.” – Đức Phật

 Thuyết “O” là sự tiếp nối của dòng chảy BuddhaDharma này. Chữ O không có đầu hay cuối. Nó biểu tượng cho sự trọn vẹn hay toàn vẹn và cuối cùng là sự trống rỗng. Như Watson (2014) đã nói, “một triết lý về tính không giúp chúng ta thừa nhận sự vô thường, sự ngẫu nhiên và cảm giác bi thảm của cuộc sống và phát triển thịnh vượng trên con đường trung gian giữa sự phủ nhận và sự xao lãng vô tâm và sự mất giá trị hư vô”. Một nét đẹp của thuyết chữ O là trung tâm của nền tảng của bất kỳ nguyên tắc Tam hợp nào trong Phật giáo như Phật, Pháp, Tăng; (Phật Pháp Tăng); Tam muội đào tạo / Tam Vô Lậu Học (Giới Định Tuệ): Đức hạnh cao thượng (adhisīla-sikkhā), Tâm hồn cao thượng (adhicitta-sikkhā), Trí tuệ cao thượng (adhipaññā-sikkhā); Bi-Trí-Dũng (Từ bi – Trí tuệ – Dũng cảm). Thuyết “O” có các giá trị cốt lõi là chánh niệm, tình yêu, sự hiểu biết, kiên trì, siêng năng, quyết tâm, hòa hợp, tin cậy, đáng tin cậy, vui vẻ, biết ơn, chính trực, trung thực và trách nhiệm.

 Theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy, việc theo đuổi Tam vô lậu học, như Thanissaro Sutra (trans.) (1998b) dịch từ văn bản Phật giáo có thể dẫn đến việc từ bỏ dục vọng, hận thù và si mê. Cuối cùng, bất cứ ai hoàn thành đầy đủ trong việc tu học này sẽ đạt được Nibbana (Niết bàn).

 Thuyết “O” có 8 thành phần, giống như Bát Chánh Đạo; những thành phần này là: nhận thức, chấp nhận, ôm ấp, học hỏi, thực hành, chuyển đổi, chia sẻ, tái tưởng tượng.

  1. Nhận thức: Đầu tiên và trên hết, chúng ta phải nhận thức rõ ràng hoặc nhận ra mọi thứ như nó đang ở trong hiện tại. Chúng ta cần thừa nhận rằng hòa bình bên trong tạo ra vẻ đẹp bên ngoài, và hòa bình bên trong là nền tảng cho một xã hội hài hòa hơn. Người ta phải nhìn nhận như vậy. Ví dụ, loài người sẽ không thể giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và / hoặc hiện tượng hâm nóng toàn cầu nếu chúng ta phủ nhận điều đó. Chúng ta phải nhìn nhận rằng các hoạt động của con người là yếu tố chính dẫn đến cuộc khủng hoảng này. Chúng ta phải nhìn nhận và kiểm tra ở cả tầm vi mô và vĩ mô.

 Như thể một nhà hóa học nhận ra rằng mọi thứ đều được cấu tạo từ các tiểu phân nhỏ hơn và thậm chí là các hạt cơ bản và các thành phần cơ bản này tương tác và hoạt động như thế nào với nhau. Nhìn vào đại dương ngay từ cái nhìn đầu tiên, chúng ta có thể thấy nước, không gian, đường bờ biển và sự bao la của nó. Nhưng đó chỉ là cái nhìn vĩ mô của mọi vấn đề, ở cái nhìn vi mô, nó là tất cả sự liên kết hay có liên hệ với nhau, lực liên phân tử và lực hút giữa các phân tử. Chúng ta phải có một phương pháp tiếp cận khoa học để giải quyết bất kỳ vấn đề nào và ngay cả khi vấn đề đó bắt đầu với sự thừa nhận rằng chúng ta có vấn đề, và cần phải giải quyết nó. Chúng ta nhận ra rằng chúng ta có vấn đề, có trở ngại và chúng ta cần phải nêu rõ vấn đề đó để chúng ta có thể làm cho mọi thứ tốt hơn cho chúng ta.

  1. Chấp nhận: Sau thời gian nhận ra, người ta phải chấp nhận thực tế để có thể tiến tới. Chấp nhận là nghệ thuật của sự thoải mái. Ví dụ, nếu chúng ta không chấp nhận thực tế là không có hiện tượng nóng lên toàn cầu, thì chúng ta sẽ không thể tìm kiếm giải pháp.
  2. Ôm ấp – Đón nhận: Như Từ điển Merriam-Webster đặt nó, “embrace” là ‘ôm (ai đó) thật chặt trong vòng tay của mình, đặc biệt như một dấu hiệu của tình cảmchấp nhận (một niềm tin, thuyết, hoặc sự thay đổi) một cách sẵn sàng và nhiệt tình; kể cả hoặc chứa (một cái gì đó) như một bộ phận cấu thành.’ Dù là gì đi nữa, người ta phải sẵn lòng ôm ấp người khác như thể họ là một đứa trẻ đang khóc, trước hết người ta phải bế nó lên và vỗ về.
Tái tưởng tượng; Nhận thức; Chia sẻ; Chấp nhận; Chuyển hoá; Ôm ấp-Đón nhận; Thực hành; Học hỏi.
Thuyết O – Biến đổi bản thân, biến đổi tổ chức và xã hội
  1. Học hỏi: Như Từ điển Merriam-Webster định nghĩa, đó là “việc thu nhận kiến ​​thức hoặc kỹ năng thông qua học tập, trải nghiệm hoặc được giảng dạy.”

Trong thời kỳ thay đổi nhanh chóng và không chắc chắn, các nhà lãnh đạo phải đối mặt với những thứ phức tạp, những thứ sẽ và đang thách thức hòa bình. Chỉ nhìn thấy và phản ứng với các phần cụ thể của hệ thống dẫn đến các phản ứng phân mảnh để giải quyết các vấn đề tức thì. Bằng cách nhìn nhận và gắn bó với hệ thống như một tổng thể hữu cơ, người lãnh đạo có thể cùng tạo ra hòa bình bền vững. Việc hiểu rằng một hệ thống sống luôn tự tái tạo sẽ mở ra khả năng hòa bình và trở thành trung tâm trong các mối quan hệ, quá trình và bối cảnh của hệ thống.

  1. Thực hành: Như Từ điển Merriam-Webster đã định nghĩa rằng ‘quyết tâm theo đuổi hoặc dấn thân vào một nghề cụ thể, một công việc hay một lối sống’

Hòa bình bền vững neo giữ chính nó trong chánh niệm về hiện tại, con người và các mô hình thu nhỏ mà chúng ta sống. Thay vì tồn tại như một trạng thái tĩnh, hòa bình là hữu cơ và năng động, tự nó chảy quanh những mơ hồ của “sự thiếu vắng hòa bình”. Vì vậy, trở thành một nhà lãnh đạo có chánh niệm bắt đầu bằng việc thực hành Bát Chánh Đạo và tìm kiếm sự bình an trong bản thân và tiếp tục điều đó bằng cách thể hiện sự bình an mỗi ngày. Đây là mầm sống cho các hệ thống và hoàn cảnh có thể duy trì hòa bình lâu dài.

  1. Chuyển hoá: Như Từ điển Merriam-Webster đã định nghĩa, ‘thực hiện một sự chuyển đổi rõ rệt về hình thức, bản chất hoặc diện mạo của’, sau các giai đoạn học tập và thực hành, người ta phải chuyển đổi thành tốt hơn, từ tiêu cực thành tích cực. Chuyển hóa là nghệ thuật của sự tiến bộ. Không có nó, đơn giản là không có sự phát triển và thăng tiến.
  2. Chia sẻ: Bước tiếp theo sau khi chuyển hóa là nghệ thuật chia sẻ để đảm bảo rằng người khác thậm chí còn tốt hơn chính mình, như trong Quy tắc vàng. Khái niệm Paying It Forward của người Mỹ (câu tục ngữ, giống như nói “giúp ai đó rồi sẽ có người khác giúp lại mình”) là vô giá và khiến thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn để sống.
  3. Tái tưởng tượng: Cuối cùng, khái niệm về sự trọn vẹn hay toàn vẹn là rất cần thiết trong cuộc sống con người của chúng ta. Chúng ta chỉ là những du khách đến hành tinh này; chúng ta sẽ đến và đi giống như những người khác, những gì chúng ta để lại là di sản của riêng chúng ta. Vì vậy, chúng ta phải làm tất cả những gì có thể khi chúng ta còn ở đây trên Trái đất để làm cho thế giới này trở nên hài hòa, hòa bình và tử tế hơn để con cháu chúng ta có thể sống và phát triển vượt bậc. Như vậy là toàn bộ vòng tròn đã hoàn chỉnh. Nhưng chúng ta cần tái tưởng tượng để tiếp tục công cuộc giáo hoá vì mọi sự không có bắt đầu và kết thúc trong thời gian và không gian vô cùng.

Thuyết chữ O này là một phương cách tỉ mỉ để nhắc nhở mọi người rằng chúng ta cần phải sống trong thời điểm hiện tại, không lo lắng về tương lai vì nó chưa đến và cũng như không để mắc kẹt trong quá khứ. Với chánh niệm và thiền định, sử dụng hơi thở làm mỏ neo, giúp chúng ta tập trung vào khoảnh khắc hiện tại và cho phép chúng ta hiện diện hoặc ‘định trước’ như trong thuyết chữ U. Cần phải thực hành để rèn luyện tâm trí của chúng ta để có được sự hiện diện trong hiện tại. Các phương pháp thực hành làm cho tâm trí ta tốt hơn theo thời gian, giống như các tế bào thần kinh có thể được quấn lại và ‘các tế bào thần kinh dẫn truyền với nhau sẽ kết nối với nhau’; nói cách khác, ‘những gì bạn thực hành sẽ phát triển mạnh mẽ hơn’, bao gồm chánh niệm, hòa bình và các giá trị nội tâm. Như trong bài viết của Thượng toạ Giáo sư Tiến sĩ Phramaha Hansa Dhammahaso, Giám đốc Văn phòng Hiệp hội Quốc tế các trường Đại học Phật giáo đã công nhận rằng hòa bình mang lại lòng nhân ái, hạnh phúc, đoàn kết và hòa hợp cho con người và xã hội.

Ngoài ra, tác giả chính của bài này đã viết một bài báo ngắn có tiêu đề: CHANGE: FEAR ME NOT – EMBRACE ME (Đừng sợ tôi- Hãy ôm tôi). Năm suy nghĩ về việc thúc đẩy sự thay đổi, đó là một ví dụ về dòng chảy liên tục này. (Phụ lục C), như thể không có bắt đầu và không có kết thúc.

Phần kết luận

Kết luận dự kiến ​​sẽ được rút ra từ bài báo này là để hiểu kinh nghiệm sống, niềm tin, thực hành và phong cách lãnh đạo và thực hành hàng ngày của chúng ta. Hòa bình, chánh niệm và chuyển hóa đang xảy ra bởi vì sự lựa chọn không phải do ngẫu nhiên. Khi suy ngẫm về Thuyết U, chúng ta học cách “buông bỏ” để “đón nhận” và chúng ta học cách “hiện hữu” – trạng thái vừa hiện hữu trong hiện tại vừa cảm nhận được những gì có thể xảy ra trong tương lai. Bằng cách đó, chúng ta tham gia vào Thuyết O – một vòng tròn hoàn chỉnh.

Thuyết O cũng cho thấy một quan niệm mạnh mẽ nhưng đơn giản: Làm một người tĩnh tốt hơn là một người động. Điều chính yếu trong phong cách lãnh đạo của các nhà sư Phật giáo Việt Nam là sự thực hành hàng ngày của họ đã làm thay đổi cuộc sống của những người trong cộng đồng của họ. Đó là ý tưởng sống từ trong ra ngoài; nó là ý tưởng của hòa bình. Các phát hiện cho thấy phong cách lãnh đạo này dựa trên sự khôn ngoan, hiểu biết, thực hành, bình tâm, hài hòa và từ bi. Tất cả những yếu tố này gắn liền với một sự hiện hữu có hòa bình.

Vì vậy, chúng ta có thể sống, “Ba con đường đan xen dẫn đến hòa bình bền vững”. Chúng ta có thể học và duy trì hòa bình dựa trên thực hành chánh niệm. Tư duy hệ thống có thể là một con đường để duy trì hòa bình. Chúng ta có thể sống và nắm lấy dòng chảy liên tục của Thuyết O (vòng tròn viên dung). Duy trì hòa bình thông qua ba con đường này có thể là điều tốt nhất cho nhân loại chúng ta.

___________

Lời cảm ơn: Xin gửi lời cảm ơn trân trọng đặc biệt đến hai vị hôn thê của chúng tôi, Nguyễn Thị Thanh Trang và Chris Bureau. Cảm ơn bạn Keith Carmona, giáo viên tiếng Anh chương trình International Baccalaureate của Trường Trung học Mira Loma, đã đọc bài nghiên cứu này.


Appendix A: Mindful Leadership.

Leading From Compassion

Flowing in Dr. Phe Xuan Bach’s prose and poetry are notions of intentional mindfulness within ourselves and with others. Such is the core of leadership that is being always present in this moment that we share with others. Mindful leadership is existential in nature, both timely and timeless.

A practicing Buddhist, Dr. Bach weaves the Dharma into both a concept and practice of leadership that transcends the common definitions of it in the West. In mindful leadership, we lead from the inside out, practicing the five “arts of living” as described in “The Art of Living According to Spirited Leaders.” Becoming a mindful leader is nurtured through daily meditation, a practice that grounds us with equanimity.

Of the Western interpretations of leadership, Dr. Bach’s intersects with servant leadership but deepens how we might understand and practice it through mindfulness, forgiveness, and peace. Such is reflected in his poem, “Leading By Example Leadership.” As leaders we embody what we would teach others, such as the practices of mindfulness that Dr. Bach teaches to Buddhist youth. We become examples of mindful leaders, as discussed in his article “Leading By Example – A Buddhist Approach in Leadership and Ethics.”

Looking outward, we lead with compassion, avoiding the mistakes of leading without it, so aptly described in Dr. Bach’s paper, “Learning from the Mistakes of Others – Leading Without Compassion.” We lead with the realizations that humans are beautifully complex and that what we do together are social endeavors. Our moments together seek harmony that springs from the wells of empathy and of suspending judgment about each other.

Leading ourselves and others through change, metaphorically, is the water in the river flowing around the rocks, always moving, always flowing. We learn to embrace change and let go of what we cannot control, a notion reflected in “Change: Fear Me Not – Embrace Me.” As mindful leaders our daily practice helps us find a constancy in the milieu of change and a peace in helping others navigate what would seem to be troubling waters.

A phenomenologist, Dr. Bach’s research focuses on the spiritual leadership roles of Vietnamese Buddhist monks in America. Emerging from their voices and his interpretations are the constructs and practices of mindful leadership, the threads of which appear in his writings here. Most recently, Dr. Bach presented his research at the United Nations Day of Vesak, 2015, in Bangkok, Thailand.

The universality of Dr. Bach’s conceptualization of compassionate, mindful, and peace-based leadership transcends time, nations, and contexts; it may move us toward completeness within ourselves and without with others. May the poems and prose within this collection give us pause for reflection and transformation.

W. Edward Bureau, PhD
Philadelphia, Pennsylvania
July 2015

 Appendix B:  Workshops and Presentations

Workshops and Presentations since July 2018

  1. March 23, 2019 California Teachers Association Good Teaching Conference South, San Garden Grove, CA
  2. March 16, 2019 – National Teachers Association, Leadership Summit Conference, Denver, CO.
  3. March 01, 2019 – CTA Equity and Human Rights Conference, San Jose, CA
  4. Feb 02, 2019 – California Teachers Association Good Teaching Conference North, San Jose, CA
  5. January 07, 2019 – SJUSD Professional Development for Elementary Educators at Fair Oaks Presbyterian Church, Carmichael, CA.
  6. November 13, 2018 – University of Girona, International Conference, Girona, Spain.
  7. November 09, 18 – SJUSD Professional Development for High School Educators at El Camino High School
  8. October 18, 2018. Presented at Plaza Vista School, Irvine, CA. https://www.sbtn.tv/tag/bach-xuan-phe/
  9. October 13, 2018. Presented at Cordelia Instructional Leadership Conference 2018, Vacaville, CA
  10. August 7, 2018. Presented at the CampEd 3 for Colton Joint Unified School District at Grand Terrace High School, Grand Terrace, CA. (2 sessions and more than 100 people showed up). A Vietnamese newspaper, wrote about this too. https://www.sbtn.tv/tien-si-bach-xuan-phe-gioi-thieu-loi-ich-thuc-tap-tinh-thuc-tai-hoc-khu-colton-joint/
  11. July 27, 2018 – Facilitator for CA Better Together Teacher Summit, Sacramento State University, Sacramento, CA.

San Juan Quarterly Workshops:

  1. Course Title: SJTA Offerings – MINDFUL LEADERSHIP:  A MINDFULNESS-BASED WORKSHOP FOR EDUCATORS

Course Code:    47 SRN:  1940247901

Session Dates: 09/18/18 @ 04:00 PM; 10/02/18;

01/22/2019 and 01/29/2019 @ 04:00 PM

Location: SJTA – 5820 Landis Avenue; Suite 1. Carmichael, CA  95608

Registrant Notes:

Must attend all (2) sessions to receive 6 credits.  No partial credit will be given.

  1. Course Title: SJTA Offerings. ADVANCED MINDFUL LEADERSHIP:

A MINDFULNESS-BASED WORKSHOP FOR EDUCATORS

Course Code:    47 SRN:   1940247905

Session Dates: 10/24/18 @ 04:00 PM; 11/07/18 @ 04:00 PM

03/06/2019 and 03/13/2019 @ 04:00 PM

Location: SJTA – 5820 Landis Avenue; Suite 1. Carmichael, CA  95608

Registrant Notes:

This workshop continues mindfulness training in greater depth. Practice of the research and practices of the mindfulness-based approach for use in the classroom will continue. Mindfulness helps teachers and students manage their emotional and mental stress, create well-being and refresh their energy. Its aim is to transform individuals and the classroom climate, while building and nurturing positive interpersonal relationships.

Must attend all (2) sessions to receive 6 credits.  No partial credit will be given.

 Appendix C: A Sample of Embracing Continual Flow

CHANGE: FEAR ME NOT – EMBRACE ME

Five thoughts on fostering change

“The universe is the echo of our thoughts and our actions.” The Dalai Lama

Most people are resistant to change. This is true for any society and for people from all walks of life.  Change requires more work, commitment and energy; and we often prefer the path of least resistance.  We enjoy being in our comfort zones, and tend to fear change, because it brings uncertainty and leads us into the unknown. Perhaps the greatest fear of all is the fear of the unknown.  Fear is natural, but if we recognize and embrace it, we can transform it into something positive and productive.

Like hatred and prejudice, fear is a very strong emotion, thus it can produce an enormous amount of energy.  That energy can be very destructive. We need to pause, reflect and recognize it.  In doing so, we will see that the cause of fear is the unknown. The people who fear change the most often feel insecure, unprepared and inadequate to conquer new endeavors. Sometimes, change makes them feel like victims and out of control. But in reality, we are in full control.

While we can’t control anyone else’s thoughts, speech, actions or emotions, we can control our own. Controlling our own thoughts, speech, actions and emotions is the first step when facing change. Once we recognize and face change with mindfulness, we can embrace and transform it. Here are the five thoughts that can foster change.

  1. Lay a foundation of compassion/love with a moral purpose
  2. Control your own emotions and well-being
  3. Be sincere with regard to your intention and mission
  4. Have confidence in your own abilities and flexibility
  5. Harvest the labor of love and be proud of the work you do

Nurturing change is the process of planting the seeds of compassion for the greater good. To put it succinctly, change is like a wild plant, it is easier to grow or react negatively. But it takes a lot of time and love to mold something unpleasant into something beautiful like a bonsai.  Changes present a great opportunity for fulfillment.  When we challenge ourselves, the end-result can potentially be extremely satisfying and beneficial for all.  So, why be fearful? Life is a constant process of change—it is impermanence.  Embrace and enjoy the beauty of it.

References

1.  Bach, P. (2015). An Essence Of Mindful Leadership: Learning Through Mindfulness And Compassion. LAP LAMBERT Academic Publishing, Germany.

  1. Bach, P. X. (2014). Mindful Leadership – A Phenomenological Study of Vietnamese Buddhist Monks in America with Respect to their Spiritual Leadership Roles and Contributions to Society. (Doctoral dissertation, Drexel University).
  2. Bass, B. M., & Steidlmeier, P. (1998). Ethics, character, and authentic transformational leadership. Retrieved from http://cls.binghamton.edu/bassSteid.html
  3. Bhikkhu, T. (1997). The healing power of the precepts. Retrieved from http://www.accesstoinsight.org/lib/authors/thanissaro/precepts.html
  4. Black, D. S., & Fernando, R. (2014). Mindfulness training and classroom behavior among lower-income and ethnic minority elementary school children. Journal of Child and Family Studies23(7), 1242-1246.
  5. Bhikkhu, Thanissaro (trans.) (1998b). AN 3.89: Sikkha Sutta – Trainings (2). Available on-line at http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/an/an03/an03.089.than.html.
  6. Bodhi, B. (2005). In the Buddha’s words – An anthology of discourses from the Pali Canon, – Wisdom Publications.
  7. Boorom, R. (2009). Spiritual leadership: A study of the relationship between spiritual leadership theory and transformational leadership. (Doctoral dissertation). Available from Proquest Dissertations and Theses database. (UMI No. 3377759).
  8. Carroll, M. (2008). The Mindful Leader: Awakening Your Natural Management Skills Through Mindfulness Meditation, Trumpeter.
  9. Dalai Lama. (1999). Ethics for the new millennium. New York: Riverhead Books.
  10. Dalai Lama. (2011). Beyond religion-Ethics for a whole world. Boston: Houghton Mifflin Harcourt.
  11. Dhammahaso, H. (2015). Buddhism and World Crisis. The 12th International Buddhist Conference on the United Nations Day of Vesak 2015. 28-30 May, 2015. Bangkok, Thailand.
  12. Deer Park Monastery. (2014). Thich Nhat Hanh: Biography of our teacher Thich Nhat Hanh. Retrieved from http://deerparkmonastery.org/about-us/thich-nhat-hanh
  13. DeVost, R. (2010). Correlation between the leadership practices of lead ministers and the workplace spirituality of their churches as reported by church members. Available from Proquest Dissertations and Theses database. (UMI NO. 3454721)
  14. Fox, M. (2014). Understanding Peace. New York: Routledge.
  15. Kabat-Zinn, J. (1999). Full catastrophe living: Using the wisdom of your body and mind to face stress, pain and illness. New York: Bantam Doubleday Dell Publishing Group, Inc.
  16. Kabat-Zinn, J. (2003). Mindfulness-based interventions in context: Past, present and future. Clinical Psychology: Science and Practice10(2), 144-156.
  17. Kouzes, J. M., & Posner, B. Z. (1995). The leadership change: How to keep getting extraordinary things done in organization. San Francisco: Jossey-Bass.
  18. Marques, J. (2010). Spirituality, meaning, interbeing, leadership, and empathy: SMILE. Interbeing, 4(2), 7.
  19. Northouse, P. (2004). Leadership theory and practice (3rd). Thousand Oaks, CA: Sage Publication
  20. Rahula, W. (1974). What the Buddha taught (Revised and Expanded ed.). New York: Grove Press.
  21. Scharmer, O. and Kaufer, K. (2013). Leading from the emerging future: From ego-system to eco-system economies. San Francisco, CA: Berrett-Koehler.
  22. Scharmer, C. O. (2007). Theory U. Cambridge, MA: The Society for Organizational Learning.
  23. Thich, H. N. (1976). The miracle of mindfulness: An introduction to the practice of meditation (Mobi Ho, Translation). Boston, MA: Beacon Press.
  24. Thich, H. N. (2007). For a future to be possible: Buddhists ethics for everyday life. Berkeley, CA: Parallax Press.
  25. Thich, H. N. (2011). Fidelity: How to create loving relationship that last. Berkeley, CA: Parallax Press.
  26. Thich, N. H. (1991). Peace is Every Step. New York, Bantam Books.
  27. Thich, M.-D., (2011, July 11). Leadership Model and Practice: An interview with the Most Venerable Thich-Minh-Dat/ Interviewer: Phe Bach.
  28. Watson, G. (2014). A Philosophy of Emptiness. The Wise Brain Bulletin. Vol. 8,4.
  29. Zhu, W., May, D.R., & Avolio, B.J. (2004). “The impact of ethical leadership behavior on employee outcomes: The roles of psychological empowerment and authenticity.” Journal of Leadership & Organizational Studies, 11 (1), 16.
https://hoangphap.org/phe-x-bach-three-intertwined-paths-to-leading-for-sustainable-peace/

https://hoangphap.org/bach-x-phe-w-edward-bureau-ba-con-duong-dan-xen-dan-den-hoa-binh-ben-vung/

Wednesday, May 25, 2022

Walk With Me Mindfully (V) - Đồng Hành Trong Chánh Niệm (V): Hành Trình đến Hồ Rae

Adventure Program / Chương Trình Dã Ngoại  

Walk With Me Mindfully V

Promoting outdoor activities / hiking / backpacking / meditation for the our youths, GĐPT and family members

Walk With Me Mindfully (V) 
 Đồng Hành Trong Chánh Niệm (V)
Hành Trình đến Hồ  Rae (Rae Lakes Trail)





What: Applying Buddhism and GĐPT principles and activities into the real life. 
Where: Rae Lake Trail 
When: July 8 - July 13, 2022
Why: For the love of outdoor, GĐPT, mindfulness, and Buddhism. This time it is for family bonding.
Coordinators: Htr. Tâm Định và Htr. Tâm Thường Định
Participants: Family members and friends
Space is very full.

Cost: Free of charge, but must have an open heart and mind, smile and kindness along with the ability to walk and breathe.  Contact: @PheBach

The Rae Lakes Loop is one of the most popular hikes in Sequoia and Kings Canyon, if not in the entire Sierra. The loop is 41.4 miles long, and climbs from 5035' (1535m) at the trailhead to 11,978' (3651m) at Glen Pass. High water at stream crossings can be a problem in May and early June. Glen Pass may be impassable to hikers until mid-late July and even later for stock. Because this is such a popular hike, there are certain restrictions along this trail:

  • Camping in Lower Paradise Valley is permitted only in designated campsites. (See temporary closure)
  • Camping in Paradise Valley is limited to two nights.
  • Camping at Rae Lakes is limited to one night per lake.
  • Camping at Charlotte Lake is limited to two nights.
  • Bullfrog Lake, east of the trail between Vidette Meadow and Glen Pass, is closed to all camping, grazing and stock travel.
  • There is a two night camping limit at Kearsarge Lakes (east of Bullfrog).
  • Campfires are prohibited above 10,000' (3048m).
  • Bears have been very active along this trail, and were successful at getting food that was hung in trees. Hikers are required to carry portable bear-resistant canisters.This has proved very successful at preventing bears from accessing food. (The permanent metal food-storage boxes are only for use by thru-hikers on the Pacific Crest Trail and John Muir Trail.)

Distances Along the Rae Lakes Loop

Point

Miles from Road's End via Paradise

Miles from Road's End via Bubbs

Road's End

0

41.4

Paradise/Bubbs Jct.

1.9

39.5

Mist Falls (no camping)

3.9

37.5

Lower Paradise (first campsite )

5.7

35.7

Middle Paradise

6.8

34.6

Upper Paradise

10

31.3

Woods Creek Crossing

15.7

25.7

Dollar Lake

19.7

21.7

Rae Lakes

22.7

18.7

Glen Pass

24.6

16.8

Charlotte Lake Junction

26.7

14.7

Vidette Meadow

28.2

13.2

Junction Meadow

31.1

10.3

Charlotte Creek

33.9

7.5

Sphinx Junction (last campsite )

37.5

4.1

Paradise/Bubbs Jct.

39.4

1.9

Road's End

41.4

0.0

 
Person looking out from the top of Glen Pass
Looking out from Glen Pass - Ali Kim
Sources:
1. https://www.nps.gov/seki/planyourvisit/rae-lakes-loop.htm
2. https://www.alltrails.com/trail/us/california/rae-lakes-trail

Sunday, May 22, 2022

Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Di sản cho con cháu Phật tử của chúng ta ở Hoa Kỳ | The Legacy for Our Children American Buddhism

 

Judith Simmer-Brown là giáo sư Nghiên cứu Tôn giáo tại Viện Naropa. Tiểu luận này được phỏng theo bài phát biểu quan trọng của cô ấy trước Hội nghị Phật giáo tại Hoa Kỳ, San Diego năm 1998. Cập nhật ngày 18 tháng 4 năm 1999.

 

Chủ đề của tôi là Phật giáo trong thế kỷ 21di sản mà chúng ta đang để lại cho con cháu. Mối quan tâm đầu tiên của tôi là mối quan tâm về quản lý cơ ngơi. Chúng ta đã sắp xếp ngôi nhà Phật giáo Hoa Kỳ một cách có tổ chức chưa? Cụ thể, nếu con cái chúng ta muốn tiếp tục các truyền thống thực hành của Phật giáo, chúng ta sẽ làm gì để biến điều này thành có thể? Chúng ta đã tạo ra nền tảng của một nền Phật giáo Hoa Kỳ thực sự có thể duy trì thực hành, xã hội và văn hóa trong thiên niên kỷ mới chưa? Có phải chúng ta, thế hệ baby boomer, đã tạo ra một di sản sẽ nuôi dưỡng trái tim của những hành giả đang noi theo?

Gần 30 năm trước, ở trường cao học, tôi đã được giới thiệu về những thứ khi đó có vẻ phức tạp, nhưng lại phù hợp với tôi bây giờ. Đó là bốn tiêu chí cổ điển được phát triển bởi các nhà Phật học phương Tây, dự đoán khả năng phục hồi của Phật giáo trong một bối cảnh văn hóa mới. Cụ thể, những yếu tố nào cần phải có nếu Phật giáo muốn tồn tại không chỉ một thế hệ? Trong khi các tiêu chí này được phát triển từ việc quan sát Phật giáo di chuyển xuyên châu Á, với những điều chỉnh nhất định, chúng có thể phù hợp để đánh giá về Phật giáo Hoa Kỳ.

Đây là bốn tiêu chí-yếu tố của truyền thống Phật giáo Châu Á cần thiết để đảm bảo sự tiếp tục của Phật giáo trong trong môi trường Hoa Kỳ.

Đầu tiên là, kinh điển, giáo lý, chú giải, thực hành và phụng vụ chính đã được dịch sang tiếng Anh chưa? Và những bản dịch này có thể sử dụng được cho chính các cộng đồng đang sinh hoạt không? Những bản dịch học thuật quá mức sẽ không làm được – và những bản dịch tước bỏ mọi truyền thống sẽ làm loãng đi sự phong phú của di sản châu Á của chúng ta. Quyền truy cập vào các văn bản này là một ưu tiên, và chúng ta phải tiếp tục làm việc với nhiệm vụ to lớn này. Ví dụ, truyền thống Tây Tạng là mong manh nhất: tình hình ở Tây Tạng cho thấy ít cải thiện, và những đạo sư lưu vong vĩ đại của các truyền thống này đang già đi. Chúng ta biết rằng chúng ta không thể dịch những văn bản này mà không có sự giám sát và bình luận của họ. Tôi phải hỏi bạn điều này – cộng đồng của bạn đã hành động cho điều này chưa? Bạn có đang đào tạo và hỗ trợ các dịch giả của mình và các dự án dịch thuật của họ không?

Tiêu chí thứ hai là, những giáo lý cốt yếu đã được truyền đến những người thừa kế và học trò của Pháp chưa? Những người thừa kế này có được dòng dõi châu Á tin tưởng và tôn trọng không, và họ đã nhận được tất cả mọi thứ mà không bị cản trở gì không? Chúng ta phải nhận ra sự xấu xa đáng kinh ngạc về vị trí của chúng ta trong lịch sử. Để nhận được những lời dạy này, đòi hỏi sự thực hành chân thành, chân thành, sự tận tâm nhiệt thành và bền vững, và sự giao tiếp không ngừng. Vị Thầy của tôi, Ven. Chogyam Trungpa Rinpoche, đã qua đời cách đây 11 năm. Tôi và những những truyền nhân của Thầy ấy đã cống hiến hết mình để thực hiện di sản của Thầy, là những chỉ dẫn của Thầy ấy. Chúng ta có hiểu được sự quý giá của đời người, mà thầy cô của chúng ta thì không ở đây muôn đời với chúng ta đâu? Làm cách nào để chúng ta có thể nhận được đầy đủ hơn sự truyền đạt mà họ cho chúng ta?

Tiêu chí thứ ba là, có một cơ sở vững chắc của những người bảo trợ Mỹ đã được thiết lập hay không? Trong lịch sử Phật giáo, điều này được thực hiện nhờ sự bảo trợ của hoàng gia, vì nếu nhà vua ủng hộ đạo pháp thì người dân cũng sẽ như vậy. Rõ ràng là ở nước Mỹ thế kỷ 21 có phần khác biệt, nhưng chúng ta cần hỗ trợ tài chính và thông cảm về văn hóa để đạo pháp phát triển mạnh mẽ. Ở đây, chúng ta đấu tranh với Hollywood, Washington và Thung lũng Silicon; Rockefeller, Ford và Lilly. Sự bảo trợ là một cơ hội quan trọng để truyền đạt điều gì đó cơ bản về giáo pháp và nó là sự thừa nhận về những thực tế bình thường của quyền lực, ảnh hưởng và uy tín. Nếu không có sự bảo trợ của Hoa Kỳ, thì không thể có Phật giáo Hoa Kỳ bền vững. Chúng ta đang làm gì để đảm bảo tương lai của giáo pháp thông qua sự bảo trợ thích hợp?

Và tiêu chuẩn thứ tư là, việc xuất gia đã được thông qua đầy đủ cho các tăng ni Hoa Kỳ chưa? Hạng mục này cũng phản ánh lịch sử Châu Á của Phật giáo, trong đó các tu viện đóng vai trò là nơi bảo tồn và truyền bá truyền thống. Tu viện không tiếp tục, không có nơi nào mà giáo pháp có thể duy trì giá trị ngoài những ý tưởng bất chợt và những mưu đồ của đời sống văn hóa và chính trị. Đối với bối cảnh của Hoa Kỳ, chúng ta phải bảo tồn và nuôi dưỡng các truyền thống tu viện đã nuôi dưỡng Phật giáo theo cách này. Nhưng trong bối cảnh Hoa Kỳ, truyền thống cư sĩ được mệnh danh là đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển tiếp tục của Phật giáo. Có những nơi thực hành vững chắc nào cho cư sĩ, cho các thiền sinh trong nền văn hóa của chúng ta không? Liệu chúng ta có thể bảo tồn truyền thống được thiết lập trong thế hệ “bùng nổ” của chúng ta, về cam kết thực hành mạnh mẽ cho tất cả mọi người, cả xuất gia và cư sĩ không?

Tất cả những tiêu chí này chỉ đơn thuần là gợi ý cho trái tim của sự kết nối giáo pháp của chúng ta. Là những Phật tử Hoa Kỳ thế hệ đầu tiên, chúng ta đã tạo mối liên kết thực hành và chính sự thực hành đã đưa chúng ta đến đây ngày hôm nay. Thực tiễn đã cho chúng ta một lý tưởng mới về cuộc sống; thực hành đã chiến thắng sự vô vọng và chán nản của thế hệ chúng ta; thực hành đã mở ra cho chúng ta nhận thức sự đau khổ của thế gian mà không làm chúng ta ô uế hay khó nhọc. Chúng ta có các nguyên tắc cơ bản về thực hành để có thể tiếp tục không? Chúng ta có các văn bản, sự truyền dạy, sự hỗ trợ tài chính, và các tổ chức, địa điểm sinh hoạt không? Và trên tất cả, chúng ta có thể cam kết tiếp tục tu tập không? Chúng ta có thể cam kết dạy con cái của chúng ta, để chúng cũng có thể thực hành được không?

Chúng ta phải luôn nhớ rằng, việc luyện tập của chúng ta không chỉ dành cho bản thân. Tất nhiên, chúng ta thực hành vì thầy cô của chúng ta, vì lòng biết ơn và sự tận tâm đối với viên ngọc quý mà họ đã trao cho mình. Chúng ta thực hành cho con cái của chúng ta, cho tất cả trẻ em, cho tất cả mọi người trong nhiều thế hệ tiếp theo. Chúng tôi thực hành bởi vì đây là cách chúng ta đang sống đời ý nghĩa nhất. Chúng ta thực hành, đó là cách duy nhất để trở thành con người của chúng ta.

Quan trọng nhất, chúng ta thực hành để chúng ta không chỉ là một Phật tử đơn thuần. Chúng ta không thể củng cố danh vị của mình với tư cách là Phật tử. Chúng ta biết rằng, ẩn mình theo đạo Phật không phải là cách để tôn sư trọng đạo và để nuôi dưỡng con cháu. Nếu ba sự kiềm chế loại bỏ chúng ta khỏi đau khổ của thế gian, chúng ta đã không hiểu chúng. Phật giáo Hoa Kỳ phải phục vụ chúng sinh chứ không phải phục vụ cho chính nó. Như bậc thầy Ấn Độ Santideva ở thế kỷ thứ 7 đã viết, Phật giáo phải trở thành bác sĩ và y tá cho tất cả những người bệnh trên thế giới cho đến khi mọi người được chữa lành; một cơn mưa thức ăn và thức uống là một kho báu vô tận cho những người nghèo và cơ cực.

Tương tác xã hội toàn cầu

Điều này dẫn đến mức độ suy ngẫm tiếp theo về con cái của chúng ta trong thế kỷ 21: tầm quan trọng của việc tương tác xã hội toàn cầu. Các con tôi, Owen và Alicia, sẽ ngày càng gặp nhiều đau khổ; chúng ta chỉ có thể tưởng tượng những sự đau khổ mà con cái chúng ta sẽ gặp phải. Ngay cả bây giờ, chúng ta vẫn thấy những người nghèo không có đủ thức ăn và không được tiếp cận với nước uống sạch và an toàn; chúng ta thấy định kiến về sắc tộc và tôn giáo sẽ dập tắt những người khác biệt; chúng ta thấy những người ốm yếu không có thuốc men hay được chăm sóc; chúng ta thấy sự bóc lột tràn lan của nhiều người vì niềm vui và sự thoải mái của một số ít; chúng ta thấy sự quỷ ám của những người sẽ thách thức sự thống trị bằng sự giàu có, quyền lực và đặc quyền. Và chúng ta biết thế kỷ 21 sẽ mang lại cho các quần thể ngày càng phát triển với một kho tài nguyên đang sụt giảm để nuôi dưỡng chúng.

Thúc đẩy sự đau khổ này là chủ nghĩa tiêu dùng không ngừng tràn ngập xã hội của chúng ta và thế giới. Lòng tham thúc đẩy rất nhiều hệ thống gây hại cho hành tinh của chúng ta. Nhà sinh học gắn bó với xã hội Stephanie Kaza nhắc nhở rằng, ở Mỹ, mỗi người trong chúng ta tiêu thụ trọng lượng cơ thể mỗi ngày trong các nguyên liệu được khai thác và chế biến từ các trang trại, mỏ, đồng cỏ và rừng-trung bình là 120 pound. Kể từ năm 1950, tiêu thụ năng lượng, thịt và gỗ đã tăng gấp đôi; sử dụng nhựa đã tăng gấp năm lần; sử dụng nhôm đã tăng gấp bảy lần; và số dặm máy bay đã tăng gấp 33 lần cho mỗi người. Giờ đây, chúng ta sở hữu gấp đôi số xe hơi so với năm 1950. Và với mỗi cú cắn, mỗi cú nhấn ga, mỗi lần quẹt thẻ tín dụng trong các trung tâm mua sắm, chúng ta đã để lại một dấu ấn sinh thái lớn hơn trên bộ mặt thế giới. Chúng tôi đã vắt kiệt của cải của mình ra khỏi cơ thể của công nhân đồn điền ở Thái Lan, nông dân ở Ecuador, công nhân nhà máy ở Malaysia.

Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tiêu dùng đang lây nhiễm sang mọi nền văn hóa trên thế giới, hầu hết chúng đều mô phỏng lối sống Mỹ của chúng ta. David Loy, trong Tôn giáo thị trường, xem xét liệu tiêu dùng có thực sự trở thành tôn giáo mới của thế giới hay không. Tôn giáo của chủ nghĩa tiêu dùng này dựa trên hai nguyên lý hoặc niềm tin chưa được khám phá:

1) tăng trưởng và thương mại thế giới nâng cao mọi người sẽ được hưởng lợi, và

2) tăng trưởng sẽ không bị hạn chế bởi các giới hạn vốn có của một hành tinh hữu hạn. Nền tảng của nó là sự thỏa mãn bản ngã, con đường của nó là một loạt các tham vọng ngày càng tăng, và kết quả của nó được thể hiện trong sự trụy lạc của người Descartian – “Tôi mua sắm, vì vậy tôi là như vậy.” Trong khi nó tuyển mộ những người chuyển đổi mới thông qua tràn ngập các phương tiện truyền thông đại chúng, nó làm ngu muội người tiêu dùng, khiến chúng ta quên mất những đau khổ mà chúng ta tham gia tạo thành. “Mua sắm là một hoạt động cốt lõi trong việc duy trì văn hóa từ chối.”  

Giờ đây, khi các nước cộng sản trên khắp thế giới đang sụp đổ, chủ nghĩa tiêu dùng là tất cả nhưng không thể cản trở sự phát triển của nó. Khi các xã hội truyền thống trở nên hiện đại, chủ nghĩa tiêu dùng là con đường hấp dẫn nhất. Các dân tộc tôn giáo, một cộng đồng khả năng mang lại thách thức duy nhất còn lại đối với chủ nghĩa tiêu dùng. Và Phật giáo có những hiểu biết độc đáo có thể ngăn chặn làn sóng say mê tận hưởng.

Làm thế nào để chúng ta đáp lại tất cả những đau khổ này? Con cái chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Chúng ta dễ dàng tham gia vào việc mê lầm, quên đi Phật sự đào tạo của mình. Nhưng khi chúng ta quay trở lại với nó, chúng ta nhớ lại nguồn gốc của đau khổ là sự thèm muốn thường xuyên của chúng ta. Chúng tôi muốn, do đó chúng tôi tiêu thụ; chúng ta muốn, do đó chúng ta đau khổ. Là các học viên, chúng ta cảm nhận được nhịp điệu không ngừng này trong xương của mình. Trong thế hệ này, chúng ta phải cảnh giác với mối đe dọa của chủ nghĩa tiêu dùng, và tham gia với các dân tộc tôn giáo khác để tìm cách phá bỏ sự kìm kẹp của nó. Tất cả chúng ta phải tìm cách trở thành những nhà hoạt động trong phong trào khám phá các giải pháp thay thế cho chủ nghĩa tiêu dùng.

Ba loại chủ nghĩa duy vật

Là những Phật tử Hoa Kỳ, chúng ta phải nhận ra những mối đe dọa của chủ nghĩa tiêu dùng trong quá trình thực hành, cũng như trong các cộng đồng và thể chế phôi thai của chúng ta. Theo quan điểm của Phật giáo Tây Tạng, chủ nghĩa tiêu dùng chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Nó chỉ biểu hiện bên ngoài của sự thèm muốn và sự thích thú. Cách đây 25 năm, đạo sư Vidyadhara Chogyam Trungpa Rinpoche, đã viết một trong những cuốn sách giáo pháp phổ biến đầu tiên ở Mỹ, Phẫu thuật Chủ nghĩa Duy vật Tâm linh. Mức độ liên quan của nó chỉ tăng lên mỗi năm. Ông nói về ba cấp độ của chủ nghĩa duy vật quy định sự tồn tại của chúng ta như những biểu hiện của hoạt động lấy cái tôi làm trung tâm. Không bị ràng buộc, chủ nghĩa duy vật sẽ đồng hóa cuộc sống vật chất của chúng ta, cộng đồng của chúng ta và chính thực tiễn của chúng ta.

Chủ nghĩa duy vật vật chất đề cập đến việc theo đuổi thần kinh của niềm vui, sự thoải mái và sự an toàn. Đây là biểu hiện bên ngoài của chủ nghĩa tiêu dùng. Dưới ảnh hưởng này, chúng ta cố gắng che chắn bản thân khỏi nỗi đau hàng ngày của sự tồn tại hiện hữu, đồng thời làm nổi bật những khoảnh khắc thú vị. Chúng ta được thúc đẩy để tạo ra ảo tưởng về một cuộc sống không đau đớn, đầy sự lựa chọn khiến chúng ta cảm thấy kiểm soát được. Chúng ta cần 107 lựa chọn về sữa chua trong siêu thị để có đầy đủ các lựa chọn, chúng ta cảm thấy mình như nữ hoàng của vũ trụ. Chúng ta đến rạp chiếu phim 24-Plex để có thể xem bất cứ bộ phim nào mình muốn, bất cứ khi nào chúng ta muốn. Chúng ta cần thuốc giảm đau nhanh hơn, các thiết bị để loại bỏ mọi sự bất tiện và các thiết bị liên lạc để thúc đẩy trao đổi ngay lập tức. Tất cả những điều này tạo ra ảo giác về cảm giác sung sướng hoàn toàn ngay trên đầu ngón tay của chúng ta mà không hề có cảm giác đau đớn. Khi chúng ta bị thống trị bởi loại chủ nghĩa duy vật vật chất này, chúng ta xác định bản thân bằng những gì chúng ta có.

Nhưng điều này chỉ là khởi đầu. Ở cấp độ tiếp theo, tâm lý chủ nghĩa duy vật tìm cách kiểm soát thế giới thông qua lý thuyết, hệ tư tưởng và trí tuệ. Chúng ta không chỉ cố gắng thao túng thế giới về mặt thể chất để chúng ta không phải trải qua nỗi đau, chúng ta còn làm như vậy về mặt tâm lý. Chúng ta tạo ra một cấu trúc lý thuyết giúp chúng takhông bị đe dọa, sai lầm, bối rối. Chúng ta luôn tự kiểm soát theo cách này. “Là một người Mỹ, tôi có quyền. Là phụ nữ, tôi xứng đáng được độc lập khỏi sự kỳ vọng của những người đàn ông trong xã hội của mình. Tôi tự kiếm tiền lương, tôi có thể chọn cách chi tiêu mình muốn. Là một Phật tử, tôi hiểu sự phụ thuộc lẫn nhau…” Tâm lý chủ nghĩa duy vật giải thích bất cứ điều gì đe dọa hoặc khó chịu là kẻ thù. Sau đó, chúng ta kiểm soát mối đe dọa bằng cách tạo ra một hệ tư tưởng hoặc tôn giáo mà chúng ta chiến ưu thế, đúng đắn hoặc chính nghĩa; chúng ta không bao giờ trực tiếp trải qua nỗi sợ hãi và bối rối có thể nảy sinh khi gặp một mối đe dọa thực sự.

Điều này đặc biệt nguy hiểm đối với Phật tử Hoa Kỳ. Trong thời gian này, Phật giáo đã trở nên phổ biến, một mặt hàng được các công ty và phương tiện truyền thông đại chúng sử dụng. Là Phật tử đã trở thành một biểu tượng địa vị, hàm ý quyền lực, uy tín và tiền bạc. Hình ảnh của Đức Phật xuất hiện trên các bộ phim Hollywood và trong các quảng cáo máy tính của Apple; Các ngôi sao Hollywood được theo đuổi như một vụ mua lại trong một loại cạnh tranh pháp lý. Mọi người đều muốn thêm một cái gì đó Phật giáo vào sách tịch. Số lượng ghi danh Nghiên cứu Phật học tại Naropa đã tăng gấp đôi trong hai năm… Điều đang xảy ra là xã hội tiêu dùng của chúng ta đã biến Phật giáo thành một thứ hàng hóa giống như mọi thứ khác. Và những lời dụ dỗ dành cho Phật tử Hoa Kỳ là rõ ràng. Chúng ta đang bị dụ dỗ sử dụng Phật giáo của mình để thúc đẩy cái tôi, cộng đồng và mọi hoạt động của chúng ta trên thị trường Hoa Kỳ.

Đây vẫn chưa phải là trọng tâm của vấn đề. Ở mức độ tinh tế nhất, chủ nghĩa duy vật tâm linh mang cuộc đấu tranh quyền lực này vào lĩnh vực tâm trí của chúng ta, vào thực hành thiền định của chúng ta. Ý thức của chúng ta đang cố gắng duy trì sự kiểm soát, để tập trung duy trì nhận thức. Thông qua đó, bản ngã sử dụng ngay cả tâm linh để che chắn bản thân khỏi sợ hãi và bất an. Thực hành thiền định của chúng ta có thể được sử dụng để rút lui khỏi sự mơ hồ và cường độ của những cuộc gặp gỡ hàng ngày; các thực hành từ bi của chúng ta có thể được sử dụng để điều khiển sự thống khổ tuyệt đối của mọi thứ đổ vỡ. Chúng ta phát triển sự đầu tư vào bản thân với tư cách là những người thực hành Phật giáo, và như vậy, chúng ta bảo vệ bản thân khỏi sự trực tiếp và gần gũi của sự chứng ngộ của chính chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải sẵn sàng trau dồi “sự sắc bén” của việc thực hành của mình, sắc bén nơi xuất hiện hoảng sợ, nơi mối đe dọa như hình bóng của chúng ta, và nơi sâu thẳm của chúng ta hướng từ trong ra ngoài.

Điều gì xảy ra khi chúng ta bị cai trị bởi “ba cấp độ của chủ nghĩa duy vật”? Vidyadhara đã dạy rằng khi chúng ta quá bận tâm đến các vấn đề về bản ngã, kiểm soát và quyền lực, chúng ta trở nên “sợ hãi trước những hiện tượng bên ngoài, vốn là những dự đoán của chính chúng ta.” Điều này có nghĩa là khi chúng ta coi mình là thực thể tồn tại, thì chúng ta lầm tưởng thế giới xung quanh chúng ta là độc lập và có thật. Và khi chúng ta làm điều này, chúng ta sẽ dẫn đến hoang tưởng, sợ hãi và hoảng sợ. Chúng ta sợ không thể kiểm soát được tình hình. Như Patrul Rinpoche đã dạy:
Đừng kéo dài quá khứ,
Đừng mời gọi tương lai,
Đừng đánh mất sự tỉnh táo bẩm sinh của bạn,
Đừng sợ sự bất cứ điều gì đang diễn bày…

Chúng ta phải từ bỏ nỗi sợ hãi về mọi hiện tượng đang diễn bày. Làm thế nào chúng ta có thể làm điều đó?

Cách duy nhất để cắt bỏ mô hình thu nhận và kiểm soát này là bảo vệ tính toàn vẹn trần trụi của việc thực hành thiền định của chúng ta. Chúng ta phải có một nơi nào đó mà sự thao túng được phơi bày cho những gì nó là. Chúng ta phải sẵn sàng thực sự “buông bỏ” trong thực hành của mình. Khi chúng ta nhìn thấy tâm trí đua đòi của mình, cảm xúc xáo trộn và âm mưu liên tục của mình, chúng ta chạm vào bộ mặt của thế giới đau khổ và chúng ta không có lựa chọn nào khác ngoài việc bị thay đổi. Chúng ta phải cho phép trái tim mình tan vỡ với nỗi đau đấu tranh liên tục mà chúng ta trải qua trong bản thân và thế giới xung quanh. Sau đó, chúng ta có thể tham gia vào thế giới, và cống hiến bản thân cho một xã hội khai sáng đích thực, trong đó chủ nghĩa tiêu dùng không có sự dao động. Sự thèm muốn đến từ tốc độ của tâm trí chúng ta, ước muốn mãnh liệt cho những gì chúng ta không có đến mức chúng ta không thể trải nghiệm những gì đang có, ngay trước mắt.

Làm thế nào chúng ta, ngay bây giờ, giải quyết chủ nghĩa duy vật trong thực hành và cuộc sống của chúng ta? Tôi muốn đề xuất một thực hành tương tác với xã hội có thể thay đổi lối sống tức thời của chúng ta và thay đổi mối quan hệ của chúng ta với đau khổ. Đó là thực hành của sự bố thí. Không có thực tiễn nào trực tiếp hơn khi đối mặt với sự tiếp thu và chủ nghĩa cá nhân của người Mỹ. Bất kỳ ai trong chúng ta từng dành thời gian ở Châu Á hoặc với các vị thầy Châu Á của chúng ta đều thấy được điểm trung tâm của lòng quảng đại trong thực hành Phật giáo.

Theo công thức truyền thống, sự cho đi của chúng ta bắt đầu bằng những món quà vật chất và mở rộng đến những món quà của sự không sợ hãi và pháp. Như kinh đã nói, hào hiệp là đức tính tạo ra hòa bình. Hãy thử nó. Mỗi ngày hãy tặng một thứ gì đó cho ai đó. Chú ý những gì xảy ra. Cho một cái gì đó mà khó cho. Đưa tiền hoặc quà tặng. Nó có khó không, và điều gì khó về nó? Hỗ trợ tinh thần hoặc an ủi. Điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta thực sự làm cho mình sẵn sàng cho người khác? Sự rộng lượng là một cách thực hành khắc phục tính nông nổi và tham cầu của chúng ta, đồng thời mang lại lợi ích cho người khác. Cam kết thực hiện điều này có thể tạo ra di sản lớn nhất của chúng ta cho thế kỷ 21.

Source:

The Legacy for Our Children American Buddhism

Judith Simmer-Brown

My topic is Buddhism in the 21st century, the legacy we are leaving our  children. My first concern is a housekeeping concern. Have we set the  American Buddhist house in order? Specifically, if our children wish to  continue the traditions of Buddhist practice, what are we doing to make  that possible? Have we created the ground of a truly American Buddhism  which can sustain practice, community, and culture into the new millennium?

Have we, the baby boomer generation, created a legacy which will nurture the hearts of the practitioners who are to follow?

Almost 30 years ago, in graduate school, I was introduced to what seemed arcane then, but relevant to me now. They were four classic criteria developed by Western Buddhologists, which predict the resilience of Buddhism in a new cultural setting. Specifically, what factors must be present if Buddhism is to survive beyond a single generation? While these criteria were developed from observation of Buddhism moving through Asia, with certain adjustments they may be of relevance for an assessment of American Buddhism.

These are the four criteria-elements of Asian Buddhist tradition necessary to assure the continuation of Buddhism in an American setting.

The first is, have the key sutras, commentaries, teachings, practices and liturgies been translated into English? And are these translations usable for the practice communities themselves?

Excessively scholarly translations will not do – and translations which strip away all tradition dilute the richness of our Asian heritage. Access to these texts is a priority, and we must continue to work on this monumental task. The Tibetan tradition, for example, is most fragile: the situation in Tibet itself shows little improvement, and the great exiled

 masters of the traditions grow old and pass on. We know that we cannot translate these texts without their supervision and commentary. I must ask you this – have your communities worked with this? Are you training and supporting your translators and their translation projects?

The second criterion is, have the essence teachings been transmitted to American dharma heirs and students? Are these heirs trusted and respected by their Asian lineages, and have they received everything, with nothing held back? We must realize the incredible auspiciousness of our place in history. To receive these teachings requires sincere, heartfelt practice, fervent and sustained devotion, and unfailing communication. My teacher, Ven. Chogyam Trungpa Rinpoche, passed on 11 years ago. I and others have dedicated ourselves to carrying on his heritage, his transmissions, his instructions. Do we understand the preciousness of human life, that our teachers will not live forever? How might we more fully receive the transmissions which they offer us?

The third criterion is, has a strong base of American patrons been established? In Buddhist history, this was accomplished by royal patronage, for if the king supported the dharma the people would as well. Obviously, it is somewhat different in 21st century America, but we need financial support and cultural sympathy in order for the dharma to thrive. Here, we court Hollywood, Washington, and Silicon Valley. Rockefeller, Ford, and Lilly. Patronage is an important chance to communicate something fundamental about the dharma and it is an acknowledgment of the ordinary practicalities of power, influence, and prestige. Without American patronage, there can be no sustained American Buddhism. What are we doing to ensure the future of the dharma through appropriate patronage?

And the fourth criterion is, has monastic ordination been fully passed to American monks and nuns? This category also reflects Buddhism’s Asian history, in which monasteries served as preservers and propagators of the tradition. Where the monastery did not continue, there was no place where dharma could remain powerful outside of the whims and intrigues of cultural and political life. For the American context, we must preserve and nurture the monastic  traditions which have fostered Buddhism in this way. But in the American context, the lay tradition is destined to play a major role in the continued development of Buddhism. Are there also strong places of practice for lay people, for the yoginis and yogis of our culture? Can we preserve the tradition, established in our “boomer” generation, of strong commitment to practice for everyone, both monastic and lay?

All of these criteria merely suggest the heart of our dharma connection. As first generation American Buddhists, we made practice our link, and it is practice which brought us here today. Practice has given us a new lease on life; practice has conquered the hopelessness and depression of our generation; practice has opened us to the suffering of the world without embittering or hardening us. Do we have the fundamentals of our practice established so that we can continue? Do we have the texts, the transmissions, the financial support, and the institutions and places of practice? And can we, above all, commit ourselves to continue to practice? Can we commit ourselves to teach our children, so that they can practice as well?

We must always remember, our practice is not just for ourselves. Of course, we practice for our teachers, out of gratitude and devotion for the precious jewel they have given us. We practice for our children, for all children, for all people in the next seven generations. We practice because this is how we are most alive. We practice because we don’t know how not to practice. It is the only way to be who we are.

Most importantly, we practice so that we do not remain merely Buddhists. We cannot solidify our identities as Buddhists. We know that to hide in Buddhism is not the way to honor our teachers and to nurture our descendants. If the three refuges remove us from the suffering of the world, we have not understood them. American Buddhism must serve the world, not itself. It must become, as the 7th century Indian master Santideva wrote, the doctor and the nurse for all sick beings in the world until everyone is healed; a rain of food and drink an inexhaustible treasure for those who are poor and destitute.

Social Engagement in the World  

This leads to the next level of reflection about my children in the 21st century: the importance of socially engaging in the world. My children, Owen and Alicia, will increasingly encounter suffering; we can only imagine the kinds of suffering our children will encounter. Even now, we see the poor with not enough food and no access to clean and safe drinking water; we see ethnic and religious prejudice that would extinguish those who are different; we see the sick and infirm who have no medicine or care; we see rampant exploitation of the many for the pleasure and comfort of the few; we see the demonization of those who would challenge the reign of wealth, power, and privilege. And we know the 21st century will yield burgeoning populations with an ever-decreasing store of resources to nourish them.

Fueling this suffering is the relentless consumerism which pervades our society and the world. Greed drives so many of the damaging systems of our planet. The socially engaged biologist Stephanie Kaza reminds me, in America each of us consumes our body weight each day in materials extracted and processed from farms, mines, rangelands, and forests-120 pounds on the average. Since 1950, consumption of energy, meat, and lumber has doubled; use of plastic has increased five-fold; use of aluminum has increased seven-fold; and airplane mileage has increased 33-fold per person. We now own twice as many cars as in 1950. And with every bite, every press of the accelerator, every swipe of the credit card in our shopping malls, we have left a larger ecological footprint on the face of the world. We have squeezed our wealth out of the bodies of plantation workers in Thailand, farmers in Ecuador, factory workers in Malaysia.

The crisis of consumerism is infecting every culture of the world, most of them emulating our American lifestyle. David Loy, in The Religion of the Market, considers whether consumption has actually become the new world religion. This religion of consumerism is based on two unexamined tenets or beliefs:

1) growth and enhanced world trade will benefit everyone, and

2) growth will not be constrained by the inherent limits of a finite planet. Its ground is ego gratification, its path is an ever-increasing array of wants, and its fruition is expressed in the Descartian perversion – “I shop, therefore I am.” While it recruits new

 converts through the floods of mass media, it dulls the consumer, making us oblivious to the suffering in which we participate. “Shopping is a core activity in sustaining a culture of denial.”

Now that communist countries throughout the world are collapsing, consumerism is all but unchallenged in its growth. As traditional societies become modern, consumerism is the most alluring path. Religious peoples an communities have the power to bring the only remaining challenge to consumerism. And Buddhism has unique insights which can stem the tide of consumptive intoxication.

How do we respond to all of this suffering? How will our children respond? It is easy to join the delusion, forgetting our Buddhist training. But when we return to it, we remember-the origin of suffering is our constant craving. We want, therefore we consume; we want, therefore we suffer. As practitioners, we feel this relentless rhythm in our bones. We must, in this generation, wake up to the threat of consumerism, and join with other religious peoples to find a way to break its grip. We must all find a way to become activists in the movement which explores alternatives to consumerism.

Three Kinds of Materialism  

As American Buddhists, we must recognize the threats of consumerism within our practice, and within our embryonic communities and institutions. From a Tibetan Buddhist point of view, consumerism is just the tip of the iceberg. It represents only the outer manifestation of craving and acquisitiveness. Twenty-five years ago, my guru, the Vidyadhara Chogyam Trungpa Rinpoche, wrote one of first popular dharma books in America, Cutting Through Spiritual Materialism. Its relevance only increases each year. He spoke of the three levels of materialism which rule our existence as expressions of ego-centered activity. Unchallenged, materialism will co-opt our physical lives, our communities, and our very practice.

Physical materialism refers to the neurotic pursuit of pleasure, comfort, and security. This is the outer expression of consumerism. Under this influence, we try to shield ourselves from the daily pain of embodied existence, while accentuating the pleasurable moments. We are driven to create the illusion of a pain-free life, full of choices which make us feel in control. We need 107 choices of yoghurt in a supermarket so full of choices we feel like queens of our universe. We go to 24-Plex movie theaters so that we can see whatever film we want, whenever we want. We need faster pain relievers, appliances to take away all inconvenience, and communication devices to foster immediate exchange. All of these create the illusion of complete pleasure at our finger-tips, with none of the hassle of pain. When we are ruled by this kind of physical materialism, we identify ourselves by what we have.

But this is just the beginning. On the next level, psychological materialism seeks to control the world through theory, ideology, and intellect. Not only are we trying to physically manipulate the world so that we don’t have to experience pain, we do so psychologically as well. We create a theoretical construct which keeps us from having to be threatened, to be wrong, to be confused. We always put ourselves in control in this way. “As an American I have rights. As a woman, I deserve to be independent from expectations of men in my society. I earn my own salary, I can choose how I want to spend it. As a Buddhist, I understand interdependence…” Psychological materialism interprets whatever is threatening or irritating as an enemy. Then, we control the threat by creating an ideology or religion in which we are victorious, correct, or righteous; we never directly experience the fear and confusion which could arise from experiencing a genuine threat.

This is particularly perilous for the American Buddhist. In these times, Buddhism has become popular, a commodity which is used by corporations and the media. Being Buddhist has become a status symbol, connoting power, prestige and money. His Holiness’ picture appears on the sets of Hollywood movies and in Apple computer ads; Hollywood stars are pursued as acquisitions in a kind of dharmic competition. Everyone wants to add something Buddhist to her resume. Buddhist Studies enrollments at Naropa have doubled in two years, and reporters haunt our hallways and classrooms. Conferences like this attract a veritable parade of characters like myself, hawking the “tools” of our trade. What is happening is that our consumer society has turned Buddhism into a commodity like everything else. And the seductions for the American Buddhist are clear. We are being seduced to use our Buddhism to promote our own egos, communities, and agendas in the American marketplace.

This still is not the heart of the matter. On the most subtle level, spiritual materialism carries this power struggle into the realm of our own minds, into our own meditation practice. Our consciousness is attempting to remain in control, to maintain a centralized awareness. Through this, ego uses even spirituality to shield itself from fear and insecurity. Our meditation practice can be used to retreat from the ambiguity and intensity of daily encounters; our compassion practices can be used to manipulate the sheer agony of things falling apart. We develop an investment in ourselves as Buddhist practitioners, and in so doing protect ourselves from the directness and intimacy of our own realization. It is important for us to be willing to cultivate the “edge” of our practice, the edge where panic arises, where threat is our friend, and where our depths are turned inside out.

What happens when we are ruled by the “three levels of materialism”? The Vidyadhara taught that when we are so preoccupied with issues of ego, control, and power we become “afraid of external phenomena, which are our own projections.” What this means is that when we take ourselves to be real, existent beings, then we mistake the world around us to be independent and real. And when we do this we invite paranoia, fear, and panic. We are afraid of not being able to control the situation. As Patrul Rinpoche taught:
Don’t prolong the past,
Don’t invite the future,
Don’t alter your innate wakefulness,
Don’t fear appearances…

We must give up the fear of appearances. How can we do this?

The only way to cut this pattern of acquisitiveness and control is to guard the naked integrity of our meditation practice. We must have somewhere where manipulation is exposed for what it is. We must be willing to truly “let go” in our practice. When we see our racing minds, our churning emotions and constant plots, we touch the face of the suffering world and we have no choice but to be changed. We must allow our hearts to break with the pain of constant struggle that we experience in ourselves and in the world around us. Then we can become engaged in the world, and dedicate ourselves to a genuine enlightened society in which consumerism has no sway. Craving comes from the speed of our minds, wishing so intensely for what we do not have that we cannot experience what is there, right before us.

How can we, right now, address materialism in our practice and our lives? I would like to suggest a socially engaged practice which could transform our immediate lifestyles and change our relationship with suffering. It is the practice of generosity. No practice flies more directly in the face of American acquisitiveness and individualism. Any of us who have spent time in Asia or with our Asian teachers see the centrality of generosity in Buddhist practice.

 According to traditional formulation, our giving begins with material gifts and extends to gifts of fearlessness and dharma. Generosity is the virtue that produces peace, as the sutra says. Try it. Every day give something to someone. Notice what happens. Give something which is hard to give. Give money or gifts. Was it hard, and what was hard about it? Give emotional support or comfort. What happens when we genuinely make ourselves available to others? Generosity is a practice which overcomes our aquisitiveness and self-absorption, and which benefits others. Committing to this practice may produce our greatest legacy for the 21st century.

____________________________ 

Judith Simmer-Brown is professor of Religious Studies at The Naropa Institute. This article was adapted from her keynote address given at the Buddhism in America Conference in San Diego in 1998. Updated April 18, 1999.