Thursday, September 21, 2023

Tâm Quảng Nhuận: Biểu tượng Lý Tưởng của Huynh Trưởng GĐPTVN


Mấy tuần trước, Tâm Thường Định có gọi điện thoại và đề nghị tôi làm một thiệp chúc mừng, mừng hai trưởng niên Tâm Giác Tâm Đặng Văn Thành, hiện nay là Trưởng ban Hướng dẫn Trung ương GĐPT Việt Nam tại Hoa Kỳ; và trưởng niên Quang Ngộ Đào Duy Hữu, nay là Trưởng ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật tử Việt Nam tại Hoa Kỳ, vừa được tấn phong và thọ nhận cấp Dũng. Cấp bậc cao quý nhất của Tổ chức chúng ta, cùng thời điểm trong năm 2023.

Tôi nói với Phẻ, “Chuyện lên cấp có gì mà mừng!” vì trước sau tôi vốn không khuyến khích Anh-Chị-Em Huynh trưởng lên cấp, nhất là lên nhanh, tỷ lệ nghịch với sự ổn định của Tổ chức, khi mà nhìn chung chung, GĐPT chưa có những phát triển đáng mừng, so với hoàn cảnh chung của thế giới.

Song, qua tin tức tấn phong và hình ảnh thọ cấp của các Anh, điều đáng nói nhất ở đây là cả hai, giờ đây tiêu biểu cho một thế hệ Huynh trưởng được đào tạo và trưởng thành ở hải ngoại nói chung và Hoa Kỳ nói riêng, có tu học, có thực hành, có dấn thân, đến nay có đủ đạo đức và khả năng đảm nhận trách nhiệm vai trò hướng dẫn cao cấp nhất. Hình ảnh tiêu biểu nổi bật, làm khuôn mẫu cho những thế hệ đàn em tiếp nối.

H.Tr Tâm Giác Tâm Đặng Văn Thành, hiện nay là Trưởng ban Hướng dẫn Trung ương GĐPT Việt Nam tại Hoa Kỳ trong lễ thọ cấp Dũng tổ chức tại Trung Tâm Tu Học Thích Quảng Đức, San Bernadino, CA – USA (Ảnh: Giác Bổn)

Cả hai Anh cùng trúng cách trại Huyền Trang I, Hoa Kỳ, 1988, đã bền bĩ và gắn bó với Tổ chức, với Anh-Chị-Em áo Lam, nghĩa là luôn tinh tấn trên con đường Đạo Pháp, tương lai Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Lễ thọ cấp của niên trưởng Tâm Giác Tâm tổ chức tại Trung Tâm Tu Học Thích Quảng Đức, đã được ống kính chuyên nghiệp pha lẫn một chút thiền tính của Giác Bổn ghi lại, thâm trầm! Mà thâm trầm là đức tính cần thiết của người Huynh trưởng đầu đàn. Không hành động thái quá trong mọi công việc, nói một cách khác áp dụng tinh thần Trung đạo một cách nhuần nguyễn, thành thục nhân vô ngãpháp vô ngã của Bình đẳng tính.

H.Tr. Quang Ngộ Đào Duy Hữu, nay là Trưởng ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật tử Việt Nam tại Hoa Kỳ diễn từ khai mạc trại họp bạn Viên Lạc, tại San Jose, CA – USA, 2019. (Ảnh tư liệu: ST)

Nhờ vậy tôi mừng! Không phải cái mừng của riêng hai Anh, mà mừng cho tương lai Tổ chức GĐPT từ đây có cơ sở để hy vọng đoàn kết, vững vàng và phát triển sánh vai với các đoàn thể thanh niên Thế giới nói chung và Thanh niên Phật giáo khắp nơi nói riêng. Bởi bằng con đường Trung Đạo; bằng tinh thần Vô ngã, những người lãnh đạo thế hệ một rưỡi, như Anh Tâm Giác Tâm và Quang Ngộ, rồi sẽ tiếp đến những thế hệ thứ hai, thế hệ mới kế thừa, nhìn nhận ra tính bình đẳng mà không còn sự phân biệt giữa những người Anh-Em.

Xa hơn, nhìn lại Nhân tố và Con Đường. Từ những thành viên áo lam đầu tiên, trải qua một quá trình trưởng dưỡng cho đến ngày nay trở thành những người Huynh trưởng cao cấp nhất, gánh lấy trách nhiệm quan trọng nhất lèo lái con thuyền Sen Trắng thời đại mở ra thế giới. Chúng ta có đủ cơ sở để tự hào nhìn lại một nền tảng giáo dục và huấn luyện của Tổ chức tại Hải ngoại cũng như Hoa Kỳ. Chúng ta có đủ niềm tin từ giờ phút này, thông qua biểu tượng nổi bật như hình ảnh của hai Anh – Tâm Giác Tâm và Quang Ngộ – chính là biểu tượng lý tưởng của tập thể Huynh Trưởng GĐPT Việt Nam.

Nghiêng lòng kính chào Tinh Tấn! Nguyện cầu cho Sen Lam tỏa ngát năm châu, cho hình ảnh những người Huynh Trưởng Tiêu biểu của thời đại nhân cộng trong tương lai.

Nam Mô Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam Mô Hoan Hỷ Bồ Tát Ma Ha Tát.

Mặc Cốc, tháng Chín, 2023

TÂM-QUẢNG-NHUẬN

Tuesday, September 19, 2023

Tuệ Sỹ: Thanh Sắc Thi Ca

 

Trích Tuệ Sỹ Văn Thuyển, Tập 3: Văn Học. Hạnh Viên sưu tuyển
Hương Tích Phật Việt xuất bản, 2015

Cám ơn ông hàng xóm
Ngừng mở máy thu thanh
Võng đưa thềm mận chín
Nghe sẻ gọi bình minh.
(Mộng Ngân Sơn)

Niềm vui đơn sơ của nhà thơ ở vào con số 12 đường Bến Chợ là như vậy đó. Tiếng sẻ gọi nhau trong nắng mai thật quá hiếm giữa những âm thanh rộn ràng khác. Trước mặt nhà của nhà thơ Quách Tấn chúng ta, đây là ngôi chợ Đầm của thành phố Nha Trang với lối kiến trúc tân tiến. Nhưng trước kia, chỗ này là một đầm sen. Một cái đầm sen ở ngay giữa thành phố; chúng ta có thể hiểu được tâm sự lạc loài của một nhà thơ nặng tình ấp ủ thiên nhiên như Quách Tấn. Mặc dù vẫn mang những tính chất náo nhiệt của một phố thị kiểu mẫu của thế kỷ này. Nha Trang thỉnh thoảng vẫn trầm mình trong hương sắc diễm lệ của mùa thu. Cho nên nhà thơ của chúng ta vẫn là bóng dáng một lữ khách mùa thu của một thời đại quá khứ còn sót lại giữa những bước chân nhộn nhịp của chúng ta, của thanh niên trưởng thành trong thế kỷ hai mươi:

Áo giũ ngàn sương gió
Lên chùa thăm cố nhân
Non nghiêng thềm bóng xế
Lịu địu bóng nhàn vân.
(Lịu địu, Mộng Ngân Sơn)

Phong cách ấy quả thực có khác với chúng ta trong những thù tạc vãng lai. Chúng ta đến và đi trong âm thanh và tốc độ của cơ khí, ồn ào và vội vã. Do bản chất cơ khí, nghĩa là sự hiện hữu bằng những phản lực bị dồn ép và bị bùng vỡ, mà thời đại chúng ta mang nặng tính chất chiến đấu, bạo động: những nổi loạn trong triết lý, trong văn học; những phong trào quần chúng, những nổi loạn của sinh viên thế giới… Thế thì, thời đại ấy của nhà thơ ấy là thời đại ẩn mình trầm lặng, của một đám mây lơ lửng lồng trong bóng núi nghiêng nghiêng. Là thời đại của một Vương Duy tiễn bạn trong chén rượu Vị Thành, của một Giả Đảo lên núi tìm bạn, hay một Lữ Đường nơi chùa Phổ Lại, một Nguyễn Du trong dãy Hồng Lĩnh?

Đạo dịch nói: ” Thiên nhiên biến động trong bất động. Nếu lửa là biểu tượng cho sự tiến hóa không ngừng, thì núi là biểu tượng cho sự an định, tĩnh chỉ. Cuộc lữ không chỉ duy một mặt là cuộc hành trình vô tận. Nhưng đó là những bước đi trên con đường Đạo – Chân thường vĩnh cửu. Núi có thể được san bằng để cho phố thị mọc lên, biển có thể bị lấp cạn để trở thành xa lộ. Dù đến mức như vậy, mối tương quan bản thể giữa con người và thiên nhiên vẫn tràn đầy trong đồng nhất tính hồn nhiên. Miếng vỏ sò lạc loài trên núi vẫn mang trong bản chất tồn tại của nó một nỗi hoài hương tha thiết, nó mơ về những đợt sóng của trùng dương:

Vỏ sò khô ấp ủ
Niềm băng tuyết đêm sương
Muôn xa bờ bến cũ
Vang vọng sóng trùng dương.
(Ấp ủ, MNS)

Nhà thơ của chúng ta trong một thoáng rung động kỳ diệu nào đó đã đọc ra bản chất tồn tại sâu xa của tạo vật. Cũng chỉ với tâm hồn ấy mới có thể đọc ra những ẩn ngữ ấy trong lớp vỏ vô tri và vô nghĩa ấy.

Tất nhiên nhà thơ vẫn ở trong dòng thác cuộn ào ạt theo bước tiến lịch sử của con người, nhưng trong cuộc hành trình vô tận ấy nhà thơ có thể đạt được tận cùng về bản chất lữ thứ của mình, vì trong tận cùng tâm sự vẫn là một nỗi hoài hương bao la. Quê hương hiện thực của ông ở đâu? Ở trong đất Việt trời Nam này, trong bóng chùa ẩn giữa mây trắng; trong tiếng chuông khuya sớm, những tiếng sáo chiều. Đấy là những hình ảnh, những ” thanh” và ” sắc”, mà thiên nhiên vô hình thực hiện trong cụ thể hữu hình:

Chùa ẩn non mây trắng
Bóng in hàng liễu xanh
Mai chiều chuông đã tạnh
Vòng sóng còn long lanh.
(Tiếng ngân, Giọt Trăng)

Đấy và những gì tương tự như thế đấy, là hình ảnh thiên nhiên đầy tình tự, là khoảng trời xanh tinh khiết còn lại trong đôi mắt long lanh của một nhà thơ trong cảnh xế chiều của chính đời mình, và của cả một thời đại thi ca Việt Nam. Tiếng chuông chùa Hải Đức trên đồi Trại Thủy kia, sát bên thành phố ấy, sớm và chiều vẫn lạc loài, lan xa trong cô độc, trong sự sống của thành phố đang trôi đi dưới những tiếng nổ ròn rã và tốc độ vội vàng của đủ các loại động cơ. Những tiếng chuông lạc loài, một hồn thơ cô quạnh, và còn gì nữa? Những giọt lệ – những giọt lệ đoàn viên trong nỗi hoài thương tha thiết:

Từng giọt châu rơi mắt mẹ hiền
Mừng con lưu lạc trở đoàn viên
Neo thu bến tạnh thuyền sương sóng
In bóng chùa xưa trăng nửa hiên.
(Chuông khuya, Đọng bóng chiều)

Vậy thiên nhiên có nói gì chăng? Thì đấy: bốn mùa đến rồi đi, và rồi lại đến. Nhưng ngôn ngữ của loài người là gì, trên một cung bậc nào đó?

Monday, September 18, 2023

Viên Linh: Tuệ Sỹ, Tù Đày và Quê Nhà

 


Nhà thơ Viên Linh (Ảnh: Uyên Nguyên)

Trong các nhà tu hành trẻ tuổi hồi thập niên ’70, khuôn mặt của Tuệ Sỹ, vóc dáng của một hiền giả, nhìn vào, nói tới, là nhìn vào, nói tới một tinh thần, một phong cách sáng lạn. Hồi ấy, ảnh hưởng truyện kiếm hiệp Kim Dung còn mạnh, Võ Lâm Ngũ Bá từ Anh Hùng Xạ Điêu thấy xuất hiện ngoài đời. Những phụ nữ tác xác được gọi là Kim Bà Bà, Ghen tuông lườm nguýt thành Triệu Minh, Chu Chỉ Nhược, Đào hoa vợ nọ con kia thành Đoàn Chính Thuần. Ngốc Tử gặp may thành Đoàn Dự. Hèn hạ nịnh nọt len vào chốn cao sang thành Vi Tiểu Bảo. Năm vị anh hùnh trấn võ lâm, đem vào gia phả Vạn Hạnh, có Trung Thần Thông Vương Trùng Dương Thượng Tọa Minh Châu, Viện trưởng; Bắc Cái Hồng Thất Công Bùi Giáng; Nam Đế Ngô Trọng Anh; Tây độc Phạm Công Thiện, và Đông tà Tuệ Sỹ.

Những lần lui tới Vạn Hạnh, tôi tiếp xúc với hầu hết chư vị tăng ni ở đây, người nào trong mắt nhìn của một ký giả, tôi cũng có thể đùa rỡn, ngoại trừ Đông tà. Trong ngũ bá Vạn Hạnh, tôi kính trọng Thầy Minh Châu, anh Ngô Trọng Anh, giao du với Tây độc Phạm Công Thiện, nhưng với Đông tà Tuệ Sỹ, lòng tôi cứ trùng xuống, nói năng nhẹ đi, và cái nhìn của tôi không còn sắc cạnh nữa. Đi tu như Sân Đại đức, tôi dư sức thành chánh quả. Hành thiền như Si phương trượng, tôi không có hạnh Bồ tát, song cũng không hèn mà không trụ trì nổi một cảnh chùa nhỏ ven sông. Tuệ Sỹ vượt lên trên những tăng chúng thường gặp. Con người ấy là con người thật, và còn vượt hơn cả cái thật của con người. Con người ấy, tuy vậy, một lần giận tôi, ngồi mãi ở Tòa soạn Thời Tập mà nói, chỉ vì tôi đã đăng một bài thơ anh dịch chưa xong, mà coi như xong rồi.

Lúc ấy, cùng với các anh Đỗ Khánh Hoan, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Hữu Hiệu, Cao Huy Khanh, Lê Tài Điển, và Trùng Dương, Tuệ Sỹ đứng trong bộ Biên Tập của Thời Tập, hậu thân của Khởi Hành các năm trước.

Khoảng 1984, lúc ở Hoa Kỳ, nghe tin Hà Nội vây hãm chùa Già Lam, nghìn trùng xa cách, tôi biết ngay Tuệ Sỹ lâm nạn. Ngày 30 tháng 9, 1988, vị chân tu ấy bị họ lên án tử hình, cùng học giả Trí Siêu Lê Mạnh Thát, các cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Phan Văn Trí, Tôn Thất Kỳ, và 17 vị khác thuộc Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam và Lực Lượng Việt Nam Tự Do. Tôi nhờ giáo sư Đỗ Đình Tuân dịch cho một bài thơ của bạn tôi qua tiếng Anh, Mười Năm Cuộc Lữ, thực hiện ngay một bản tin bằng tiếng Anh, và mang lên đọc trong một Đại hội của Văn Bút Hoa Kỳ ở Los Angeles. Tôi đọc nguyên văn bản của Tuệ Sỹ, và anh Trịnh Y Thư sau đó đọc bản dịch Anh ngữ. Văn Bút Quốc tế qua tài liệu do bà Jeanne-Leedom Arckeman, lúc ấy là Chủ tịch Văn Bút Hoa Kỳ ở Miền Tây chuyển lên giùm, đã can thiệp tích cực vào vụ Chùa Già Lam. Cũng vụ này, Tạp Chí Văn Học làm một số đặc biệt vào ba tháng sau, và tôi đã dành lấy việc trình bày cái bìa, và làm ba đoạn thơ cảm khái, với nhan đề Trí, Tuệ.

Nhà Lý Văn Lang Công Uẩn ôi!
Bao nhiêu thế kỷ đã qua rồi?
Thăng Long rồng hiện xem bờ cõi
Cửa mở Già Lam thả phượng chơi.
Mỏng mảnh như mây gió thổi về
Vén tầm vô hạn xuống bờ mê
Gác chuông Trí, Tuệ kinh vừa giảng
Dưới đáy trần gian quỉ kéo đi.

Vẫn tiếng sông sầu róc rách trôi
Bến Vàng lớp lớp mộng lôi thôi
Vung tay Sỹ hận hề, tung sách
Chữ nghĩa nghìn trang, Trí vá trời.
(Viên Linh, Văn Học, số 35.12.1988 – tr18)

Trong cuộc sống xô bồ với giấy mực của tôi, Tuệ Sỹ như một băng hồ. Băng hồ ấy có thể đóng đá, song lại bốc hơi. Hơi ấm của băng hồ. Nói nhỏ nhẹ, nói như viết, anh không nói thừa. Anh cũng không cao giọng, dù trong lòng không vui.

– Anh đọc lại đi. Tôi đã dịch xong đâu.

Tuệ Sỹ ngồi im, hai tay đặt lên hai thành ghế, cả người lọt thỏm trong chiếc ghế gỗ màu gụ của Tòa soạn Thời Tập, cũng là văn phòng nhà in Phúc Hưng của anh em chúng tôi ở đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn.

– Tôi nghĩ xong rồi. Xong rồi anh mới đưa tôi đăng chứ?

– Tôi đưa anh đọc.

– Tôi thấy hay thì đăng.

Câu này hình như làm cho tác giả TRIẾT HỌC VỀ TÁNH KHÔNG giận. Một lần nữa anh bảo tôi đọc lại đi, xem có phải là thơ không, mà tôi đem đăng lên Thời Tập.

Trong quan điểm một Chủ bút, tôi vẫn chủ trương thơ của các tác giả vô danh, thì phải hay mới đăng được, còn bài của những người có tên tuổi, thì có làm sao, tôi vẫn đăng, trừ phi nguệch ngoạc quá tay (vì các tác giả có tên tuổi sẽ chịu trách nhiệm về bài biết của họ, còn với tác giả vô danh, người chịu trách nhiệm chính là người chọn bài đăng.) Cho nên nếu lấy thơ loại B mà ký Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, tôi vẫn đăng. Và Bài Vua Tần Uống Rượu Tuệ Sỹ dịch thơ Lý Hạ, không lý gì tôi không đăng. Khoảng 1973, 74, Tuệ Sỹ đã rất có uy tín.

Đọc lại, quả có thấy thiếu vần. Đoạn một, tôi nói có thể coi là có vần trắc, do hai chữ cực và chữ biếc, nghe tương tự đồng âm. Đoạn hai chắc chắn có vần, do hai chữ tình ở câu trên, và sênh ở câu dưới. Đoạn ba tôi đồng ý không có vần, nhưng nối với đoạn hai, thì chữ canh đi với chữ sênh, coi là đồng âm. Đoạn bốn tôi đồng ý không có vần, nhưng không sao. Còn hai câu kết…

Tuệ Sỹ giận lắm. Tôi thấy hai bàn tay anh nổi xanh trên tay ghế. Anh nói gì đó không còn nhớ nguyên văn, song đại ý là như thế mà coi là có vần được à. Tôi nói như không có vần thì có điệu, coi như thơ tự do. Toàn bài, đối với anh chưa hoàn tất, nhưng đối với tôi, tôi thấy hay. Tôi thấy anh tức giận thực sự, ngồi im bặt thật lâu.

Nguyễn Đức Sơn từng nổi giận tại Tòa soạn Thời Tập, la hét như người kinh phong, đi qua đi lại, hai đầu gối nhấc cao, làm cho tà áo lam gẫy khúc, khi tôi đăng thơ anh dọc theo chiều gáy tờ báo, nghĩa là phải quay 90 độ mới đọc được, song Tuệ Sỹ giận thì như mặt hồ đóng băng. Im lặng. Tĩnh chết. Một lúc sau anh đứng dậy ra về, không nói gì hết. Giận vậy thôi, trước là Khởi Hành (1969-1972) và sau là Thời Tập (1973-1975) vẫn là hai tờ tạp chí đăng tải nhiều sáng tác nhất của Tuệ Sỹ, trong có ít nhất là hai bài thơ hay: Sơ Huyền (Tang thương một giải tóc thề), Mơ Tuổi Vàng (Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ / bài thơ làm Bùi Giáng choáng váng) và ba truyện ngắn, tùy bút xuất sắc: Truyện Chuyến Xe Đò Cao Nguyên về một “cuộc lữ nhỏ” trên đường Pleiku; truyện Sư Thiện Chiếu về “cuộc lữ lớn” của một nhà sư dựng nước; hay Quỉ Thi của Lý Hạ…

Nhà Đại Đức về rồi, tôi ngồi đọc lại bài Vua Tần Uống Rượu, quả có thấy là chưa hoàn tất, nhưng nhất định hay thì vẫn hay. Tháng 4.1998, tôi lên Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ sao lại bài này, lúc về lại California thì bị mất cắp ở phi trường Fort Worth, Texas. Tháng 12.1998, tôi trở lại Hoa Thịnh Đốn sao chép một lần thứ hai, và bản sao thu nhỏ như phía trên. Với tôi giờ này đọc lại, vẫn thấy hay như thường.

Dịch thơ, là dịch cho nổi ý tác giả; dịch đúng vần mà không đạt ý thì đâu phải là dịch hay? Đó là thơ mình mượn ý của người. Tần Vương kỵ hổ du bát cực mà dịch là Vua Tần cưỡi cọp chơi tám cực thì hay quá rồi còn gì nữa. Vừa đối chữ, vừa chỉnh thanh. Kiếm quang chiếu không không tự bích. Ánh kiếm chỉ trời trời tự biếc thì hết ý, ai có thể dịch hay hơn? Hai chữ không không dịch thành hai chữ trời trời, đâu phải ai cũng dịch được? Hy Hòa xao nhật pha lê thanh dịch là Hy Hòa rung mặt nhật rộng tiếng pha lê thì đúng nghĩa, tuy rằng phải them chữ mặt và chữ rộn.

Câu dưới, Kiếp hôi phi tận mà dịch là Kiếp tro bay hết thì còn gì hay hơn? Cổ kim bình thì ta không cần dịch cũng được, cứ để cổ kim bình, ai mà không biết? Nhà tu này thật khó tính.

Để xem trong những bài khác, Tuệ Sỹ dịch như thế nào.

Bài Thu Lai của Lý Hạ:

Đồng phong kinh tâm tráng sĩ khổ
Suy đăng lạc vĩ đề hàn tố
Thùy khan thanh giản nhất thiên thơ
Bất khiển hoa trùng phấn không đố
Tư khiên kim dạ trường ưng trực
Vũ lãnh hương hồn điếu khách thơ
Thu phần quỉ xướng bảo gia thi
Hận huyết thiên niên thổ trung bích

Tuệ Sỹ dịch nghĩa:

Gió heo may rợn hồn tráng sĩ
Lạnh se da, dế rỉ đèn lu.
Dở trang bóng chữ lờ mờ
Mấy rây mọt phấn ơ hờ điểm hoa.
Buồn ray rứt kéo ra ruột thẳng
Khóc người thơ, mưa lạnh hồn ma
Tanh hôi giọng quỉ trên gò
Máu hờn thiên cổ xanh mồ cỏ thu.
(Tuệ Sỹ, Thời Tập, 1973)

Như dịch giả ghi chú, đây chỉ là dịch nghĩa. Dịch giả dùng thể song thất lục bát, hai câu bảy, rồi một câu lục một câu bát. Câu thứ ba có hai chữ tuyệt vời: Bóng Chữ. Phải chăng nhà thơ Lê Đạt ở Hà Nội đã đọc bài này trước khi in tập thơ Bóng Chữ cách đây vài năm?

Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn
Treo gót hài trên mái tóc vào thu…
(Tuệ Sỹ, Mười Nam Trong Cuộc Lữ)

Cho tới nay, kể cả những bài thơ đầu tiên đăng trên Tạp chí Tư Tưởng, năm 1970, Tuệ Sỹ chỉ mới cho phổ biến được khoảng dưới 10 bài thơ. Thời gian ở tù, ông có chuyển ra ngoài một số bài, song ít người được đọc.

Dâng nhúm cơm tù phạm
Cúng dường Đấng Tối Cao
Cõi Đời đằmmáu hận
Nâng chén nước mắt trào.
(Tuệ Sỹ, Cúng Dường)

Thơ Tuệ Sỹ giai đoạn đầu cho người đọc thấy một pha trộn kỹ thuật của người đã đọc nhuần nhuyễn VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH của Nguyễn Du và CUNG OÁN NGÂM KHÚC của Nguyễn Gia Thiều. Cũng có cả CHINH PHỤ NHÂM của Đặng Trần Côn. Đó là những Truyện Thơ. Thơ có chuyện để kể.

Các nhà thơ Miền Nam thập niên ’70 ít người dùng đến thể thơ truyện, như tám chữ hay song thất lục bát; Tuệ Sỹ dùng một đôi lần thể song thất, phần lớn dùng thể tám chữ. Trong 10 bài đã phổ biến của ông, ta hãy đọc:
Này đêm rộng như khe rừng cửa biển
Hai bàn tay vén lại tóc xa xưa
(Không Đề – Tạp chí Tư Tưởng bộ mới, số 8, 12.1970)

Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn
Treo gót hài trên mái tóc vào thu.
(Mười Năm Trong Cuộc Lữ, Tư Tưởng)

Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
(Tôi Vẫn Đợi)

Chuyện đã kể rồi hồng hoang lững thững
Vẫy tay chào nối gót chẳng buồn trông
(…)
Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi (trên) đồi hoang.
(Mơ Tuổi Vàng, Khởi Hành)

Thơ tám chữ, bản chất là thơ kể. Bài thơ tám chữ được nhắc nhở nhiều nhất thời Tiền chiến là bài Nhớ Rừng của Thế Lữ:
Gậm một mối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
(Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh Hoài Chân, Hoa Tiên, 1968)

Sau 1954, Đinh Hùng là vua thơ tám chữ ở Miền Nam:
Lòng đã khác, ta trở về Đô Thị
Bỏ thiên nhiên huyền bí của ta xưa.
(Bài Ca Man Rợ)

Ta thường có từng buổi sầu ghê gớm
Ở bên Em-Ôi biển sắc rừng hương!
(Kỳ Nữ)

Nhà thơ Viên Linh và Thầy Hạnh Viên đang trò chuyện,
nhắc lại những kỷ niệm về Thầy Tuệ Sỹ
 
(Ảnh: Uyên Nguyên)

Trong lớp các thi sĩ lúc ấy, Tuệ Sỹ nổi lên với những bài thơ tám chữ mênh mang, kể những chuyện từ tâm thức hồng hoang xáo trộn với thời thế nhiễu nhương, trong đó những hình ảnh bát ngát nhất là núi rừng, dòng sông cạn, triều dâng, nước chảy, nước lũ, bờ bến lạ, ghềnh đá dựng, suối trăng, tóc xa xưa, tóc huyền, tóc vào thu, tóc cũ, tóc trắng, nói mộng, viễn mộng, cuộc lữ… Nếu thơ Phạm Thiên Thư đầy màu xanh hoa vàng của một thiên nhiên êm đềm thì thơ Tuệ Sỹ phiêu hốt hùng vĩ với màu đá, màu rừng già khô lạnh, thác ghềnh, và một mái tóc sơ huyền. Đó là những thiên nhiên khác.

Thơ tám chữ không ẻo lả như lục bát. Tuệ Sỹ nhỏ người, mà rất cứng cỏi. Lời thơ ông không là lời nói xuông xẻ, êm tai, mà là khối tâm sự ngổn ngang. Trước hết, nghĩ về mình, có thể ông nghĩ như sau:
Như cánh hải âu cuối trời biển lộng
Bồng bềnh bay theo cánh mỏng ngàn đời…

Cánh hải âu ấy hay bay lượn trên một bờ biển hoang vu, tìm nét hồng trong đá xám, kiếm huyền nhiệm trong biểu dâu hưng phế:
Chiều lắng đọng thênh thang ghềnh đá dựng
Những nỗi buồn nhân tế cũng phôi pha.
Màu nhiệm nào đằng sau bao hủy diệt
Mà nụ hồn vừa nở thắm ven khe.

Nếu cho mình là cánh chim, thì cánh chim Tuệ Sỹ thấy thiên nhiên đất trời vô cùng khắc nghiệt:
Hàng thạch thảo dọc thiên đường tàn úa
Tháng ngày qua thoáng hắt bóng trên đồi
Con chim sớm bay tìm từng hạt lúa…

Một buổi sáng nghe chim buồn đổi giọng
Người thấy ta xô dạt bong thiên thần.

Tuệ Sỹ Phạm Văn Thương sinh ngày 15 tháng 2, 1943 tại Paksé, Lào, nguyên quán Quảng Bình, Trung phần, Việt Nam, qui y Phật từ thuở đồng nhi, tốt nghiệp Viện Cao Đẳng Phật Học Sàigòn năm 1964 và Viện Đại Học Vạn Hạnh năm 1965, phân khoa Phật học. Được đặc cách bổ nhiệm Giáo sư thực thụ Viện Đại Học Vạn Hạnh từ năm 1970 nhờ những công trình nghiên cứu và những khảo luận Triết học có giá trị hết sức cao, như ĐẠI CƯƠNG VỀ THIỀN QUÁN, TRIẾT HỌC VỀ TÁNH KHÔNG (Sunyavada), (An Tiêm Saigon, 1970). Rất giỏi chữ Hán, rành chữ Pháp, chữ Anh, đọc được chữ Pali và chữ Phạn. Ông cũng đọc hiểu tiếng Đức, nghiên cứu kỹ Heideger và Hoelderlin. Cuốn THIỀN LUẬN nổi tiếng của D.T Suzuki bản Việt ngữ là do ông dịch.

Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật giáo nguyên thủy và Đại thừa, đọc và nghiên cứu Tô Đông Phap từ nguyên tác, để lại một tác phẩm chan hòa tính thơ: TÔ ĐÔNG PHA, NHỮNG PHƯƠNG TRỜI VIỄN MỘNG (Ca Dao Saigon, 1973). Những lúc rảnh, ông chơi dương cầm. Ông làm nhiều thơ, viết một số truyện ngắn đặc sắc, phần lớn đăng trên Tạp chí Khởi Hành (1969-1972) và Thời Tập (1973-1975), khi đứng tê trong Bộ Biên Tập tạp chí này. Ông cũng là Chủ bút Tạp chí Tư Tưởng của Viện Đại Học Vạn Hạnh.

Vào ngày 1 tháng 4, 1984, Thượng Tọa Tuệ Sỹ bị nhà cầm quyền Hà Nội bắt giữ cùng giáo sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát và 19 Tăng ni, sĩ quan cũ của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, bị kết án mưu võ trang lật đổ chính quyền và trong phiên tòa kéo dài nhiều ngày cuối tháng 9,1988, ngày 30 ông bị lên án tử hình cùng giáo sư Lê Mạnh Thát. Cộng sản nói có tìm thấy võ khí trong Chùa Già Lam.

Do sự tranh đấu tích cực của các Cơ quan Nhân quyền Quốc tế, trong có Hội Ân Xá Quốc Tế và Văn Bút Thế Giới, cũng như Ủy ban Tranh đấu cho Quyền Làm Người Việt Nam v.v.., Hà Nội phải giảm án xuống còn chung thân khổ sai, đem giam Tuệ Sỹ tại trại A.20 tại Phú Yên. Tháng 10, 1994, cùng 200 tù nhân, ông tham gia biểu tình đòi gặp phái đoàn Liên Hiệp Quốc và thực hiện các quyền khác, nên bị Hà Nội đày ra Bắc.

Những lời tuyên bố của người tù lương tâm Tuệ Sỹ, tại Tòa Án, cũng như khí phách kiên cường lúc trong tù, là gương sang chói lọi, và niềm tự hào của Phật giáo: “Lập trường của chúng tôi là lập trường của Phật giáo, là lập trường của toàn khối dân tộc”. (trích theo Hòa Thượng Thích Mãn Giác). Năm 1998, Hà Nội thả Thượng tọa, cùng với một số người khác. Trước đó, ông tuyệt thực trong tù. Trước khi thả, họ muốn Tuệ Sỹ ký vào lá đơn Xin Khoan Hồng để gởi lên ông Chủ tịch Nước Trần Đức Lương, Tuệ Sỹ trả lời: “Không ai có quyền xét xử tôi, không ai có quyền ân xá tôi”. Họ nói không viết đơn thì không thả. Tuệ Sỹ không viết, và tuyệt thực. Họ phải thả ông, sau 10 ngày tuyệt thực. Hôm đó là ngày 1.9,1998.

Sáng hôm sau, lúc 10 giờ 45, Thượng tọa Tuệ Sỹ được đưa lên tàu hỏa về Nam. Thượng Tọa ngồi suốt 36 tiếng đồng hồ trên tàu thì không thể chịu đựng thêm, vì rất yếu sau 10 ngày không ăn ở trong tù. Ông xuống Nha trang, vào Phật học viện Hải Đức.

Thượng Tọa Tuệ Sỹ tuyệt thực một mình, không có tổ chức, báo chí không biết. Ông tuyệt thực “để khẳng định mình”. Như ông nói. Ít lâu sau, Hà Nội lại ra lệnh ông phải về chốn cũ, là Chùa Già Lam ở Gia Định, chứ không được ở lại Hải Đức. Ông từ chối, viết một lá thư gửi nhà cầm quyền Hà Nội, nói một là ở Hải Đức, hai là vào tù trở lại. Tin này có loan trên báo chí hải ngoại.

Trước sau, tác giả Những Phương Trời Viễn Mộng đã bị giữ trong nhà tù Cộng sản 14 năm. Giữa tháng 4.1999, Hòa thượng Quảng Độ đề cử Thượng Tọa Tuệ Sỹ làm Tổng Thư Ký Viện Hóa Đạo.

Hình bóng thiên nhiên khắc nghiệt, mà hình bóng con người cũng không hơn. Chia xa, mất hút. Kể cả con người ấy là mẹ:
Mẹ già thôi khóc cho thân phụ
Lại khóc cho đời ta phiêu linh

Con người trong thơ Tuệ Sỹ không được thể hiện bằng vóc dáng, dung nhan, cặp môi, khoé mắt, tiếng cười, giọng nói. Con người trong thơ Tuệ Sỹ chỉ là mái tóc. Có cả năm bảy mái tóc trong tâm thức Ðông tà:
Tang thương một giải tóc huyền
Bãi dâu ngàn suối mấy miền hoang vu.
Gởi thân gió cuốn sa mù
Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng
Chênh vênh hoa đỏ nắng vàng
Gót xiêu dốc núi vai mang mây chiều
Tóc huyền loạn cả nguyên tiêu
Lãng du ai ngỡ cô liêu bạc đầu
(Sơ Huyền, Khởi Hành)

Xưa xanh lên tóc huyền sương nặng
Trong giấc mơ lá dạt xa bờ.
(Mùa Mưa Cao Nguyên, Khởi Hành)

Bờ bến lạ chút tự tình với bóng
Mây lạc loài ôi tóc cũ ngàn năm
Nào đâu nữa tóc em như gió cuốn
Người ra đi tâm sự với hoàng hôn

Tượng đồng tạc bóng cô liêu
Trời xanh tóc trắng bao nhiêu chuyện rồi
Này đêm rộng như khe rừng cửa biển
Hai bàn tay vén lại tóc xa xưa
(Không Ðề, Tư Tưởng)

Mái tóc trong thơ Tuệ Sỹ phải chăng là bờ môi nhục cảm trong thơ Xuân Diệu, vì Xuân Diệu không sợ tiếp xúc; phải chăng là con mắt đắm đuối của Hàn Mặc Tử, vì Hàn Mặc Tử không thể đụng chạm; hay đó là bàn tay trong thơ Lưu Trọng Lư, vì Lưu Trọng Lư ngại chia phôi?

Mái tóc trong thơ Tuệ Sỹ phải chăng là bờ vai của Huy Cận, vì Huy Cận muốn tựa đầu; là xiêm áo của Bích Khê, vì Bích Khê suốt đời mong một dáng tầm xuân, một tấm thân kiều diễm? Mái tóc của Tuệ Sỹ phải chăng là bàn chân của Ðinh Hùng, vì Ðinh Hùng luôn luôn quì dâng, sùng bái? Là lưng mềm của Vũ Hoàng Chương, bởi Vũ Hoàng Chương thích riết đôi tay, tiến đôi chân? Mái tóc ấy là gì? Một thục nữ? Một giai nhân? Những câu hỏi ấy đêm nay tôi chẳng thể trả lời, chỉ biết mái tóc trong thơ Tuệ Sỹ chưa chắc là có thật, mà có thật; chưa hẳn là không, mà vẫn không. Mái tóc ấy, biết đâu chẳng phải là một phương trời viễn mộng, cái viễn mộng thanh cao của một thị giả thích ngắm nhìn đất đỏ, áo xanh, cỏ vàng, đêm đen, nụ hồng, và tóc? Mái tóc ấy nhất định là người, song là ai? Hay chẳng là ai cả, mà chỉ là những đổi thay trong Cuộc Lữ, từ lúc mưa xanh tới nắng hạ, từ hồng hoang tới tàn úa thiên đường?

Và, tâm thức ấy, vì sao lại nhìn thấy tù ngục, như trong bài Tôi Vẫn Ðợi:
Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối hận thù tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng.

Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen huyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm Lịch Sử
Dài con sông tràn máu lệ Quê Cha…

Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
Người ở lại với bàn tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng bóng tà dương.

Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi khép lại hàng mi về cõi mộng
Như sương mai như bóng chớp mây chiều.

Bài thơ trên quả là Một lần định như sao ngàn đã định. Ðịnh từ một Cái định của ngàn sao, của không hư. Của 14 năm tù đày. Cho Quê Hương và Ðạo Pháp.

5.1999
VIÊN LINH
Khởi Hành

Friday, September 15, 2023

Thị Nghĩa Trần Trung Đạo: Có Một Vầng Trăng Vẫn Đợi Chờ

 

Tuần lễ này 18 năm trước, tháng 9, 2005, tôi đến Nam California để giới thiệu tập 3 tác phẩm Tâm Bút, Giấc Mơ Việt Nam và Thơ Trần Trung Đạo. Vì là buổi giới thiệu tác phẩm nên ban tổ chức chỉ gởi thư cung thỉnh một số tôn đức lãnh đạo văn hóa của giáo hội hay cùng có một Quê hương Quảng Nam Đà Nẵng với tôi đến tham dự. Hòa Thượng Thích Hành Đạo, người Quảng Nam, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu, Tổng Vụ Trưởng Văn Hóa, đều quang lâm tham dự.

Anh Lê Văn Thạnh, Hội trưởng Hội Cựu Sinh Viên Đại Học Vạn Hạnh, cung thỉnh Hòa Thượng Thích Mãn Giác với tư cách Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh và cũng là thi sĩ Huyền Không, tác giả của bài thơ “Nhớ Chùa” viết từ năm 1949.

Nhưng Thầy có thân bệnh nên không đến được. Thầy viết trên giấy một tin nhắn và nhờ anh hội trưởng trao lại. Tôi nhớ rõ dòng chữ của Thầy “Đạo ơi, thầy bịnh quá, không thể đến được, con gởi cho thầy một tập thơ.” Dĩ nhiên tôi gởi ngay.

Thầy trò chúng tôi sau cơn bão đã gặp lại nhau trong tang lễ của Huynh trưởng Viên Lạc Phạm Gia Bình năm 1993. Từ đó mỗi khi Thầy về thăm chùa Phật Giáo Việt Nam tại Boston tôi đều đến đảnh lễ và thầy trò kể lại chuyện xưa. Chùa Pháp Hoa nơi thầy trú bên kia hẻm 220 Trương Minh Giảng, văn phòng Phó Viện Trưởng rộng và nhộn nhịp ở tầng một, nụ cười hiền hòa, giọng Huế đọc thơ nhẹ nhàng của Thầy. Trong không gian Vạn Hạnh ngày đó tràn ngập thơ và thơ. Bên cạnh Vũ Hoàng Chương, Trụ Vũ, Tuệ Sỹ, Hoài Khanh, Bùi Giáng, Trần Đới v.v… còn có Huyền Không.

Ta từ sinh tử về chơi
Ngồi trên chóp đỉnh mỉm cười với trăng
Thân ta là giải đất bằng
Tâm ta là nước sông Hằng mênh mông.
(Thơ Huyền Không, tức HT Mãn Giác)

Hôm đó cầm lá thư ngắn của Thầy, tôi cảm động nhưng không biết đó là tin nhắn cuối cùng. Sáng ngày 13 tháng 10, 2006, tôi nhận được tin Thầy ra đi và ngồi xuống viết bài thơ dưới đây để kính tiễn giác linh Thầy chúng tôi:

THẦY ĐÃ ĐI RỒI
(Kính tiễn Giác Linh Hòa Thượng Thích Mãn Giác, Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh)

Thầy đã đi rồi buổi sáng nay
Giọt sương vừa rụng giữa bàn tay
Tiếng chuông thiền tịnh ngân chưa dứt
Mà học trò xưa vĩnh biệt thầy
Thầy hết đau rồi, tâm thảnh thơi
Hết buồn nhân thế chuyện đầy vơi
Thong dong nhẹ bước qua bờ giác
Trả lại buồn vui lẫn khóc cười
Thầy đã về thăm phố Huế mơ
Thuyền Từ chở nặng một hồn thơ
Huế ơi mấy độ trăng tròn khuyết
Có một vầng trăng vẫn đợi chờ
Thầy đã đi rồi thương nhớ thôi
Ngàn năm bóng hạc trắng lưng trời
Dẫu xưa đã biết không là có
Sao vẫn buồn, nghe chiếc lá rơi
Thầy đã đi rồi, qua bến sông
Bài thơ năm đó khắc trong lòng
“Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.”

Trần Trung Đạo
Boston, Hoa Kỳ 13-10-2006

Thursday, September 7, 2023

Krissy Pozatek | Tâm Thường Định dịch Việt: 5 Bài Học Cha Mẹ Có Thể Học Được Từ Đạo Phật

 

Khi Phật giáo tiếp tục phổ biến trong văn hóa phương Tây, một số nguyên tắc nhất định đã được đưa vào các cuộc thảo luận về cách trở thành cha mẹ tốt hơn. Những ý tưởng về “Thiền” và “từ bi”, và tất nhiên, “chánh niệm” xuất hiện trong ý tưởng chúng ta dễ dàng nhất. Nhưng những khái niệm này thực sự có ý nghĩa gì trong thực tế?

Là tác giả của cuốn sách nuôi dạy con lấy cảm hứng từ Phật giáo có tựa đề Nuôi dạy con mạnh mẽ, tôi cực kỳ quan tâm đến việc tích hợp những triết lý mạnh mẽ của Phật giáo vào việc nuôi dạy con cái hàng ngày. Một trong những mục tiêu chính trong phương pháp của tôi là giúp trẻ trưởng thành về mặt cảm xúc và khả năng phục hồi cảm xúc, đồng thời làm cho cuộc sống hàng ngày của cha mẹ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều.

Điều này không có nghĩa là lúc nào cũng bình yên và tĩnh lặng. Đó là về việc thay đổi mối quan hệ của chúng ta với những thách thức mà việc nuôi dạy con cái mang lại. Đó là trải nghiệm mọi cảm xúc mà không có phản ứng.

Dưới đây là năm nguyên tắc thiết yếu lấy cảm hứng từ Phật giáo sẽ giúp bạn trong hành trình nuôi dạy con cái.

1. Nhận thức rằng tâm trí ổn định là tâm trí mạnh mẽ.

Theo đạo Phật, cuộc sống luôn thay đổi. Và vì lý do đó, sự ổn định không đến từ hoàn cảnh bên ngoài, mà đến từ cách chúng ta liên hệ với những hoàn cảnh luôn thay đổi: chúng ta có thể chọn cách trau dồi một tâm trí ổn định.

Hầu hết chúng ta đều có trạng thái tinh thần tăng giảm dựa trên các sự kiện hàng ngày mà chúng ta cho là “tốt” hay “xấu”: một cái ôm và nụ cười từ con gái bạn là tốt, trong khi bị kẹt xe và đi họp muộn là xấu. Phật giáo khuyến khích bạn đối mặt với mọi sự việc với tâm bình thản. Mọi thứ vẫn như cũ và bạn tự tạo cho mình cảm giác mạnh mẽ sâu sắc khi chấp nhận điều đó. Bạn có thể dạy điều này cho trẻ bằng cách tự làm mẫu. Thực hành thiền là một cách tuyệt vời để phát triển tâm trí ổn định.

2. Đưa khái niệm vô thường vào cuộc sống của bạn.

Trong nền văn hóa của chúng ta, hầu hết chúng ta đều né tránh ý tưởng rằng mọi thứ luôn thay đổi. Chúng tôi thích thói quen, thói quen và sự nhất quán. Nhưng có một trí tuệ tuyệt vời trong quan niệm của Phật giáo rằng mọi sự vật đều chuyển động không ngừng, và nói rộng ra là vô thường.

Không phải để bi quan, nhưng cái chết là một phần của việc này. Mọi sinh vật đều chết; nó chỉ đơn giản là chu kỳ tự nhiên của cuộc sống. Chúng ta có thể dạy điều này cho trẻ em không phải như một điều gì đó đáng sợ mà bằng cách thừa nhận quá trình tự nhiên của cuộc sống – cho dù đó là hoa héo, quả bí ngô thối hay lá rụng vào mùa thu.

Ở mức độ thường ngày hơn, chúng ta có thể học cách chấp nhận thay vì sợ hãi trước sự thay đổi. Chúng ta có thể dạy con mình rằng thay đổi là điều tự nhiên và cách tốt nhất để giải quyết vấn đề vô thường là biết ơn mỗi ngày vì mỗi ngày đều khác nhau và độc đáo. Lòng biết ơn có thể được coi là trái ngược với quyền lợi.

3. Học cách chấp nhận sự lo lắng.

Người Phật tử biết rằng vì vô thường mà nỗi lo lắng tiềm ẩn luôn tồn tại. Lo lắng không phải là dấu hiệu cho thấy có điều gì đó không ổn, nó là một trải nghiệm khi sống trong một thế giới vô thường. Vì vậy, đây không phải là cảm giác mà chúng ta có thể “sửa chữa” ở bản thân cũng như ở con cái mình. Lo lắng là cảm xúc bình thường mà mỗi con người đều cảm thấy và nỗi đau khổ xung quanh nó sẽ tan biến khi chúng ta thừa nhận và chấp nhận nó.

4. Đơn giản chỉ cần chú ý đến cảm xúc của con bạn, mọi cảm xúc.

Phật giáo khuyến khích chúng ta chú ý đến những biến động của cuộc sống và nhận biết những gì đang diễn ra. Vì lý do này, cảm xúc không phải là “tốt” hay “xấu”. Người Phật tử nhận ra bản chất của cảm xúc: những sứ giả mang thông tin về thời điểm chúng ta đang diễn ra.

Biết rằng cảm xúc dâng trào và biến mất, chúng ta có thể dạy trẻ học cách xử lý cảm xúc theo cách tự nhiên nhất – đó là hiện diện và trải nghiệm chúng cho đến khi chúng qua đi. Cha mẹ không cần phải làm gián đoạn quá trình này để khắc phục hoặc thay đổi cảm xúc.

5. Hãy tin tưởng rằng con bạn có khả năng kiên cường.

Trong cuộc sống hàng ngày luôn có sự mất mát và thất vọng. Nhiều bậc cha mẹ ngày nay nâng niu và bảo vệ con mình khỏi những khó khăn của cuộc sống, và đây là bản năng tự nhiên. Tuy nhiên, tôi khuyến khích các bậc cha mẹ hãy cho phép con mình đối diện “bất trắc”.

Những cuộc đấu tranh cho sự an toàn là những thất vọng và thất bại bình thường hàng ngày xung quanh bài tập ở nhà, xung đột giữa anh chị em, bạn bè, quy tắc, công việc, v.v. Khi trẻ được phép đấu tranh, chúng có nhiều khả năng bắt đầu giải quyết vấn đề và xây dựng khả năng phục hồi trước những thăng trầm của cuộc sống mà không cần hoặc không muốn được cha mẹ giải cứu.

Có một bài giảng Phật giáo tuyệt vời của Shanti Deva, một tu sĩ Phật giáo thế kỷ thứ tám. Ông ấy đã nói điều gì đó như thế này: Khi bạn bước đi trên mặt đất, đôi chân của bạn có nguy cơ bị đứt. Bạn có thể trải da ở bất cứ nơi nào bạn đi bộ, hoặc thay vào đó quấn da quanh chân và làm một đôi giày da đanh.

Khi chúng ta lo toang với tư cách là cha mẹ, chúng ta đang đặt tấm da để bảo vệ con cái khỏi bất trắc của cuộc sống, nhưng thay vì như vậy, hãy dạy chúng tự làm giày da để chúng có thể tự vượt qua các chướng ngại vật và xây dựng khả năng phục hồi tự nhiên của riêng mình.

_______________

Krissy Pozatek, MSW, là tác giả, nhà trị liệu và chuyên gia nuôi dạy con cái. Cô là tác giả của cuốn sách Nuôi dạy con mạnh mẽ: Hướng dẫn lấy cảm hứng từ Phật giáo để nuôi dạy những đứa trẻ kiên cường về mặt cảm xúc và Quá trình song song: Phát triển cùng với trẻ vị thành niên hoặc trẻ trưởng thành trong quá trình trị liệu. Sau một thập kỷ làm nhà trị liệu nơi hoang dã, Pozatek đã xác định các khái niệm và kỹ năng mà trẻ em đạt được ở nơi hoang dã và tích hợp chúng vào việc nuôi dạy con cái hàng ngày để trẻ có thể thích nghi và kiên cường hơn. Bạn có thể truy cập trang web của cô ấy tại Parallel-Process.com hoặc KrissyPozatek.com. Hoặc trên Twitter tại @krissypozatek.

Source:

5 Lessons All Parents Could Learn From Buddhism

By Krissy Pozatek, MSW

As Buddhism continues to increase in popularity in Western culture, certain principles have entered the discourse of how to be a better parent. The ideas of being “Zen” and “compassionate,” and, of course, “mindful” come most readily to mind. But what do these concepts really mean in practice?

As the author of a Buddhist-inspired parenting book entitled Brave Parenting, I’m extremely interested in integrating the powerful philosophies of Buddhism into everyday parenting. One of the principle goals of my method is to enable children’s emotional maturation and emotional resilience, while also making the everyday life of being a parent a whole lot easier.

Let me say that this does not mean being peaceful and calm all the time. It’s about changing our relationship to the challenges parenting presents. It’s about experiencing all emotions without reactivity.

Here are five essential Buddhist-inspired principles that will help you in your parenting journey.

1. Recognize that a stable mind is a powerful mind.

According to Buddhism, life is constantly in flux. And for that reason, stability doesn’t come from external circumstances, but from the way we relate to constantly-changing circumstances: we can choose to cultivate a stable mind.

Most of us have mental states that rise and fall based on daily events that we perceive as “good” or “bad”: a hug and smile from your daughter is good, while getting stuck in traffic and being late for a meeting is bad. Buddhism encourages you to meet all events with equanimity. Things just are, and you give yourself a profound sense of power in accepting that. You can teach this to kids by modeling it yourself. A meditation practice is a great way to develop a stable mind.

2. Invite the concept of impermanence into your life.

In our culture, most of us shy away from the idea that things are constantly changing. We like routine, habit, consistency. But there’s great wisdom in the Buddhist notion that all things are in constant motion, and by extension, impermanent.

Not to get morbid, but death is part of this. All living things die; it’s simply the natural cycle of life. We can teach this to kids not as something scary, but by acknowledging the natural process of life — whether it is flowers wilting, a pumpkin rotting or leaves falling in autumn.

On a more everyday level, we can learn to accept, rather than fear, change at large. We can teach our kids that change is natural and that the best way to work with impermanence is to be grateful for everyday because every day is different and unique. Gratitude can be thought of as the opposite of entitlement.

3. Learn to be OK with anxiety.

Buddhists know that because of impermanence an underlying anxiety always exists. Anxiety is not a sign that something is wrong, it is an experience of being alive in an impermanent world. So this is not a feeling we can “fix” in ourselves, nor in our kids. Anxiety is a normal emotion every human feels and our suffering around it dissipates when we acknowledge and accept it.

4. Simply pay attention to your child’s emotions, all emotions.

Buddhism encourages us to pay attention to life’s fluctuations, and noticing what is. For this reason, emotions are not “good” or “bad.” Buddhists recognize emotions for what they are: messengers with information about the moment we are in.

Knowing that emotions rise up and fall away, we can teach kids to learn to process their emotions in the most natural way — which is staying present and experiencing them until they pass. Parents do not need to interrupt this process to fix or change feelings.

5. Trust that your child is resilient.

In everyday life, there is loss and disappointment. Many parents today cushion and protect their children from the sharp edges of life, and this is a natural instinct. However, I challenge parents to allow their kids to have “safe” struggle.

Safe struggles are normal everyday disappointments and setbacks around homework, sibling conflicts, friends, rules, chores, and soon. When kids are allowed to struggle they are more likely to begin to problem-solve and build up resilience to life’s ups and downs, without needing or wanting to be rescued by a parent.

There is a great Buddhist teaching by Shanti Deva, an eighth century Buddhist Monk. He said something like this: When you walk on the Earth your feet may get cut. You can either lay down hides of leather wherever you walk, or instead wrap leather around your feet and make a pair of moccasins.

When we hover as parents, we are laying down leather to protect kids from life, rather than teaching them to make their own moccasins so they can navigate their own obstacles and build up their own natural resilience.