Showing posts with label GĐPT. Show all posts
Showing posts with label GĐPT. Show all posts

Tuesday, July 18, 2017

ĐÊM HẠNH NGỘ TÌNH LAM - Tâm tình và Thơ ca Phật Giáo

Kính mời tham dự “ĐÊM HẠNH NGỘ TÌNH LAM - Tâm tình và Thơ ca Phật Giáo” tại Miền Bắc California

ĐÊM HẠNH NGỘ TÌNH LAM - Tâm tình và Thơ ca Phật Giáo

tại Chùa Phổ Từ, Hayward, CA
địa chỉ: 17327 Meekland Ave, Hayward, CA 94541 
ngày Thứ Bảy 29.7.2017, từ 17:00 giờ đến 21:00 giờ.
Chương trình do Thân hữu Áo Lam tổ chức.

Chương trình buổi sinh họat vào Thứ Bảy, 29 tháng 7 năm 2017, dự định từ 4 giờ chiều cho đến 9 giờ tối, như sau:
- 4 giờ chiều Thân hữu, Huynh trưởng GĐPT họp mặt 
- 5 giờ Dùng cơm chiều thân mật.
- 6 giờ 30 đến 9 giờ tối Buổi Sinh họat "Tâm tình và Thơ ca Phật giáo".

Mọi chi tiết, hãy liên lạc: 
Tâm Thường Định: (916) 607-4066
Quảng Ý - Huỳnh Vĩnh Linh: (510) 390-2410
Thị Nghĩa - Trần Trung Đạo: (781) 424-6811
Uyên Nguyên - Quảng Pháp: (714) 765-9844

Đọc lời giới thiệu về thơ Ngô Văn Quy ở đây.

1. Uyên Nguyên – Thơ Ngô Vân Quy, Phù Sa Lớp Lớp Khai Bồi


2. Đọc thơ Trần Trung Đạo ở đây.
3. Giới thiệu TRẦN TRUNG ĐẠO – BIỂU TƯỢNG HÀNH TRÌNH TỰ DO

4. Đọc lời giới thiệu thơ Tâm Thường Định ở đây.

Bạch Xuân Phẻ, Người Thơ Dưới Bóng Thiền





Sunday, February 12, 2017

Tân Xuân tỉnh thức – Xuân Đinh Dậu


Pháp thoại: Tân Xuân tỉnh thức – Xuân Đinh Dậu
                                                           Thích Thái Hòa

Nam Mô Bổn Sư Thích ca Mâu Ni Phật;
Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Từ Thị Di Lặc Tôn Phật.
Thưa đại chúng,
Hôm nay là ngày mồng hai Tết, năm Đinh Dậu. Đại chúng đã vân tập tại Tịnh nhân Thiền đường chùa Phước Duyên – Huế, dâng lời tác bạch cúng dường đầu năm lên Tam Bảo và chúc tết chư Tăng tại bản tự. Tôi xin thay mặt chư Tôn đức, ghi nhận lời tác bạch chúc tết đầu năm của quý vị và sau đây tôi xin chia sẻ pháp thoại Tân Xuân tỉnh thức đến quý vị, xin quý vị yên lặng lắng nghe.
Thưa quý vị,
Năm Bính Thân đi qua, năm Đinh Dậu lại về, xin Đại chúng ngồi thật yên lặng để quán chiếu những vấn đề mà tôi sắp chia sẻ đến với quý vị hôm nay.
Cũ và mới.
Quý vị hãy quán chiếu hai chất liệu cũ và mới ở trong đời sống của mỗi chúng ta.
Quý vị thấy rằng, năm Bính Thân đã đi qua là năm cũ, năm Đinh Dậu đang đến với chúng ta là năm mới. Năm cũ là cũ với năm mới và năm mới hôm nay sẽ là năm cũ của sang năm.
Năm này là năm mới của năm ngoái, nhưng nó sẽ là năm cũ của sang năm. Có đôi người không hiểu thế nào là cũ và mới, từ đó sinh ra hai khuynh hướng trong đời sống của chính họ, đó là khuynh hướng bảo thủ và khuynh hướng đổi mới. Hai khuynh hướng này luôn luôn xung đột nhau và tạo ra mâu thuẫn cho chính họ và cho những người xung quanh họ. Không biết được trong cái cũ, có cái mới và không biết được trong cái mới, có cái cũ là sự hiểu biết của chúng ta bị thiệt thòi rất là nhiều đối với đời sống. Người nào chỉ thấy cái cũ mà không thấy cái mới, thì đời sống của người đó bị rơi vào sự bảo thủ một cách phiến diện;  Người nào chỉ thấy cái mới mà không thấy cái cũ, thì người ấy suốt ngày chạy rong ngoài đường rượt bắt cái này, thả cái kia và tự cho mình là người đổi mới hay là người tiến bộ. Nhưng thật ra trong đời sống của họ, chẳng có gì là đổi mới và chẳng có gì tiến bộ cả.
Trong thiền quán giúp cho chúng ta thấy rằng, không có cái cũ nào là cái cũ đơn thuần và cũng không có cái mới nào là cái mới đơn thuần. Cái mới có mặt trong cái cũ là cái mới có cơ sở để tồn tại và phát triển. Cái mới như vậy sẽ không bị mất gốc. Cái cũ có mặt trong cái mới có tác dụng làm cho cái mới có giá trị bền vững, khiến cho cái mới không bị hỏng chân. Đồng thời cái cũ có mặt trong cái mới, cái cũ ấy không bị lên mốc và không bị bỏ quên. Chúng ta phần nhiều chỉ nhìn thấy cái mới đơn thuần, chứ ít ai nhìn thấy cái mới có mặt trong cái cũ và cái cũ cũng đang có mặt ở trong cái mới. Với cái thấy này, giúp cho chúng ta có khả năng tái tạo cái cũ thành cái mới một cách bền vững. Với cách thấy này, giúp cho chúng ta tái tạo một đời sống mới, trên một nền tảng tốt đẹp mà chúng ta vốn có từ bản thân với những sự hỗ trợ từ phước báo của gia đình và tổ tiên chúng ta. Khi chúng ta hiểu được như vậy, thì chúng ta sẽ không rơi vào hai thế lực cũ và mới đối đầu với nhau. Nếu cũ và mới đối đầu với nhau, thì cuối cùng cũ cũng không ra gì và mới cũng chẳng ra gì. Mùa xuân thật sự có mặt, khi nào người già biết chấp nhận cái mới của người trẻ và người trẻ biết chấp nhận cái cũ của người già. Mới và cũ, già và trẻ là hai mặt của một thực tại sống động. Những người trẻ do nhận ra được điều này, nên họ rất thương quý người già và không bao giờ có những lời khiếm nhã với người lớn tuổi. Và người già cũng nhận ra được điều này, nên họ cũng không bao giờ, khinh thường người trẻ. Ta chỉ có mùa xuân khi người lớn biết ôm ấp người trẻ, và người trẻ không quên ơn người lớn. Sở dĩ, trong đời sống, ta không có mùa xuân, vì người lớn không biết chấp nhận những tư duy mới mẻ của người trẻ và người trẻ không biết chấp nhận và kế thừa những tinh túy từ người lớn.
Xã hội không êm ấm và rối loạn, vì chúng ta không biết chấp nhận nhau. Người trẻ phải nhớ rằng, mình mới hôm nay, nhưng  rồi mình sẽ cũ ngày mai. Mình mới nơi này, nhưng mình sẽ là cũ ở nơi kia và mình cũ ở nơi này, nhưng mình sẽ mới ở nơi khác. Nên, chúng ta không có mới hay cũ  luôn đâu, chúng ta mới hôm nay, nhưng rồi chúng ta sẽ cũ ngày mai. Chúng ta già và cũ hôm nay, nhưng sẽ trẻ và mới ngày mai. Khi nào chúng ta hiểu được thực tại vốn như vậy, thì chúng ta mới có đủ khả năng chế tác ra mùa xuân cho chính chúng ta, cho gia đình chúng ta, cho xã hội của chúng ta. Mùa xuân và hạnh phúc là điều có thực cho những ai biết tiếp nhận cái mới từ cái cũ và từ nơi cái cũ mà đổi mới.
Thuận và nghịch.
Có cái nghịch nào mà không có cái thuận và có cái thuận nào mà không có cái nghịch. Về mặt thời gian, có ngày thì có đêm, ngày là nghịch của đêm và đêm là nghịch của ngày. Nhưng cả ngày và đêm đều mang đến sự sống cho mỗi chúng ta, cho mọi sinh vật và ôn hòa cho mọi môi sinh. Chỉ có những người tà kiến mới chấp nhận ngày mà không chấp nhận đêm, hoặc chấp nhận đêm mà không chấp nhận ngày, khiến cho họ khổ công đối phó và triệt tiêu nhau.
Ta không thấy được tác dụng của ban ngày như chính nó và không thấy được tác dụng của ban đêm như chính nó, thì chính chúng ta là người điên đảo, sống với sự đảo lộn khiến đêm trở thành ngày và ngày trở thành đêm; do đó trong đời sống của chính ta xuân không ra xuân, hạ không ra hạ, thu không ra thu, đông không ra đông. Và cũng vì sống với thời gian đảo lộn như vậy, nên khiến không gian cũng bị đảo lộn, làm cho biển không ra biển, sông không ra sông, núi không ra núi, ruộng không ra ruộng… Tất cả những đảo lộn ấy đều có gốc rễ từ tà kiến. Do tà kiến, nên không thấy được giá trị và tác dụng hỗ tương của thuận và nghịch, khiến nhiều người sống không có mùa xuân và không có khả năng tạo ra mùa xuân cho chính mình và nhiều người.
Chúng ta hãy nhìn sâu vào tính chất thuận và nghịch trong từng hơi thở vào và ra của mỗi chúng ta, để chúng ta có thể tiếp nhận mùa xuân ngay nơi hơi thở vào và ra này. Hơi thở vào đối nghịch với hơi thở ra, hơi thở ra đối nghịch với hơi thở vào. Chúng ta chấp nhận hơi thở ra mà không chấp nhận hơi thở vào thì mùa xuân của chúng ta ở đâu? Chấp nhận hơi thở vào mà không chấp nhận hơi thở ra, thì sự sống của chúng ta như thế nào? Chúng ta ai cũng thở vào và thở ra, nhưng chúng ta ít ai để ý đến hơi thở vào và ra của chính mình và trân trọng nó trong từng phút giây của sự sống. Thở vào và thở ra hay nhập và xuất thực phẩm mỗi ngày của thân thể chúng ta đều là những tố chất tạo nên mùa xuân cho chúng ta. Nếu chúng ta chỉ có thở vào mà không thở ra hoặc thở ra mà không thở vào hay chúng ta chỉ có nhập thực phẩm vào miệng trên mà không xuất phế phẩm ra ở miệng dưới, thì mùa xuân sẽ không bao giờ có mặt với chúng ta. Mùa xuân không bao giờ có mặt cho những ai chỉ biết ăn mà không biết đi toilet. Thuận và  nghịch là hai yếu tố luôn luôn tương tác trong đời sống của mỗi chúng ta. Chúng ta phải biết như vậy, để khi thở vào, chúng ta thở cho hết lòng và khi thở ra chúng ta cũng phải thở bằng tất cả tấm lòng. Chúng ta phải biết thuận nghịch một cách rõ ràng như vậy, để khi ban ngày đến, chúng ta sống cho đẹp đối với ban ngày và khi đêm về, chúng ta cũng sống cho đẹp đối với ban đêm. Khi ăn chúng ta phải ăn cho đẹp, khi đi toilet chúng ta cũng phải đi toilet cho hết lòng. Khi ăn, ta phải có tỉnh thức, từ bi và biết ơn trong khi ta ăn và trong khi đi toilet, ta cũng phải có tỉnh thức, từ bi và biết ơn trong khi ta đi toilet. Hay khi thở ra và thở vào, ta đều phải thở ở trong sự tỉnh thức, từ bi và biết ơn. Tất cả những cái thuận nghịch đó đều tạo nên mùa xuân cho chúng ta, nếu chúng ta có tỉnh thức, từ bi và biết ơn đối với chúng. Khi thở ra giúp ta có 50% hạnh phúc, khi thở vào giúp ta có 50% hạnh phúc. Cũng vậy,  khi ăn giúp ta có 50% hạnh phúc và khi đi toilet giúp ta có 50% hạnh phúc. Như vậy, muốn hạnh phúc 100%, ta phải có tỉnh thức, từ bi và biết ơn trong khi ta thở vào và ra hay trong khi ta ăn và trong khi ta đi toilet mỗi ngày.
Cho nên, chúng ta phải tiếp nhận mùa xuân ngay nơi cảnh thuận nghịch của mỗi chúng ta. Người ghét ta có thể tạo nên mùa xuân cho chúng ta, nếu chúng ta biết ôm ấp, lắng nghe những lời chỉ trích từ phía đối lập. Cái bất hạnh lớn nhất của chúng ta là không có ai chỉ trích hay góp ý cho chúng ta. Cái bất hạnh nhất của chúng ta là chúng ta chỉ cử động được một phía hoặc một phần của thân thể mà không có khả năng cử động toàn thân thể. Chúng ta chỉ chuyển động được một phần thân thể bên trái, mà không có khả năng chuyển động được phần thân thể bên phải, thì xuân đến với chúng ta chỉ có nửa vời. Xuân đến với ta nửa vời là do chúng ta có sự hiểu biết nửa vời đối với xuân. Mùa xuân thực sự có mặt với chúng ta, khi chúng ta biết chấp nhận sự thuận nghịch trong đời sống của mỗi chúng ta với sự tỉnh thức, từ bi và biết ơn. Chính sự tỉnh thức, từ bi và biết ơn giữa thuận và nghịch, tạo thành cho chúng ta một mùa xuân toàn diện.
Mất và được.
Nhìn lại năm Bính Thân, chúng ta thấy chúng ta mất gì và được gì. Chúng ta cũng sẽ nhìn lại năm Đinh Dậu, chúng ta sẽ mất gì và chúng ta sẽ được gì. Chúng ta được một tuổi thì chúng ta cũng mất đi một tuổi. Sống giữa cõi đời không có ai được hoàn toàn và cũng không có ai mất hoàn toàn. Trong cái được đã có mầm mống của cái mất và trong cái mất cũng có mầm mống của cái được. Chân lý xưa nay vốn như vậy. Sở dĩ, chúng ta không có mùa xuân, vì chúng ta không có khả năng chấp nhận cái mất có mặt ở trong cái được và cái được có mặt ở trong cái mất. Phần nhiều chúng ta chỉ chạy theo cái được và từ chối cái mất, nên chúng ta không có khả năng chế tác mùa xuân cho chính chúng ta và chúng ta cũng không có khả năng hiến tặng mùa xuân cho nhiều người. Nên nhớ, sống giữa đời không có ai là người hoàn toàn mất hay hoàn toàn được. Mỗi ngày đi qua đời ta là mỗi ngày ta đều có được và mất. Nếu không có được và mất mỗi ngày, thì làm gì trong đời sống của mỗi chúng ta có mùa xuân, mùa hạ, mùa thu và mùa đông.
Cho nên, chúng ta phải nhìn kỹ năm Bính Thân ta được gì, ta mất gì? Năm Đinh Dậu ta được gì, ta mất gì.  Và những năm tiếp theo ta sẽ được gì, ta sẽ mất gì. Nếu chúng ta là những người có trí ở trong cuộc đời, thì chúng ta nên để cho lòng tham, sự sân hận, sự trách móc, sự si mê, mù quáng, cố chấp mất đi ngay nơi những hành động của chúng ta, mất đi ngay nơi những suy nghĩ của chúng ta và nếu chúng ta là những người có trí thì hãy để những nguyên nhân sinh khởi khổ đau mất đi, ngay trong mọi hành hoạt của chúng ta, khiến chúng ta đạt được những tâm ý vô tham, đạt được những tâm ý trong sáng không giận dữ, không vì mình quên người. Những bậc có trí trong đời, sống với tâm ý được và mất như vậy, nên họ lúc nào, ở đâu, sống với ai cũng có an lạc, cũng có mùa xuân cho chính họ và cho người khác. Chúng ta nên nhớ rằng, điểm hẹn cuối cùng của được là mất. Chúng ta hãy thường xuyên quán chiếu điều này, để chúng ta thực sự có tự do trong khi ta được và thực sự có tự do trong lúc ta mất. Nhờ quán chiếu thường xuyên như vậy mà tâm ta có sự tỉnh thức và tự do giữa được và mất, khiến xuân đối với ta không bị giới hạn bởi một mùa mà bốn mùa đều là xuân. Trí hay ngu, phàm hay thánh, mê hay ngộ, Phật hay chúng sanh, nếu có khác nhau, thì khác nhau ở điểm này mà không phải điểm nào khác.
Sống ở trên đời có ai mà không được, có ai mà không mất. Nhưng được ở trong sự tỉnh thức và mất cũng ở trong sự tỉnh thức là cái được và cái mất của bậc Thánh trí mà những kẻ phàm phu cần phải noi theo để học tập. Được ở trong sự tỉnh thức và mất cũng ở trong sự tỉnh thức, nên cả được và mất đều tạo thành mùa xuân cho chúng ta.
Kiêu hãnh và thất bại
Năm này là năm của chú gà trống Đinh Dậu. Tiếng gà gáy oang oang trong đêm trường cô tịch, để báo điểm giờ giấc cho con người thức dậy, đó là niềm kiêu hãnh của chú gà trống. Nhưng cũng có khi do sự kiêu hãnh này mà chú gà bị thất bại về sự hiểu biết và giao tiếp đối với những gì chung quanh chú và láng giềng của chú. Do bệnh kiêu hãnh này, nên trong kho tàng ca dao Việt Nam đã có một câu nhận định rất hay về chó và gà: “Chó ỷ nhà, gà ỷ vườn”.  Chó ỷ nhà, nên chú chó chỉ quanh quẩn trong nhà của chú và không có khả năng chấp nhận bất cứ chú chó nào từ phía láng giềng đến nhà của chú. Gà ỷ vườn, nên chú gà chỉ quanh quẩn trong khu vườn của chú và không có khả năng chấp nhận bất cứ chú gà nào từ hàng xóm đến sinh hoạt trong vườn của chú. Chú gà chỉ kiêu hãnh ở trong bốn bức tường vườn của chú mà thôi. Kiêu hãnh ở trong bốn bức tường là kiêu hãnh sinh ra từ sự cục bộ và ngu dốt. Do ngu dốt mà kiêu hãnh. Do ngu dốt mà cục bộ. Càng kiêu hãnh từ sự ngu dốt lại càng bần tiện. Đem sự bần tiện mà giữ vườn, thì mọi sự hiện hữu ở trong khu vườn ấy đều là phản ảnh đúng cái bần tiện của kẻ giữ vườn cục bộ vậy. Cho nên, kiêu hãnh từ sự ngu dốt là trá hình của mọi sự thất bại.
Cũng vậy, ở trong đời, những ai tự cho mình là thế này, là thế kia với tâm đầy kiêu hãnh, thì mùa xuân sẽ không bao giờ xảy ra cho chính họ. Kiêu hãnh có mặt ở đâu, thì ở đó có sự dừng lại và thoái hóa. Kiêu hãnh là nguyên nhân của mọi sự thoái hóa và thất bại.
Khiêm nhẫn và thành Công
Khiêm là khiêm cung, nhẫn là kham nhẫn. Không có sự thành công nào mà không đi từ nơi khiêm cung, không có sự thành công nào mà không đi từ sự kham nhẫn. Không có khiêm cung, không có kham nhẫn chúng ta sẽ không có thành công. Thành công rồi mà chúng ta không có khiêm cung thì thành công đó là trá hình của sự thất bại. Có nhiều người thành công, nhưng không duy trì được sự thành công của mình lâu dài, vì thiếu tính khiêm cung. Cho nên, mùa xuân không bao giờ hiện hữu một mình, mùa xuân hiện hữu với mùa đông, mùa xuân hiện hữu với mùa hạ, mùa xuân hiện hữu với mùa thu. Mùa xuân rất khiêm cung và kham nhẫn đối với các mùa, nên mùa xuân luôn luôn có mặt ở trong các mùa và là niềm hy vọng, cũng như là sức sống của các mùa. Nên, mùa xuân là điểm đến và thành công của tất cả các mùa.
Cũng vậy, trong đời sống sự khiêm nhẫn tạo nên thành công cho chúng ta. Sự khiêm nhẫn tạo thành mùa xuân cho tất cả chúng ta.
Chấp nhận và chuyển hóa
Trong cuộc đời này không có ai hiểu hết được ai. Vì sao? Vì con người là một sự hiện hữu trong dòng sinh diệt tương tác và tương tục giữa nhân duyên và nhân quả của tâm thức nhiều đời. Không hiểu được nhân duyên, nhân quả, chúng ta không bao giờ hiểu được con người. Nhân duyên, nhân quả của con người được tạo nên từ chính tâm thức của chính họ và được xông ướp bởi hoàn cảnh của họ. Do tâm thức sai biệt, khiến tác nghiệp sai biệt và do tác nghiệp sai biệt, nên chúng ta tuy là người, nhưng không có người nào giống người nào. Chúng ta là con người, chúng ta có thể biết nhau, quen nhau, nhưng chúng ta không bao giờ hiểu biết hết nhân duyên, nhân quả, nghiệp báo của nhau và không bao giờ hiểu biết hết những diễn biến trong tâm thức của nhau.
Năm ngón tay ở nơi bàn tay của mỗi chúng ta, không có ngón nào giống ngón nào. Không có ngón nào giống ngón nào hết, đó là sự thật. Chúng ta phải thấy sự thật này để chấp nhận sự khác biệt của nhau và giúp nhau tạo nên hạnh phúc. Mùa xuân chỉ thật sự có mặt, khi chúng ta biết chấp nhận nhau và cùng nhau chuyển hóa những yếu tố thấp kém từ nơi nhận thức, từ nơi tâm hồn, để cùng nhau thăng hoa cuộc sống. Biết chấp nhận sự khác biệt của nhau để cùng nhau chung sống, đó là một trong những sự thông minh của con người. Biết chấp nhận cái hay của nhau để học hỏi và chấp nhận cái dở của nhau để giúp nhau chuyển hóa là con người có khả năng bước thêm một bước nữa để tiến bộ và cùng nhau đi tới với một mùa xuân đích thực của cộng đồng. Biết chấp nhận cái xấu của nhau để giúp nhau chuyển hóa; biết chấp nhận cái tốt của nhau để giúp nhau thăng hoa, đó là một ý thức tiến bộ. Ý thức ấy đẩy chúng ta đi tới với mùa xuân. Thiếu sự hiểu biết này, chúng ta không bao giờ có tiến bộ và chúng ta không bao giờ có sức mạnh của sự sống. Đây là điều mà tất cả chúng ta cần phải thường xuyên quán chiếu, để mùa xuân không còn là một sự mơ ước mà là một hiện thực trong đời sống của mỗi chúng ta.  
Chấp nhận một sự thật cao quý, thì ai cũng có thể, nhưng chấp nhận một sự thật phũ phàng thì rất ít người có thể. Người có sức sống và có niềm tin, họ có khả năng chấp nhận cả hai sự thật ấy để tái tạo hạnh phúc cho chính họ. Chúng ta biết chấp nhận sự thật, dù là một sự thật phũ phàng, thì mọi tiến bộ mới có thể bắt đầu sinh ra trong đời sống của mỗi chúng ta và khi ấy, chúng ta mới có khả năng tạo ra mùa xuân cho chính chúng ta.
Tôi nhớ cách đây hơn 20 năm, khi tôi đang còn dạy ở Tổ đình Từ Hiếu- Huế, các nhà nghiên cứu về giáo dục của Anh, Pháp, Đức và Hoa Kỳ, họ đến nghiên cứu hệ thống giáo dục của Việt Nam. Khi họ đến Huế để nghiên cứu, họ có đến chùa Từ Hiếu – Huế gặp tôi và xin trao đổi một số vấn đề giáo dục có liên quan đến Phật giáo Bộ phái và Đại thừa. Sau khi trao đổi xong, họ than phiền với tôi rằng: “Nền giáo dục Việt Nam hiện nay không có gì phát triển so với các quốc gia trong vùng”.  Họ nói: “Họ thấy ở Việt Nam trong thời điểm này nhà hàng, nhà ăn phát triển nhiều hơn nhà trường. Nhà hàng, nhà ăn phát triển rất sang trọng so với các nước trong vùng, nhưng các trường học rất ít phát triển và rất cũ kĩ, kể cả những phương pháp giáo dục”.
Khi nghe như vậy, tôi rất khó chịu, cảm thấy xấu hổ, lòng tự ái dân tộc trong tôi phát sinh, mặc dù tôi đang là một tu sĩ Phật giáo. Vì tự ái, tôi đã cố gắng biện minh cho những yếu kém ấy. Tôi đã nói với các nhà nghiên cứu ấy rằng: “Ở Việt Nam chúng tôi, mỗi gia đình là mỗi trường học. Mỗi người làm cha mẹ là mỗi thầy giáo, cô giáo của gia đình. Giáo dục của Việt Nam rất chú trọng đến gia giáo hơn là học đường”. Nghe tôi biện minh như vậy, những nhà nghiên cứu ấy đều gật đầu. Họ cảm ơn tôi và ra về. Nhưng khi họ ra về, tôi cảm thấy xấu hổ, vì mình chỉ có khả năng che giấu và biện minh cho sự yếu kém mà không có khả năng chấp nhận sự thật của yếu kém. Bấy giờ, tôi tự trách mình là tu tập còn quá yếu không dám chấp nhận sự thật đang diễn ra trước mặt mình và chung quanh mình. Cho đến bây giờ, mỗi khi tôi nghĩ đến điều mà mình đã từng biện minh ấy, tôi cảm thấy tự xấu hổ và liền khởi tâm sám hối.
Kể câu chuyện này, tôi mong rằng, trong mỗi chúng ta phải dẹp đi mọi tự ái, mọi kiêu hãnh phù phiếm, để cho mùa xuân chân lý được hiển lộ ra trong đời sống của mỗi chúng ta. Bệnh nhân che giấu bệnh với bác sĩ, thì chỉ có chết thôi, chứ không có một bác sĩ tài năng và lương tâm nào có thể cứu giúp bệnh nhân thoát khỏi bệnh.
Chúng ta chỉ có mùa xuân, khi nào chúng ta thấy và biết chấp nhận sự thật của các mùa hạ, mùa thu và mùa đông ở trong đời sống và ở trong mọi hành hoạt tỉnh thức và từ bi của chúng ta.
Kính chúc Đại chúng một mùa xuân mới đầy hạnh phúc, an lạc ở trong sự tỉnh thức và từ bi.
                (Thầy Thích Thái Hòa giảng – Đệ tử: Nhuận Phật Hạnh – Nhuận Hạnh Châu kính phiên tả)


                                                                                                                           

Wednesday, June 29, 2016

Bài Thuyết Trình cho Trại Vạn Hạnh: Đạo Phật và Tuổi Trẻ


Bài Thuyết Trình cho Trại Vạn Hạnh: 
Đạo Phật và Tuổi Trẻ  
                                                                              Tâm Thường Định 

Dẫn nhập: 
Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni 
Kính thưa quý trưởng,     
Chúng em, một học viên bậc Lực, người luôn thao thức về giáo dục tuổi trẻ, khi thấy đề tài Đạo Phật và Tuổi trẻ mà Ban Tổ Chức đề ra, mừng quá và góp ý là được chia sẻ trong khả năng của mình. Chúng em hân hạnh được anh Phó TB NCHL Thiện Hải Đoàn Mãn mời như là một nhà giáo dục, một học giả Phật giáo cùng thuyết trình với Giáo Sư Trần Kiêm Đoàn.  Nhưng GS Đoàn bảo với chúng em rằng, “Chúng ta thuyết trình hai mặt của một vấn đề, Chú nói về thế hệ trước và bên nhà, cháu nói về thế hệ sau, bên này. Cháu cứ trình bày quan điểm của cháu, nói thẳng nói thật và chúng ta cùng hội thảo với nhau”. Với sự thương yêu và quan tâm đó, chúng em xin được góp sức trong khả năng của mình – một hành giả đạo Phật.

Phật Giáo và Tuổi Trẻ, xin được nhấn mạnh chỉ nói về Phật giáo và Tuổi trẻ Việt Nam mà thôi (Xin được mở ngoặc, theo thiển ý tuổi trẻ—tuổi dưới 40—và Việt Nam ở đây là tuổi trẻ Việt Mỹ, có hình hài người Việt, nhưng tư tưởng và cách tiếp thu là nền giáo dục Tây phương hay là người Mỹ gốc Âu Châu. Hay nói chính xác hơn là người Hoa Kỳ gốc Việt Nam). Xin được trình bày 2 quan điểm khách quan chính. 1) Thực trạng đang xảy ra, 2) Giải pháp thực thi. Còn nói về nguyên nhân thì ai trong chúng ta cũng điều biết rồi. Quý vị có thể tham khảo thêm bài  “Tại Sao Giới Trẻ Ít Đến Với Đạo Phật?” *

Trong khi chia sẻ nếu có những vụng về hay ‘va chạm’,  xin quý trưởng và quý vị hoan hỷ và niệm tình tha thứ cho.

I. THỰC TRẠNG ĐANG XẢY RA 
Ngày nay, nhân loại nói chung, tuổi trẻ và người Tây Phương nói riêng đang tìm đến với Đạo Phật ngày càng nhiều. Theo thống kê năm 2010 Đạo Phật là tôn giáo lớn, đứng hàng thứ 4 trên thế giới với ước tính 488 triệu, 495 triệu, hoặc 535 triệu người, chiếm khoảng 7% đến 8% dân số thế giới. Ngay cả Trung Hoa, mặc dù chỉ có 18.2% dân số theo đạo Phật, nhưng có đến 244.130.000 triệu người—chiếm 50.1% toàn dân số theo Đạo Phật trên thế giới. Giới trẻ các nơi như Âu Châu, Úc Châu, và một số nước Á Châu như Thailand, Trung Quốc ngày càng tìm đến Phật Giáo.Riêng ở Việt Nam ta, thử nhìn vào thực trạng số lượng Huynh trưởng và đoàn sinh trong tổ chức GĐPT. Thống kê cho hay vào năm 2015, trong nước tính luôn cả mọi tổ chức trong GĐPT, ‘truyền thống’, ‘phân ban’ và ‘thống nhất’, chỉ có trên (120.000 Htr. và đoàn sinh), trong số này có 2/3 là thuộc về ‘Phân ban’, số còn lại là ‘truyền thống’ hay ‘thống nhất’. Còn tại Hoa Kỳ thì sao, chúng ta chỉ còn khoảng 5.000 Htr. và đoàn sinh. 

Nguồn: (http://www.hoadamnews.com/2016/02/gia-inh-phat-tu-tai-viet-nam-qua-nhung.html).   

Riêng tất cả các châu lục khác như Canada, Âu Châu và Ú Châu, chúng ta có khoảng 2.000 Htr. và đoàn sinh. Vậy tổng số tất cả trong và ngoài nước có khoảng 130.000 Huynh trưởng và đoàn sinh, trong khi Dân số người Việt trong và ngoài nước khoảng (97 triệu) 97.000.000 người.  Vì thế Số lượng Huynh trưởng và đoàn sinh trong tổ chức GĐPT quá ít ỏi, vậy xin hãy đoàn kết, tương thân tương ái, giúp đỡ, đùm đọc, tin tưởng và yêu thương nhau. Vì thế, chúng ta cần hỗ trợ và hợp tác để cùng nhau tiến bước và nếu chúng ta không thể làm gì cho tốt hơn, thì ít nhất là đừng làm gì hết.

Một ví dụ khác, ở Miền Liễu Quán tại Bắc California, trên giấy tờ thì có tất cả 559 Huynh trưởng và Đoàn sinh, nhưng trên thực tế số lượng đi sinh hoạt thường xuyên chỉ khoảng 65%. Mà đa số là ngành Oanh Vũ (7 đến 12 tuổi), số lượng ngành Thanh (18 tuổi trở lên) chỉ có 17/559 và ngành Thiếu (13-17) thì có 222/559. Ngoài ra, đa số đoàn sinh của tổ chức GĐPT là nữ giới. Số lượng đoàn sinh nữ chiếm hơn 60% trong khi đa phần thì là Huynh trưởng nam.

Vì thế những sinh hoạt của chúng ta phải đặt mạnh vào việc huấn luyện, huân tập và giáo dưỡng các em hãy còn non trẻ (Oanh Vũ) và nữ giới. Ngoài ra, chúng ta phải thấy rằng: Đến tuổi 17 là các em đã phải đi làm, lo việc ở trường và chuẩn bị vào Đại học và như vậy chúng ta đang ‘mất’ các em. Vì thế những sinh hoạt, chúng ta cần biện pháp giáo dưỡng kịp thời, có tính khoa học đúng kế lý kế cho các em, nhất là các em đoàn sinh nữ vì các em sẽ là phụ huynh sau này. Các em đến và đi trong tổ chức áo lam trong một thời gian rất ngắn, nên chúng ta cần phải đặt câu hỏi quan trọng là, “Chúng ta cần/nên/phải dạy các em những gì?” và “làm sao mình biết”. Nói như thế là để biết rằng số lượng tuổi trẻ Việt Nam (trong đó có cả Huynh trưởng và đoàn sinh) tại Hoa Kỳ đi sinh hoạt hay đến với Phật giáo nói chung và tổ chức GĐPT Việt Nam nói riêng ngày càng ít dần. Tổ chức chúng ta vẫn còn trình trạng ‘giữ lửa’, duy trì và đình trệ chưa phát triển đúng với phong cách và lối giáo dục Tây Phương cũng như tinh thần khế ly khê cơ của Đạo Phật.

II. GIẢI PHÁP 
1. Cần truyền đạt một Ý thức dân tộc Việt Nam
Từ ngàn xưa, dân tộc Việt Nam có những tập tục thích ứng với môi trường sống thiên nhiên, rất hữu hiệu trong thời đại cổ xưa như nhuộm răng, ăn trầu cau. Dân tộc Việt Nam lấy Đạo Hiếu làm đầu, khác với người Trung Quốc từ thời xưa, mà quan niệm đạo hiếu của người Việt rất gần với đạo Phật. Văn hóa Việt Nam có trình độ rất cao và lâu đời so với các nước lân bang như văn minh Đông Sơn, văn minh Hòa Bình, v.v... Phật Giáo Việt Nam có triết lý và phương thức hành xử rất cao, bình đẳng và siêu việt, như triết lý sống “Cư trần lạc đạo,” của Tổ Sư Trần Nhân Tông, một triết lý có thể áp dụng hữu hiệu cho cả giới xuất gia và tại gia Phật tử để vừa giữ được đạo vừa giữ được đất nước, vân vân và vân vân...

Tuy nhiên, hiện nay, ý thức dân tộc của Việt Nam vẫn còn chạy theo, vay mượn nhiều nơi từ Đông sang Tây, nhưng không truyền bá những đặc thù riêng của dân tộc. Tư tưởng Việt Nam vẫn còn chưa được thống nhất hay định nghĩa một cách rõ ràng và chính xác vì thế chúng ta chưa có một ý thức hay tư tưởng mang tính cách thuần tuý dân tộc. Thôi thì, chúng ta hãy thảo luận những gì nhỏ nhất và chúng ta có thể làm được, đó là sự chuyển hoá từ những hệ ý thức rất nhỏ và văn hoá người Việt Nam. Ví dụ: Những tư tưởng, văn hoá, ý thức của người Việt Nam như ‘đi trễ / giờ giây thun’, ‘sinh hoạt ồn ào’, ‘xả xác bừa bãi / không giữ gìn vệ sinh chung’ v.v… cần được chuyển hoá. 

Chúng ta phải dạy các em những tập tục tốt của người Việt Nam và người Tây phương; những thuần phong mỹ tục của đa văn hoá sẽ giúp các em về lâu về dài.  Tuổi trẻ Việt Nam tại Hải ngoại có cơ hội hấp thụ 2 nền văn hoá đặc thù, và hãy truyền đạt cho các em một ý thức hệ văn minh--có cả hai nền văn hoá rất riêng biệt, Đông Tây và Mới Cũ. Tại sao chúng ta không phát huy những văn hoá tuyệt đẹp của Đạo Phật, như Tinh thần Bồ Tát Đạo, Đạo hiếu làm con hay những cái nhỏ nhặt hơn, như ‘no mất ngon, giận mất khôn’; ‘đi thưa về trình’ v.v… Nhưng trên thực tế nhất là chúng ta hãy thay đổi những điều rất nhỏ trong phạm vi của tổ chức mình trước, rồi những thành đạt lớn bắt nguồn từ những thành đạt cỏn con. Vậy chúng ta xin hãy…

Sinh hoạt phải đúng giờ
Không lề mề, không xả rác. 
Cách ứng xử tươi-mát 
Tôn trọng, bảo bọc nhau.

Xa hơn nữa, chúng ta phải dạy các em bỏ những gì có tính cách riêng tư, nhỏ nhoi để lo cho cái chung. Quyền lợi tập thể, tổ chức hay cộng đồng phải lớn hơn quyền lợi các nhân, gia đình và phe nhóm. Những gì đang xảy ra quanh ta, quanh các em rất nhỏ so với Đạo pháp và Dân tộc, sao chúng ta không nghĩ đến những việc lớn hơn, như những bậc tiền bối, trong đó có những vị tử sỹ yêu nước, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, v.v.... là những người “thấy rõ nhất những nhược điểm của xã hội và con người Việt Nam. Ông chủ trương phải thay đổi từ gốc rễ bằng cách nâng cao trình độ trí tuệ và đạo đức của người Việt, phát triển kinh tế - văn hóa, học những tư tưởng tiến bộ của Phương Tây, từ bỏ phong tục tập quán lạc hậu... Ông cho rằng Việt Nam phải phát triển kinh tế và giáo dục để tự lực tự cường, hội nhập vào thế giới văn minh rồi mưu cầu độc lập chứ không cầu viện ngoại bang dùng bạo lực giành độc lập. Chỉ như vậy mới bảo đảm Việt Nam sẽ có một nền độc lập chân chính, lâu bền về chính trị lẫn kinh tế trong quan hệ với ngoại bang cũng như nhân dân sẽ được hưởng độc lập và tự do cá nhân trong quan hệ với nhà nước." 

2. Chuyển hóa / Thay đổi cái nhìn (perception) của mình / Transformation - A shift of Mind 
Chúng ta phải có lối nhìn mạch lạc rằng Phật giáo là một lẽ sống, một lối sống lành mạnh an hoà. Sinh hoạt GĐPT cũng là một cách sống. Ví dụ như đại gia đình của Huynh trưởng Nguyên Túc, gia đình anh đi sinh hoạt chung từ Bà Ngoại đến các cháu rất thuần thục.  Anh an nhiên vui vẻ hát bài “Ngày Chủ Nhật, ngày của riêng mình”; ôi một thứ xa xỉ, một niềm mà ít có gia đình nào có được.  Nếp sống lành mạnh, dung hoà và đầy tâm linh như thế là nhựa sống cho mình, cho người và cho đời. Những sinh hoạt của tổ chức là Đồng-lợi, Lợi người lợi mình (Mutual Respect/Benefit). Tất cả các việc làm đều đặc trên nền tảng từ bi, trí tuệ, dũng mãnh và kiên trì để lợi người lợi mình.  Nếu chúng ta ý thức được sự thành công của kẻ khác chính là của mình. Sự đau khổ hay thất bại của kẻ khác là của ta. Thì mình đã tạo được sự cảm thông, đùm bọc và tương thân tương ái lẫn nhau. Đi xa hơn, chúng ta nên ý thức rằng: Lợi ích và quyền lợi của mình là lợi ích và quyền lợi của ta, của tổ chức ta, của giáo hội ta, của đất nước ta. Hay nói một cách khác, nếu tất cả cán bộ các cấp hay nhân sự của các tổ chức đặc quyền lợi chung trên quyền lợi cá nhân thì nơi đó đều được phát triển tốt một cách nhanh chóng.

Trong kinh Pháp Cú có dạy: “Tâm dẫn đầu các pháp, Tâm tạo tác...”, ngày nay các nhà nghiên cứu về giáo dục như Peter Senge nhấn mạnh: “Sự phát triển trong việc giáo dục bắt nguồn từ sự chuyển hóa tâm thức” (Senge 2000). Ngài Dalai Lama trong cuốn sách Nghệ Thuật của Hạnh phúc (The Art of Happiness) có chia sẻ “chỉ đổi cách nhìn của mình không thôi cũng đủ làm cuộc sống nhẹ nhàng và an vui hơn”.

Tuổi trẻ như một tờ giấy trắng, nên phải tạo cơ hội và huân tập tuổi trẻ những cách nhìn đúng đắng nhằm chuyển hóa cách nhìn, cách suy nghĩ và hành động của giới trẻ. Albert Einstein có nói: “Only a life lived for others is a life worthwhile”. Cuộc sống vì người khác là cuộc sống xứng đáng nhất. “Mình phải chuyển đổi các em từ lối suy nghĩ vị kỷ đến vị tha, từ cái hẹp hòi, chỉ biết cho chính mình trong cái “tôi, cái của tôi”, v.v... thành cái của “chung, cái của chúng ta và của tất cả”. Dạy các em phải nhận thức rằng, tự lợi lợi tha. Tự giác và giác tha để cuối cùng được giác hạnh viên mãn.” (trích trong tập Tâm Bút của Trần Trung Đạo, trang 11).  Thêm vào đó, trong thuyết Đầy tớ Lãnh đạo (Servant Leadership), phục vụ nhân sinh là nền tảng của lãnh đạo (Greenleaf, 1977). Trong Phật giáo đức Phật dạy: “Phụng sự chúng sanh là cúng dường Chư Phật” tạm dịch “service to all sentient beings is honoring to the Buddhas”. Chư Tổ lại dạy: “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” nghĩa là “Một ngày không làm, một ngày không ăn”. Vì thế, ai trong chúng ta cũng phải tự chuyển hóa chính mình trước qua tư tưởng, suy nghĩ, lời nói và hành động của chính mình. Có thể là những việc làm thiết thực trong việc phục vụ nhân sinh và xã hội như giúp đỡ những người bệnh tật, giúp giảm các nạn nghèo đói, làm giảm đi bất công xã hội, giảm bớt ô nhiễm môi sinh, chăm lo người già, hướng dẫn thiếu nhi học tập đạo đức v.v... đó là sắc thái của sự lãnh đạo và giáo dục thực tiễn có hiệu quả.

3. Cần phát triển nhân sự (Talent management), nội lực và khả năng
Hiện nay tổ chức của chúng ta đang thiếu nhân sự, và những nơi có tạm đủ nhân sự thì khả năng song ngữ và kỷ năng cũng chưa đạt. Thêm vào đó, hàng lãnh đạo nòng cốt thì già cỗi, mà lớp trẻ, nói chung, đa phần vẫn còn thiếu nội lực tu học và khả năng sinh hoạt linh động trong môi trường mới. Vì thế, sự phát triển nhân sự là sự cần thiết và trên hết. Xin nhớ cho rằng, phát triển nhân sự không phải là quản lý huynh trưởng hay đoàn và là phát huy tiềm năng của huynh trưởng và đoàn sinh đó. 

4. Cần phải Hoà hợp và không làm khổ cho nhau
a. Chúng ta thực sự chưa có hoà hợp vì nhiều lý do chung khách quan. Nhìn chung là có nhiều thế lực bên ngoài, nhiều nội ma và ngoại chướng.  Có lẽ vì chúng ta thiếu nội lực và khả năng để đối phó những thế lực đó. Thêm vào đó, những sinh hoạt trong tổ chức chúng ta có tính nội bộ, chưa mở rộng đến quần chúng.  Việc đầu tiên để hoá giải việc này, mà nhận chân và chấp nhận chúng ta đang có vấn đề và đang cố gắng tìm mọi cách để khắc phục và thay đổi những việc liên quan đó. 

Một trong những việc hoà hợp mà chúng tôi chứng kiến trong Đại hội X vừa qua của BHD Hoa Kỳ là tinh thần Tương sám, Vô chấp - Vô ngã mà Huynh trưởng Tâm Duy Phan Duy Chiêm, đã khấn lời sám hối trước Ba Ngôi Tam Bảo, trước Chư vị Tiền Bối Hữu Công, Chư Tôn Thiền Đức và tất cả quý Huynh trưởng Đại biểu có mặt và vắng mặt là: “Tôi xin nói điều này với tất cả các anh chị em có mặt ở đây và với tất cả những anh chị em vắng mặt, trong thời gian anh làm trưởng ban vừa qua, nếu có điều gì sai sót, mà làm phật lòng anh chị em, anh xin thành tâm sám hối..." Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, có mấy ai“Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần. Đem ý thức tinh chuyên phòng hộ".Hay áp dụng như lời kinh đơn giản này:"Sáng cho người thêm niềm vui, chiều giúp đời bớt khổ".Tất cả chúng ta đang có mặt ở đây là những người bời ngược dòng, đang cưu mang và hành trì Bồ Tất Hạnh, chẳng lẽ những cái ngã nhỏ nhỏi, những cái ta đã ghét, hay những chấp kiến bất lợi mà chúng ta không dẹp được?

b. Sự thật mà nói, chúng ta đã làm khổ nhau quá nhiều. Chúng ta đã thiếu chánh niệm với nhau. Chúng ta làm không những làm thế mỗi khi ngồi lại với nhau mà con qua các văn kiện hành chánh, truyền thông báo chí đến các mạng xã hội (social media). Còn nữa, chúng ta lại lạm dụng truyền thông báo chí để chuyển tải những thứ không lành mạnh cho nhiều người. Những việc này cần phải được chuyển hoá cho lợi ích của mình và của người, chúng ta có quyền lựa chọn và có thể cho mình là một nhà ký giả, một nhà truyền thông, một người huynh trưởng 24/7/365, không chỉ riêng mỗi cuối tuần sinh hoạt. Nhưng hơn thế nữa, chúng ta, hàng huynh trưởng là những nhà giáo dục.

c. Có lẽ những biện pháp kịp thời là, chúng ta cần có chương trình huấn luyện, các khoá tu dưỡng và tu học định kỳ cho các hàng Htr. Riêng các Hội đồng cấp cũng vậy, cho những buổi thực tập riêng. Thêm vào đó, tuổi trẻ cần những sinh hoạt có ấn tượng ví dụ như trại kết thân, trại họp bạn toàn quốc v.v… mà chúng ta rất lâu mới tổ chức trại họp toàn quốc. Cho nên, ít nhất là phải có 1 trại họp bạn trong mỗi một nhiệm kỳ 4 năm.
Ngoài ra, cần phải cộng tác với các tổ chức, hội đoàn có tầm nhìn xa và có giá trị cốt lõi thánh thiện để thay đổi cuộc sống của quần sinh. Các cuộc thay đổi lớn đều cần một sự đoàn kết. Sự thay đổi trong đạo Phật cũng vậy, cần sự tương thân tương trợ lẫn nhau. Sức mạnh của tổ chức không nằm ở vài huynh trưởng lãnh đạo và nằm nơi phát huy tiềm năng của tuổi trẻ. Vậy, từ việc nối kết, phát triển nhân sự và tiềm năng là cần thiết để tạo ra các thay đổi cần thiết cho bây giờ và mai sau.

Cuối cùng để sự hoà hợp được viên dung, mỗi chúng ta đều ý thức là chúng ta cần có nhau; thấy được tình lam hữu đó mà cùng nhau gắn bó, xóa đi những chấp ngã, dị biệt, những vụng về và sơ suất của nhau để chung cùng một lý tưởng cao đẹp. 

5. Tam Giáo (Thân, Khẩu, Ý Giáo) - Lời nói cần phải đi cùng với hành động
Mỗi người Huynh trưởng của chúng ta là một người làm giáo dục. Hơn nữa, chúng ta phải là những người con Phật hành trì những lời dạy bảo của Đấng từ phụ Thích Ca Mâu Ni. 

Xin hãy là một Hành giả bạn nhé - Be a Buddhist Practitioner. Trong cuộc đời của Đức Phật, bài pháp quý giá và hữu dụng nhất là thân giáo mà chính Ngài đã sống và truyền đạt. Tam giáo của Ngài, 3 nghiệp thanh thịnh của Ngài trong đời sống hằng ngày của Đức Phật là kim chỉ nam trong cuộc sống của chúng ta. Còn kinh luật luận chỉ là phương tiện. Nói rộng ra kinh điển là những gì Đức Phật muốn dạy cho chúng sinh, mà mục đích tối hậu là gì chúng ta đều đã biết. Vậy xin hãy đừng là học giả mà là hành giả xứng đáng của Người. Như Thầy Thích Đạo Quảng, một vị Tăng tài và trẻ tại hải ngoại có dạy: Mỗi người chúng ta có ba cuộc sống: cuộc sống cá nhân (private life), cuộc sống công cộng (public life), và cuộc sống tâm linh (spiritual life). Khi chúng ta có cuộc sống tâm linh, chúng ta có tất cả cả ba cuộc sống vừa kể. Vậy, chúng ta hãy cùng thực hành sự giáo dưỡng của Đấng từ phụ Thích Ca Mâu Ni bằng thân giáo, khẩu giáo và ý giáo của Ngài.

Nói tóm lại như bác sỹ Tâm Minh Lê Đình Thám, một trong những sáng lập viên tổ chức Gia Đình Phật Tử, đã nhấn mạnh, “Không có một thành tựu vĩnh cửu nào mà không nghĩ đến tuổi trẻ”.  Tuổi trẻ Phật giáo Việt Nam tại Hải ngoại nói chung, và Hoa Kỳ nói riêng đang thật sự mất hướng, vậy chúng ta, đang có cơ hội tiếp cận khi các em đang sinh hoạt với GĐPT, cần xác định một hướng đi có Phật tính đầy nhân văn, nhân bản, từ bi và trí tuệ mang truyền thống tâm linh của dân tộc. Để kết bài thuyết trình này, em xin mạn phép đặc vài câu hỏi để trại sinh Vạn Hạnh I đồng suy gẫm và tự tìm câu trả lời cho chính mình và cho tổ chức GĐPT.
1. Gia tài nào quý anh chị hữu trách truyền trao cho thế hệ kế thừa?
2. Chúng ta đang truyền đạt đến huynh trưởng và đoàn sinh những gì? Làm sao chúng ta biết?
3. Chúng ta muốn/sẽ/nhìn thấy gì ở tổ chức GĐPT Việt Nam, ở Phật Giáo VN tại Hoa Kỳ trong 10 năm, 20 năm và 50 năm nữa?

Tài Liệu Tham Khảo:
1. Bach, P. X. (2014). Mindful Leadership–A Phenomenological Study of Vietnamese Buddhist Monks in America with Respect to their Spiritual Leadership Roles and Contributions to Society (Doctoral dissertation, Drexel University).

2. Harvey, Peter (2013). An Introduction to Buddhism: Teachings, History and Practices (2nd ed.). Cambridge, UK: Cambridge University Press. p. 5. ISBN 9780521676748. Retrieved 2 September 2013.

3. Johnson, Todd M.; Grim, Brian J. (2013). The World's Religions in Figures: An Introduction to International Religious Demography (PDF). Hoboken, NJ: Wiley-Blackwell. pp. 34–37. Retrieved 2 September 2013.

4. Pew Research Center, Global Religious Landscape: Buddhists.

5. Tâm Minh - Vương Thuý Nga và Nguyên Túc Nguyễn Sung, Số Lượng Đoàn Sinh tại Hải Ngoại và Hoa Kỳ. Personal communication. 2015.

6. Wikipedia.com, Buddhism by country. Retrieved 28 July 2015. https://en.wikipedia.org/wiki/Buddhism_by_country

7. Wikipedia.com, Demographics of Vietnam. Retrieved 20 June 2016. https://en.wikipedia.org/wiki/Demographics_of_Vietnam

* Đây là bài Pháp luận có Chủ đề: Tại Sao Giới Trẻ Ít Đến Với Đạo Phật? do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ và Canada tổ chức trong KHÓA TU HỌC PHẬT PHÁP BẮC MỸ LẦN V tại San Diego, CA từ ngày 6 đến ngày 10, tháng 8 năm 2015. Nguồn http://phebach.blogspot.com/2015/09/phap-luan-chu-e-tai-sao-gioi-tre-it-en.html

Sunday, May 22, 2016

BẢN LÊN TIẾNG của TẬP THỂ GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM TẠI HOA KỲ - FOR IMMEDIATE RELEASE (VIETNAMESE BUDDHIST YOUTH ASSOCIATION in AMERICA)




BẢN LÊN TIẾNG
của TẬP THỂ GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM TẠI HOA KỲ
về thảm trạng nhiễm độc vùng biển miền Trung
và rải rác nhiều nơi trên toàn quốc Việt Nam.


Hiện nay, người dân Việt Nam trong ngoài nước đang sôi sục trước hiện tượng cá chết hàng loạt từ đầu tháng Tư 2016 dọc theo bờ biển trải dài từ Hà Tỉnh xuống Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế và nay lan đến Quảng Nam - Đà Nẵng do nguồn thải chất độc từ Công Ty luyện kim Formosa, nằm trong khu kinh tế Vũng Áng, Hà Tĩnh, do Tập đoàn người Đài Loan và Hoa Lục điều hành. 


Tình trạng ô nhiễm biển trầm trọng này, có nguy cơ lan rộng thêm, không những tàn hại trực tiếp và khốc liệt lên nguồn lương thực hải sản lớn lao của đồng bào, mà còn gây mất mát, đình trệ công ăn việc làm thuộc nhiều ngành nghề khác, đe dọa môi trường sống của con người, các sinh vật, thực vật, và sẽ còn di hại lâu dài về sau. 


Trước thảm trạng đe dọa sinh mạng và cuộc sống của mình cũng như con cháu chúng ta về sau như thế, người dân cả nước, nhất là ở Hà Nội và Sài Gòn, đã xuống đường biểu tình ôn hoà phản đối Công Ty Formosa và đòi hỏi Nhà Nước Việt Nam phải có thái độ thích đáng để cứu dân. Nhưng tệ hại thay, Nhà Nuớc đã không mảy may đoái hoài đến nguyện vọng chính đáng của dân mà còn thẳng tay đàn áp dã man, bắt bớ, giam cầm, đánh đập không nương tay dù người biểu tình là phụ nữ và trẻ em. 


Cùng với nhân loại trên thế giới đang bức xúc sâu xa khi nghe và thấy, qua những phương tiện truyền thông, cảnh cá chết đầy dãy, cảnh Công An, Thanh niên xung phong và côn đồ Nhà Nước trá hình đàn áp phi lý và phi nhân. Hàng trăm, hàng nghìn người dân Việt đang cất cao tiếng nói công chính và khát vọng sống còn của cả dân tộc, chúng tôi toàn thể Lam viên của tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ nhận định rằng: 


  1. Sự phá hoại môi sinh biển với mức độ trầm trọng của Formosa là một tội ác hủy diệt con người và các nguồn sống chung của địa cầu trong thời đại văn minh tiến bộ. 


  1. Sự im lặng làm ngơ của Nhà Nước trước hành động phá hoại môi sinh biển của Formosa là một hành động bao che, dung túng ngoại nhân; đó cũng là một tội ác đối với nhân dân, và sẽ là vết dơ muôn đời không sao gột rữa được trong dòng sử Việt Nam.


  1. Hành động biểu tình ôn hòa của đồng bào khắp các tỉnh Việt Nam phản đối Formosa và đòi hỏi Nhà Nước phải có biện pháp cứu dân cấp thời là hành động chính đáng, hợp hiến, hợp pháp, và hợp lương tri con người. 


  1. Hành động đàn áp người dân biểu tình chứng tỏ Nhà Nước vừa ươn hèn, khiếp nhược trước sự tung tác của ngoại nhân, coi thường chủ quyền đất nước, sinh mạng dân Việt, Nhà Nước lại tự chứng tỏ thiếu trách nhiệm bảo vệ tổ quốc và nhân dân. 


Qua những nhận định trên, tập thể Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ
đồng thanh lên tiếng:


  1. Yêu cầu nhà nước Việt Nam phải rõ ràng minh bạch, cấp tốc xét nghiệm để tìm ra nguyên nhân cá chết hàng loạt; minh bạch thông tin về tiến trình xét nghiệm và nguyên nhân để người dân Việt Nam biết. Nếu đúng là do Formosa thì phải ngưng ngay hoạt động của Formosa và xét nghiệm sâu hơn rộng hơn; đưa Formosa ra tòa và bắt họ phải bồi thường thích đáng. Nếu họ không có cách khắc phục quy trình thì đóng cửa vĩnh viễn.


  1. Yêu cầu tập đoàn chủ nhân Công Ty Formosa ngoài hành động công khai trang trọng tạ lỗi với nhân dân Việt Nam, chấm dứt tức khắc việc thải chất độc vào biển.


  1. Yêu cầu Nhà Nước Việt Nam phải tôn trọng và lắng nghe tiếng nói của người dân, tận tâm, tận sức đáp ứng nguyện vọng chính đáng của họ. Nhà Nước cần ý thức rằng hành động người dân bày tỏ thái độ qua biểu tình hợp pháp, hợp hiến theo quyền công dân và quyền con người không chỉ là thông điệp thiết tha yêu nước thương nòi gửi đến Nhà Nước mà còn là lời cảnh giác, răn đe với bất cứ ngoại nhân nào xem thường, chà đạp người Việt, đất Việt.

  1. Mong mỏi các giới tri thức, truyền thông, văn nghệ sĩ, nhà báo và đồng bào người Việt khắp nơi trong và ngoài nước hợp lực, dùng mọi khả năng chuyên biệt, tài sức của mình để biểu hiện tiếng nói lương tri, dân chủ, nhân quyền, để ủng hộ và đồng hành cùng người dân trong nước đang bị khốn đốn bởi ngoại nhân và cường quyền áp bức, kêu gọi những nước tiến bộ trên thế giới có thái độ cảnh giác, cảnh tỉnh Nhà Nước Việt Nam. 


  1. Mong mỏi giới trẻ Việt Nam, đoàn sinh, học sinh, và sinh viên trong nước hãy nhận thức rõ mình là tương lai, là rường cột của đất nước, nhất quyết không cúi đầu trước ngoại nhân phá nước, không khuất phục trước cường quyền bách hại lương dân, bán nước cầu vinh. 


California, Hoa Kỳ, ngày 21 tháng 5 năm 2016
Đại Điện toàn thể Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ
(Ký tên)


FOR IMMEDIATE RELEASE

TORRANCE, CA-May 22, 2016-A mass fish kill has devastated over 200 miles of Vietnam’s coastline. International observers agree the responsible party is Taiwanese-owned Formosa Ha Tinh Steel, a unit of Formosa Plastics Group. Since early April, Formosa has released toxic wastewater into the ocean off Ha Tinh province. The Vietnamese government has covered up for Formosa and violently suppressed public protest. The U.S.-based Vietnamese Buddhist Youth Association urges the world’s nations to demand transparency from the Vietnamese government and support the right of Vietnamese people to peacefully protest this threat to their health and livelihood.

Hundreds of thousands of tons of dead marine creatures choke the waters off the central coast of Vietnam, from Ha Tinh to Da Nang. The kill includes rare species typically found miles offshore in deep waters. Many Vietnamese have been sickened by eating toxic fish. Thousands of fishermen and tourist industry workers are out of work. Citizens from Hanoi to Saigon have attempted to peacefully protest Formosa’s negligence. The Vietnamese government has responded by harassing and abusing protestors, including woman and children. Violent attacks on demonstrators have been documented.
We, the Vietnamese Buddhist Youth Association of America, issue the following four statements and demands:

1)  The Formosa company has committed an egregious crime of environmental ruin. It has destroyed not just sea life but also the lives of Vietnamese citizens who rely on the sea for their subsistence. Formosa should immediately halt the release of untreated wastewater. If the pollution cannot be stopped at once, the plant should shut down permanently. Formosa should issue the Vietnamese people a formal apology.

2) The Vietnamese government has been complicit with Formosa and has failed to safeguard the health of its people and environment. We demand transparency, including expedited testing of the seawater to determine the contaminants and extent of the damage. The government should promptly initiate legal proceedings against Formosa.

3) The Vietnamese government has repressed citizens holding peaceful protests. Such protests are legal and protected by the Vietnamese constitution. The people should be neither oppressed nor ignored, but listened to and respected.

4) We believe that public attention, both within and outside Vietnam, can help persuade the Vietnamese government to address the pollution crisis and treat its citizens justly. We encourage intellectuals, artists and journalists in Vietnam and abroad to support each other and speak out. We especially encourage our counterparts in Vietnam—students and young Buddhists—to speak out against persecution and government-sanctioned terrorism. Young people are the power and future of Vietnam.

TORRANCE, California, U.S. May 22, 2016

Vietnamese Buddhist Youth Association of America
Contact: Hung Nguyen
5555 Maricopa St
Torrance, CA 90503
Phone: (3100 634-6503; Fax: (310) 540-8161
Email: vpttbhdhk@yahoo.com


TEMPLATE LETTER TO LAWMAKERS


May 19, 2016

Name, title
Address

Dear Honorable ________,

You must be aware of the environmental disaster off the central coast of Vietnam. Devastating pollution has been caused by untreated waste water being released into the ocean by the Taiwanese-owned Formosa conglomerate steel plant in Ha Tinh, Vietnam.

Hundreds of thousands of tons of fish, including rare species that live far offshore and in the deep ocean, have been discovered on beaches along the provinces of Ha Tinh, Quang Tri, Quang Binh, Thua-Thien Hue and others. Many Vietnamese have been sickened by unknowingly eating the infected fishes. Thousands of Vietnamese have peacefully protested the damage, only to be brutally repressed.

We urge you to put pressure on the Vietnamese government to do the following:
1. Allow an international team to objectively investigate the cause and extent of the damage.
2. Stop the pollution at its source and prevent further damage to the environment.
3. Clean fouled waters and cleanse tainted coastal areas.
4. Respect human rights, including the right of citizens to conduct peaceful protests
5. Release unlawful detained protestors and prisoners of conscience.

In addition, we hope you will raise these issues with the Vietnamese government and encourage President Obama on his visit to Vietnam to do the same. Thank you.

Sincerely,

Your Name, Title
Address


                                            LÁ THƯ MẪU 
                                   (Gởi những nhà chức sắc)

Ngày 19 tháng 5 năm 2016
Tên, chức danh
Địa chỉ

Kính Thưa Quý Nghị Sĩ,

Chắc hẳn gần đây Quý Nghị Sĩ đã nghe nhiều về các thảm họa môi trường dọc bờ biển Miền Trung Việt Nam. Ô nhiễm nghiêm trọng đã bị gây ra bởi nước thải chưa qua xử lý đúng mức xả vào biển Hà Tĩnh, Việt Nam, từ các nhà máy thép của tập đoàn Formosa Đài Loan.

Hàng ngàn tấn cá, trong đó có những loài quý hiếm sống xa ngoài khơi và sâu dưới đại dương, đã được phát hiện trên bờ biển dọc theo các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên và nhiều nơi khác. Nhiều người Việt Nam đã bị bịnh do vô tình ăn cá bị nhiễm độc. Hàng ngàn người dân Việt Nam biểu tình ôn hòa đòi môi trường sạch và yêu cầu nhà cầm quyền minh bạch thông tin đã bị đàn áp dã man.

Chúng tôi khẩn mong Ngài hãy gây áp lực yêu cầu chính phủ Việt Nam phải thực hiện những điều sau:


  • Cho phép một cơ quan quốc tế điều tra nguyên nhân và mức độ thiệt hại.
  • Chặn đứng nguồn ô nhiễm và có biện pháp ngăn ngừa để môi trường không bị thiệt hại thêm.
  • Làm sạch nước bị ô nhiễm và làm sạch các khu vực ven biển bị nhiễm độc.
  • Tôn trọng nhân quyền, bao gồm quyền biểu tình ôn hòa của người dân.
  • Thả người biểu tình bị bắt giữ trái pháp luật và các tù nhân lương tâm.
Thêm vào đó, chúng tôi hy vọng Ngài sẽ đặt vấn đề với chính phủ Việt Nam và yêu cầu Tổng thống Obama cũng làm như thế trong chuyến thăm Việt Nam này. Xin thành kính tri ân Ngài.

Trân trọng,
Ký tên (người gởi)
Chức vụ và đị chỉ


Và đây là nơi để gởi những thư từ này.
Tổng Thống Mỹ và Phó Tống Thống