Showing posts with label Nguyên giác. Show all posts
Showing posts with label Nguyên giác. Show all posts

Monday, June 25, 2018

Chùa Vắng Trong Đặc Khu

Chùa Vắng Trong Đặc Khu
Nguyên Giác 

Đặc khu Xishuangbanna Dai Autonomous Prefecture gần biên giới Lào, Burma và Việt Nam của Trung Quốc. Photo: China Plus

Chùa vắng, là nói chùa không có tăng sĩ. Đặc khu là nói về Xishuangbanna Dai Autonomous Prefecture ở vùng cực nam tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.
Có thể phiên âm Xishuangbanna là Tây Song Bản Nạp, và Dai là chỉ về sắc tộc Thái. Prefecture là đơn vị hành chánh được cai trị theo quy chế đặc biệt, nằm dưới cấp tỉnh, nhưng bao gồm nhiều huyện. Chữ Autonomous có nghĩa là tự trị, nhưng không có nghĩa tự trị theo nghĩa quốc tế, mà chỉ có nghĩa là cán bộ lãnh đạo đặc khu tự trị có toàn quyền hành động rồi báo cáo về thiên triều Bắc Kinh sau - kiểu tiền trảm hậu tấu. Bởi vì, đặc khu luôn luôn là nơi phức tạp.
Trung Quốc có một vài đặc khu để cai trị theo quy chế đặc biệt, thường là ở biên giới, nơi có hơn 50% sắc dân thiểu số. Báo chí thế giới gần đây chú ý tới một số biến động ở các đặc khu Tây Tạng – như Ganzi Tibetan Autonomous Prefecture ở tỉnh Sichuan (Tứ Xuyên), Diqing Tibetan Autonomous Prefecture ở tây bắc tỉnh Yunnan (Vân Nam) – và các đặc khu ở tỉnh Xinjiang (Tân Cương).
Tuy nhiên, Đặc khu Tây Song Bản Nạp lại rất mực bình yên, nơi phẳng lặng không gợn sóng, và là nơi đại đa số dân tu theo Phật Giáo Theravada.
Trung Quốc là nơi có nhiều tông phái Phật giáo, trước kia và cả bây giờ. Câu hỏi có thể nêu lên rằng, hệ phái Phật giáo nào tại TQ thường bị chính phủ Bắc Kinh bỏ quên nhất? Câu trả lời: Phật giáo Thượng tọa bộ, còn gọi là PG Nam Tông, còn gọi là Theravada ở Trung Quốc.
Thậm chí, đối với nhiều người quan sát tin tức trên thế giới, Phật giáo TQ thường được nhắc tới là Bắc Tông và PG Tây Tạng. Không có bao nhiêu bản tin nói về hệ phái PG Nam Tông TQ.  Một phần, vì họ là thiểu số, nhưng phần lớn vì khu vực họ tập trung rất êm ả, không có nhiều biến động để các nhà báo quốc tế chú ý. Có một lý do nữa: có thể vì đa số họ thuộc sắc tộc thiểu số ở phía nam, và tinh thần Đại Hán của các quan chức Bắc Kinh dễ dàng bỏ quên họ. Một thời, dân tộc Đại Hán đã chinh phục miền Nam tỉnh Vân Nam từ nhiều thế kỷ trước, đã trấn áp khốc liệt nhiều cuộc nổi dậy của các sắc tộc địa phương, và bây giờ các nhóm sắc tộc khu vực này không còn sức nào để đối kháng hay đòi ly khai, tuy rằng văn hóa rất mực dị biệt.
Bái viết nơi đây dựa vào nhiều nguồn, trong đó phần chính dựa vào bài “Theravada Buddhism and Dai Identity in Jinghong, Xishuangbanna” (PG Nam Tông và Căn Cước Người Thái ở thị trấn Jinghong, Xishuangbanna) của GS James Granderson trên khóa mùa Xuân 2015 của SIT Study Abroad, và bài “The Soft Power Limits of Chinese Theravada Buddhism” (Hạn Chế Quyền Lực Mềm của PG Nam Tông TQ) của học giả Zi Yang trên tạp chí The Diplomat ngày 15/8/2017.
Nói một lời ngắn gọn là: PG Nam Tông TQ không là cái gì trong mắt triều đình Bắc Kinh.
Trong nhiều thế kỷ, Vân Nam là cửa ngõ của TQ để vào Đông Nam Á. PG Nam Tông tiến vào tỉnh Vân Nam từ thế kỷ thứ 7, xuyên qua Miến Điện và ảnh hưởng sâu đậm trong các sắc dân Dai, Blang, và Palaung trong khu vực này.
Dân tộc Dai, dịch ra tiếng Việt là người Thái. Sắc tộc Thái là một trong các sắc dân chính trong Khu Tự Trị Xishuangbanna Dai (người Thái Tây Song Bản Nạp). Sắc tộc Thái cũng sống rải rác  ở Lào, Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện. Dân tộc Palaung dịch ra tiếng Việt là Đức Ngang hay Băng Long. Dân tộc Blang, dịch ra tiếng Việt là Bố Lãng. Tổ chức truyền giáo Asia Harvest USA của Tin Lành  Hoa Kỳ đưa ra cuộc nghiên cứu nói rằng người Blang và các dân tộc khu vực này phần lớn, có thể là 80%, theo PG Nam Tông, đôi khi cùng lúc thờ tổ tiên và vật tổ. Tuy nhiên, GS Granderson cho biết tỷ lệ Phật tử phải đông hơn nhiều, ít nhất là với sắc dân Thái, có lẽ đại đa số theo PG Nam Tông, vì đi đâu trong đặc khu cũng nhìn thấy người dân có xâm chữ trong Kinh Phật trên cổ, vai, lưng bàn tay, cổ tay, cánh tay.…
Phật Giáo Nam Tông tại Trung Quốc như thế chỉ ảnh hưởng khu vực biên giới gần Miến Điện và Lào. Nhiều thập niên trước, PG Nam Tông tại Trung Quốc cũng bị thiệt hại lớn trong thời kỳ đầu chủ nghĩa CS với cớ chống phong kiến, đập phá chùa chiền, bắt nhiều vị sư hoàn tục, trong khi sinh hoạt nghi lễ PG bị cấm. Khởi đầu đàn áp là cuối thập niên 1950s, nhưng cao điểm là Cách Mạng Văn Hóa, lúc đó nhiều kinh văn trên lá cũng bị đốt, chùa tháp điêu tàn trong toàn bộ khu  vực PG Nam Tông tại Hoa Lục này. Ngôi chùa có tên The Xishuangbanna General Buddhist Temple, là ngôi chùa Nam Tông lớn nhất tại TQ xây từ thế kỷ thứ 8 lúc đó bị xóa sổ hoàn toàn, sau đó xây lại theo kiến trúc Thái Lan.
Và rồi sau Cách Mạng Văn Hóa, chùa mới cho xây lại, nhưng sự hồi phục của các sinh hoạt tôn giáo rất chậm. Chính thức, nhiều ngôi chùa được phép xây lại, nhưng chính quyền địa phương từ chối trả lại một số khu đất các ngôi chùa bị tịch thu thời Mao. Việc học Phật cũng chậm rãi, phần vì các cán bộ quan sát, nghi ngờ, phần vì kinh sách khu vực này viết bằng ngôn ngữ Cổ Thái (Old Dai language), kết hợp chữ Thái cổ thời pha trộn chữ Pali – nghĩa là, những gì các cán bộ không hiểu, vì cán bộ từ thế giới rất khác của tiếng Hán.
Nhưng chữ Cổ Thái cũng chính là căn cước Phật giáo Nam Tông, là tự hào về nền văn minh cổ thời của dân trong Đặc Khu Xishuangbanna.
Trên đường phố Jinghong, thậm chí ngay trên khu vực làng mạc êm ắng ở Manzhang, dễ dàng nhìn thấy ảnh hưởng Phật Giáo Nam Tông trên làn da cư dân: nhiều người, già lẫn trẻ, nam lẫn nữ, xâm trên da từ cồ trở xuống các câu kinh Phật bằng ngôn ngữ hình tượng của họ. Người thường có khi không hiểu hết các câu kinh Phật đó trên da họ, hiểu tận tường chỉ là các vị sư trong Xishuangbanna và dọc biên giới Thái Lan và Miến Điện.
Phật giáo Nam Tông tại TQ đang gặp nan đề là thiếu tăng sĩ. Trung bình tại Vân Nam, cứ hai ngôi chùa PG Nam Tông chỉ có một nhà sư. Vì thiếu tăng sĩ, nhiều chùa phải đóng cửa, chỉ trừ trong các ngày lễ lớn của Phật giáo. Hiện nay thống kê cho thấy 18.8% các ngôi chùa trong khu vực Xishuangbanna Prefecture là “chùa trống” (nghĩa là, chùa không có tăng sĩ ở trong). Tại các thị trấn Pu’er và Lincang, tỷ lệ chùa trống là 40%. Trong khi đó, tại Dehong Prefecture, tỷ lệ chùa trống là 90.1%, và tại Mang City, 98.2%.
Hãy hình dung tới con số 90% chùa không có sư, và hãy hình dung tới 98.2% chùa không có sư.
Các vị sư ngoại quốc từ Miến Điện và Lào thường được mời sang các chùa Vân Nam để làm các nghi lễ hay thuyết giảng. Tuy nhiên, chính phủ nhìn họ bằng cặp mắt không tin tưởng, bởi vì họ không được tin cậy về chính trị, không hiểu gì và cũng không ca ngợi gì về chính sách nhà nước TQ về xã hội chủ nghĩa, về thống nhất quốc gia và về hòa hợp sắc tộc.
Bên cạnh yếu tố chính trị và thiếu tăng sĩ, nan đề với PG Nam Tông ở TQ còn là thiếu ngân sách và thiếu Phật học viện. Mỗi năm, chính phủ TQ cấp ngân sách lớn để tân trang các ngôi chùa PG Tây Tạng và giáo dục các tu sĩ PG Tây Tạng; một phần cũng vì Tây Tạng bị Bắc Kinh xem như nơi nhạy cảm chính trị. Nhưng PG Nam Tông bị Bắc Kinh bỏ quên, vì cộng đồng tôn giáo này được Bắc Kinh xem là “nhóm dân thiểu số gương mẫu.”
Bất kể quá nhiều dị biệt giữa sắc dân Thái và dân Hán tộc, sắc tộc Thái chưa bao giờ kích động ly khai. Ngay cả khi có người cùng sắc tộc bên kia các biên giới, sắc dân Thái tại TQ không hề bộc lộ ý định ly khai. Cũng vì không có vấn đề gì, cho nên Bắc Kinh không cấp nhiều ngân sách cho các ngôi chùa PG Nam Tông, trong khi cấp rất nhiều tiền cho các hoạt động của PG Tây Tạng.
Chỉ có 3 Phật học viện tại TQ dạy các môn học về PG Nam Tông. Nhưng cả 3 đều thiếu ngân sách. Thêm nữa, phẩm chất giáo dục lại kém so với các Phật học viện PG Nam Tông tại Thái Lan. Do vậy, ước mơ lớn của các học tăng trẻ là hoàn tất đại học tại một trong các đại học PG tầm cỡ thế giới ở Thái Lan, Đại học Mahachulalongkornrajavidyalaya University hay Mahamakut Buddhist University.
Cũng từng có những cuộc nói chuyện về việc xây trường dạy ngôn ngữ Pali cao cấp đầu tiên ở TQ tại Vân Nam kể từ 2012, nhưng có không gì xúc tiến chỉ trừ việc mua một khoảnh đất.
PG Nam Tông tại TQ không thể là một tác nhân quyền lực mềm tại Trung Quốc. Do vậy chính sách nhà nước Bắc Kinh cũng không đặt trọng tâm vào Phật giáo Nam Tông như một công cụ chính trị quốc tế. Cơ chế cũng không cho cộng đồng PG Nam Tông vận động được gì tại Bắc Kinh. Điều này dễ hiểu vì TQ là nơi các vị sư phải được chính phủ chấp nhận mọi thứ, dù là xin đi du lịch ra hải ngoại hay thực hiện một nghi lễ tôn giáo đơn giản trong khi đang ở hải ngoại. Và tình hình này thấy rõ sẽ còn như thế, kéo dài trong tương lai gần.
Thực ra cũng dễ hiểu. Chính phủ Bắc Kinh chú tâm vào PG Tây Tạng vì còn lo ngại sức lôi cuốn của Đức Đạt Lai Lạt Ma đối với người Tây Tạng trong và ngoài Hoa Lục. Bắc Kinh cũng chú tâm vào PG Bắc Tông vì xem như chiếc cầu để nối kết cộng đồng PG ở Đài Loan và ở các Phố Tàu khắp thế giới. Trong khi đó, PG Nam Tông không có sức mạnh mềm nào để Bắc Kinh bận tâm…
.
Xin được kết nơi đây với một bài thơ, được viết để tặng người bạn thân vừa mới xuất gia tại một ngôi chùa Nam Tông ở Florida. Một thời, bạn này hoạt động từ thiện, lập hội Vì Dân Foundation. Nhiều năm trước, trong một chuyến đi từ thiện ở Campuchia, bạn này bị người lạ đâm 3 nhát dao trọng thương. Việc từ thiện bây giờ bạn này đã bàn giao cho nhà văn Tưởng Năng Tiến. Bây giờ, bạn là Sư Minh Trí. Sau đây, xin có vài dòng thơ tặng sư.
Tiễn sư qua bờ kia
Ôm bình bát, sư đi
khắp mây trời đắp y
tiễn sư về góc núi
kiếp này mấy phân ly

Đứng ngồi đều vì dân
ngực còn đau dao đâm
nước mắt ngập ba cõi
Quan Âm hóa toàn thân

Một thuở ra đi vương lụy
chân mỏi hai bờ Sông Hằng
quay đầu mới hay Minh Trí
tóc rơi theo bụi bên đàng.

Saturday, June 16, 2018

Suy Nghĩ Mùa World Cup



Những đội tuyển của 32 quốc gia được vào Giải World Cup năm 2018.

Suy Nghĩ Mùa World Cup
Nguyên Giác
Thế giới đang sôi nổi với các trận bóng đá World Cup 2018. Những người say mê bóng đá đang nhìn về các đội tuyển đang thi tài ở nước Nga, dán mắt vào các màn hình TV hay máy điện toán, đọc các lời bình luận và quan sát xem bóng đang vào chân ai và sẽ đá về hướng nào. Người Phật tử nghĩ gì về bóng đá? Các ngôi chùa tại Việt Nam có nên tụ tập các em lại để dạy đá banh và để lập các đội bóng đá khi các em nghỉ hè, hay vào những giờ nghỉ sau lớp, hay những ngày nghỉ cuối tuần hay không? Có phải giúp các em tập luyện bóng đá cũng còn tốt hơn để các em chơi game điện tử, vừa hại sức khỏe, vừa mất thì giờ và tiền bạc?
Truyền thống vẫn thường nghĩ về Đạo Phật với hình ảnh Đức Phật ngồi dưới gốc cây Bồ Đề, hay các vị sư ngồi thiền hay đi khất thực. Họa hiếm, nghĩa là rất ít khi, chúng ta nhìn thấy Đạo Phật được mô tả qua hình ảnh thể thao.   
Theo sử liệu, khi Đức Phật còn là Thái tử Tất Đạt Đa đã được giáo dục cả văn lẫn võ. Đến năm 12 tuổi ngài đã thông thạo các môn học Ngũ Minh (năm môn học thế gian: Thanh minh, Công xảo minh, Y phương minh, Nhân minh và Nội minh). Năm 13 tuổi, Thái tử được truyền thụ võ nghệ. Trong một cuộc thi võ với 500 thanh niên trước vương triều, Thái tử thì đã thắng tất cả các môn thi (bắn cung, đánh kiếm, cưỡi ngựa, đấu vật…). Thậm chí sức khỏe phi thường, khi thi bắn cung, ngài đã nâng được chiếc cung rất nặng trước giờ chưa ai nâng nổi và bắn xuyên qua 7 lớp bia đồng trong khi người giỏi nhất cũng chỉ bắn xuyên được 3 lớp. 
Hình như vì lòng tôn kính, chúng ta chưa thấy họa sĩ nào vẽ hình Thái tử Tất Đạt Đa phi ngựa hay đấu vật, như dường đó là những chuyện rất nhỏ, không cần tập luyện. Dĩ nhiên, đó là thời chưa tầm đạo.
Câu hỏi là, Đức Phật dạy gì về các môn thể thao? Có vẻ như, nếu có cũng không nhiều. Lời dạy thường là, các sư hãy tìm nơi góc rừng vắng, ngồi tu thiền quán. 
Trong Kinh Pháp Cú, bài Kệ 204, Đức Phật dạy: Sức khỏe là món quà lớn nhất, biết đủ là tài sản lớn nhất, bạn tin cậy là người thân tốt nhất, Niết Bàn là an lạc lớn nhất (Dịch theo bản của học giả Daw Mya Tin: Health is the greatest gift, contentment is the greatest wealth, a trusted friend is the best relative, Nibbana is the greatest bliss).
Sự tích đi kèm với bài Kệ 204 là chuyện Vua Pasenadi của vương quốc Kosala.  Một hôm, Vua Pasenadi tới tu viện Jetavana sau khi dùng bữa điểm tâm. Bởi vì buổi sáng hôm đó, Vua ăn nhiều cơm với thịt nấu cà ri, nên trong khi nghe kinh, Vua ngủ gà ngủ gật hầu hết thời kinh. Thấy Vua ngủ gật như thế, Đức Phật khuyên nhà vua rằng hàng ngày hay ăn cơm ít, giảm số lượng tới mức tối thiểu một phần mười sáu (1/16) số lượng Vua đang ăn hiện nay.
Nhà vua vâng lời, và sau đó khám phá rằng khi ăn ít như thế, nhà vua gầy ốm hơn, nhưng nhẹ nhàng và nhanh nhẹn hơn, và sức khỏe tốt hơn. Khi Vua Pasenadi trình với Đức Phật như thế, Đức Phật mới đọc bài Kệ 204 trong Kinh Pháp Cú.
Đây cũng là điểm suy nghĩ về chữ “sức khỏe” trong câu đầu bài kệ: có một số bản dịch Kinh Pháp Cú dịch là “không bệnh.”
Hiển nhiên, giữa sức khỏe và không bệnh khác nhau xa lắm. Người “không bệnh” có thể sẽ không đủ “sức khỏe” để chạy và đá banh trên sân cỏ tới 90 phút đồng hồ. Như thế, muốn có sức khỏe là phải luyện tập. Có phải Đức Phật khuyên là chúng ta hãy tập thể dục, chơi thể thao? Chỗ này hẳn là phải đọc kinh điển nhiều mới dám nói, nên xin để các học giả nghiên cứu; chúng ta người đời thường chỉ nên nhìn xem xã hội chung quanh để quan sát, xem những gì thuận pháp, có lợi cho mình và cho người mà làm.
Thêm nữa, chúng ta cũng có thể xem Đức Phật như người đã khởi đầu dạy pháp kiệm ăn, giữ thân mình thon gọn, nhanh nhẹn...
Nhưng, thể thao đời nay lại có chuyện thắng với thua, hai hình ảnh dị biệt. Cứ xem World Cup trên truyền hình là thấy: phe thắng sẽ tưng bừng la hét, phất cờ phóng xe như bay; phe thua ngồi tấm tức khóc, bùi ngùi an ủi nhau.  Thường là như thế.
Bởi vậy, bài Kệ 201 trong Kinh Pháp Cú viết rằng: Chiến thắng sẽ sinh khởi oán thù căm hận, chiến bại sẽ thê thảm khổ đau; người tịch tĩnh sống hạnh phúc trong khi xa lìa cả thắng và bại.
Đó là hạnh của người con Phật. Tuy nhiên, nếu bạn đá banh cho một đội tuyển quốc gia, hễ thua là dân cả nước thê thảm. Thôi thì, tùy thuận chúng sanh, hễ ra sân đá banh là ráng chiến thắng vậy.
Thực sự, thể thao vẫn gắn bó với nhiều truyền thống Đạo Phật. Thí dụ, truyền thống đua ghe Ngo tại Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. 
Báo Giác Ngộ số ngày 19/11/2015 có bản tin nhan đề “Đồng bào Khmer lưu giữ truyền thống đua ghe Ngo”…
Bản tin nói rằng nhiều chùa có riêng đội ghe Ngo. Ngay cả Phật học viện cũng có. Bản tin viết:  “...Suốt 5 năm nay, cứ đến mùa đua ghe Ngo là tất cả thành viên trong gia đình ông Phone đều thu xếp công việc gia đình để chuyên tâm phục vụ cho đội ghe ngo của Trường Trung cấp Pali Nam Bộ.
Bản tin cũng nói, một số chùa lập riêng đội ghe Ngo để tập luyện cho mùa thi đua ghe. Mỗi đội đua ghe Ngo lại có một nhóm hỗ trợ cơm nước, trích: 
Dù không phải là vận động viên bơi ghe Ngo nhưng từ năm 1988 đến nay, bà Trần Thị Chu ở xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Tú luôn sát cánh cùng với đội ghe Ngo chùa Tom Pok Sok của mình để lo cơm nước cho các vận động viên.
Bà Chu chia sẻ: “Từ nhỏ tôi đã rất thích môn thể thao này nên suốt 26 năm qua, cứ tới mùa đua ghe Ngo là theo nấu cơm cho đội ghe. Vì lòng yêu thích nên khi tới mùa đua ghe Ngo là sẵn sàng đi phục vụ”.
Còn gia đình bà Liêu Thị Chênh ở ấp Bưng Lức, xã Đại Ân 2, huyện Trần Đề đã tham gia phục vụ đội ghe ngo chùa Đơm Pô từ hơn 10 năm nay. Bà Chênh cho biết: “Tới mùa đua ghe Ngo là con cháu trong gia đình đều đóng góp công sức và chi phí, cùng nhau hỗ trợ cho đội ghe của chùa Đơm Pô tập luyện. Vì yêu thích nên trong gia đình có đến 4 người tham gia thi đấu”…”(ngưng trích)
Hình như các chùa và Phật tử Miền Tây mình chỉ xem thể thao như mùa lễ hội, như niềm vui… Đơn giản như thế. Nhưng Phật Giáo Thái Lan lại được nhiều vận động viên thể thao xem như nơi nương tựa tâm linh, có sức mạnh huyền bí giúp chiến thắng.
Thí dụ, như bản tin Zing nhan đề “U22 Thái Lan nhờ nhà sư làm phép, xin bùa tại SEA Games 29” vào ngày 12/08/2017 viết, trích:
Trước khi lên đường sang Malaysia dự SEA Games 29, đội tuyển U22 Thái Lan đã tìm đến các nhà sư được cho rằng từng "làm phép" mang đến may mắn cho CLB Leicester City.
Mùa 2015-16, Leicester City qua mặt nhiều tên tuổi lớn để vô địch Premier League. Trên hành trình tới ngôi vương, nhiều người cho rằng đóng góp của nhà sư Thái Lan rất quan trọng. Năm đó, Chủ tịch Vichai của CLB thường xuyên đến xin các nhà sư làm phép mang đến may mắn cho "Bầy cáo"…”(ngưng trích)
Một bài báo trên Buddhistdoor Global trong tháng 10/2010 của nhà nghiên cứu Alastair Gornall nói rằng nhiều võ sĩ quyền thuật Thái Lan trước khi lên đấu võ đài thường tới chùa để xin các nhà sư ban phước lành, thậm chí có khi mời các nhà sư tới xem trận đấu (even have monks in the audience!) để an tâm xuất quyền ra chiêu. Gornall bày tỏ không hài lòng về phong tục đó, vì đấu võ là đi ngược  truyền thống bất bạo động của Phật pháp.
Một truyền thống thể thao được biết khắp thế giới là Chùa Thiếu Lâm, nơi xuất phát môn võ Thiếu Lâm, mẹ đẻ các môn võ thuật Trung Hoa.
Tự Điển Wikipedia ghi nhận như sau:
Có lẽ người nổi tiếng nhất có liên hệ với chùa Thiếu Lâm là Bồ đề đạt ma. Ông là một nhà sư được cho là từ Ba Tư hoặc Nam Ấn Độ sang Trung Quốc vào thế kỉ thứ 5 hay thứ 6 để truyền bá Phật giáo. Trường phái Phật giáo do Bồ-đề-đạt-ma lập ra ở Thiếu Lâm trở thành nền tảng cho Thiền tông sau này… Sau khi vào Thiếu Lâm tự, truyền thuyết kể rằng Bồ-đề-đạt-ma thấy các nhà sư không có hình thể mạnh khỏe cho thiền định và họ thường ngủ gục trong khi thiền. Chuyện kể rằng Bồ-đề-đạt-ma ngồi thiền quay mặt vào tường trong một hang đá cạnh chùa trong chín năm, sau đó ông giới thiệu một hệ thống các bài tập thể dục được cho là thập bát La-hán chưởng hay là các bài tập co giãn cơ bắp kinh điển Đạt-ma. Dần dần những động tác này phát triển thành võ thuật. Theo truyền thống, các nhà sư Thiếu Lâm phát triển kỹ năng võ thuật để phòng thủ sự tấn công của kẻ địch, như là một phương tiện giữ gìn sức khỏe, và như là một kỉ luật về tinh thần và thể chất.”(ngưng trích)
Như thế, ban đầu, trong truyền thống Trung Hoa, võ thuật là để giữ sức khỏe, để giảm bệnh, để ngồi thiền mà không ngủ gục, để tự vệ…
Nhưng xem kìa, quả banh đang lăn trên sân cỏ… Mùa này là World Cup… Môn bóng đá cũng có một số tuyển thủ nổi tiếng thế giới theo Đạo Phật.
Các Phật tử Tây phương nổi bật  trong làng bóng đá là: Mehmet Scholl, Mario Balotelli Barwuah, Roberto Baggio, Fabien Barthez.
Trong đó có Mehmet Scholl, sinh ngày 16/19/1970. Vị trí đá nổi tiếng của ông là tiền vệ cho đội Đức quốc. Bây giờ tuổi lớn, không đá nữa, nhưng về làm quản trị và huấn luyện túc cầu.
Theo Wikipedia, Mehmet Scholl (tên khai sinh là Mehmet Yüksel sinh 16-10-1970) là tiền vệ người Đức gốc Thổ Nhĩ Kỳ.Ông là cầu thủ rất nổi tiếng của Bayern Munich và là một trong những cầu thủ gốc Thổ thành công nhất và được yêu mến nhất tại Đức. Sở hữu kỹ thuật, kiến tạo và khả năng sút phạt tốt, Scholl là một trong những tượng đài của Hùm xám khi thi đấu liên tục cho Bayern từ năm 1992 đến 2007 (15 năm).
Trong khi đó, một cầu thủ Phật tử Ý nổi tiếng là: Mario Balotelli Barwuah (sinh ngày 12 tháng 8/1990) là tiền đạo người Italy gốc Ghana, anh chơi cho câu lạc bộ Nice và đội tuyển bóng đá quốc gia Ý. Anh nổi tiếng không chỉ bởi tài năng bóng đá khi tuổi đời còn rất trẻ mà còn bởi những tai tiếng do tính cách nóng nảy, quậy phá, vô kỷ luật cả trong lẫn ngoài sân cỏ. Chính vì điều này anh được mọi người đặt cho nhiều biệt danh như Super Mario vì tài năng của anh, hay biệt danh "Ngựa chứng" để nói về tính cách ngông cuồng, vô kỷ luật của Balotelli. Hãy tin rằng, với thời gian tu tập thiền quán, tính anh Barwuah sẽ đằm hơn, sẽ rời xa mọi chuyện nóng nảy quậy phá.
Một cầu thủ Phật tử Ý nổi tiếng chân đá huyền thoại có tên là Roberto Baggio. Anh Baggio sinh ngày 18 tháng 2/1967 tại Caldogno, Veneto, là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý, một trong những cầu thủ tài năng và nổi tiếng nhất thập niên 1990 cũng như những năm đầu thập niên 2000. Baggio từng cùng đội tuyển Ý tham dự 3 kỳ World Cup, và là cầu thủ Ý duy nhất ghi được bàn thắng trong cả ba kỳ. Ông là cầu thủ xuất sắc nhất của đội tuyển Ý tại World Cup 1994, người đã dẫn dắt đội bóng áo thiên thanh vào đến trận chung kết và chỉ chịu thua trước Brasil trên chấm phạt đền, đáng chú ý hơn cả chính Baggio lại là một trong 3 cầu thủ của tuyển Ý sút trượt penalty dẫn đến thất bại của đội bóng.
Theo Wikipedia, Baggio đã giành được cả hai danh hiệu cao quý nhất của bóng đá thế giới khi còn thi đấu, Quả bóng vàng châu Âu (1993) và Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA (1993).
Khi Baggio từ ACF Fiorentina chuyển sang Juventus F.C. với giá chuyển nhượng kỉ lục thế giới vào năm 1990, cổ đọng viên biểu tình 3 ngày trước trụ sở ACF Fiorentina và chỉ giải tán khi cảnh sát chống bạo động vào cuộc. Trận cuối ông chơi ở Serie A ( Brescia gặp A. C Milan tháng 3/2004), tuy Baggio không ghi bàn cho Brescia nhưng cổ động viên 2 đội đều đứng bật dậy vỗ tay chúc mừng ông. Ông được mệnh danh là "đuôi ngựa thần thánh" bởi đuôi tóc sau của ông. Ông là một Phật tử nổi tiếng.
Một cầu thủ Phật tử Pháp nổi tiếng là Fabien Barthez. Anh nói minh bạch rằng tất cả thành công của anh là nhờ tu học theo Đạo Phật. Tên đầy đủ là Fabien Alain Barthez, sinh ngày 28/6/1971, sinh ở Lavelanet, Pháp quốc. Vị trí: Thủ môn. 
Theo thông tin trên Wikipedia, tuyển thủ Fabien Alain Barthez từng đoạt một số huy chương khi chơi ở vị trí thủ môn cho Marseille, Manchester United và cùng với đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp giành chức vô địch tại World Cup 1998, Euro 2000 và lọt vào trận chung kết World Cup 2006. Ông cùng với Peter Shilton là 2 thủ môn giữ kỷ lục giữ sạch lưới nhất trong giải vô địch bóng đá thế giới, trong 10 trận. Ở câu lạc bộ, ông đã từng chiến thắng tại giải Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu, một số danh hiệu tại Giải vô địch bóng đá Pháp và Giải bóng đá Ngoại hạng Anh.
Như thế, chúng ta thấy rằng thể thao với Đạo Phật vẫn hòa hợp nhau dễ dàng… Với điều kiện, không bạo động, không gây tổn thương cơ thể đối thủ. Cũng có thể sử dụng thể thao như phương tiện rèn luyện cơ thể để có sức khỏe, không bệnh, hay dùng như lễ hội, dùng như phương tiện giáo dục thiếu niên… 




Friday, June 1, 2018

Đọc “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” Bản Dịch HT Thích Như Điển Nguyên Giác

Bìa sách - Htr. Quảng Pháp

Đọc “Thiền Lâm Tế Nhật Bản”
Bản Dịch HT Thích Như Điển
Nguyên Giác

Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
Tất cả góp ý của người điểm sách nơi đây chỉ để hy vọng làm sáng tỏ ý Thiền, tuy bản thân người điểm sách chỉ là một người học còn non kém và tu chưa sâu.
Đứng về mặt lịch sử, tác phẩm hiển nhiên là một thẩm quyền lớn.
Thứ nhất, vì, theo dịch giả, bản thân “ngài Matsubara Taidoo phải gom góp tài liệu trong bao nhiêu năm mới viết xong cuốn sách nầy, vì Ngài không đề cập trong tác phẩm. Nhưng chúng tôi chắc rằng kinh nghiệm cả một đời người mới viết được một trong những tác phẩm có giá trị như thế.”
Thứ nhì,  Hòa Thượng Thích Như Điển từng du học bên Nhật Bản, và là người rất cẩn trọng chữ nghĩa, thường dịch sát nghĩa, tuy rằng Hòa Thượng khiêm tốn giải thích rằng, trích:
“Tôi có thể đoan chắc rằng tôi dịch tác phẩm nầy của Ngài Matsubara đúng trên 80% ý chính của ông. Ngoại trừ một số chữ không nắm rõ ý chính, kính mong những vị giỏi tiếng Nhật có thể bổ khuyết cho chỗ dịch thiếu sót của chúng tôi...” (ngưng trích)
Nếu lên mạng dò tìm, chúng ta sẽ thấy ngài Matsubara Taido (viết một chữ o, có khi viết chữ o với dầu huyền ở trên) là tác giả nhiều sách về Thiền Nhật Bản. Hiển nhiên, có thêå suy đoán rằng ngài Matsubara có một thẩm quyền tham khảo đối với học giơi quôác tế về lĩnh vực riêng của Thiền Nhâät Bản..
Trong khi đó, trình độ tiếng Nhật của Hòa Thượng Thích Như Điển siêu xuất hơn người.
Bản thân Hòa Thượng giải thích trong Lời Nói Đầu:
“Tôi đến Nhật vào ngày 22 tháng 2 năm 1972 và rời Nhật ngày 22 tháng 4 năm 1977 để sang Đức. Trong hơn 5 năm trường đó, tôi học Nhật Ngữ tại trường Yotsuya khoảng 9 tháng, sau đó thi đỗ vào phân khoa Giáo Dục của Đại Học Teikyo ở Hachiojì, Tokyo. Sau khi tốt nghiệp Đại Học Teikyo, tôi đã thi đỗ vào Cao Học Phật Giáo tại Đại Học Risso. Trong hơn 5 năm ở Nhật, tôi có hơn 4 năm ở chùa Honryuji, tại Hachioji, Tokyo thuộc Tông phái Nhật Liên Tông. Trong thời gian ấy tôi có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với tiếng Nhật nhiều, trong đời sống hằng ngày như giao tiếp, làm việc, tụng kinh, cúng đám, cầu an, cầu siêu, đám ma, cưới hỏi. Ngay cả những tập tục khác của người Nhật, tôi cũng học làm quen. Để rồi từ đó tôi có một cái vốn ngữ vựng rất lớn và rất tự tin về khả năng Nhật ngữ của mình. Được diễm phúc như thế là nhờ sự chăm sóc và đùm bọc của Thầy Oikawa...”(ngưng trích)
Do vậy, kết luận rằng tác phẩm “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” có thẩm quyền như một  sử liệu. Tất cả các sự kiện, các nhân vật, các thăng trầm của Thiền Lâm Tế Nhật Bản đều có thể dựa vào sách này.
Tuy nhiên, có một điểm xin phép nêu lên, trong cách sử dụng chữ, có thể vì ngài Như Điển dịch quá sát nghĩa, có thể làm cho độc giả sơ học  bối rối.
Và cũng có thể vì ngài Như Điển đã rời Việt Nam quá lâu, nên sử dụng hai chữ Nam Truyền và Bắc Truyền để chỉ cho Thiền của Huệ Năng và Thần Tú.
Hai chữ Nam Truyền và Bắc Truyền  tại VN bây giờ cũng thường gọi là Nam Tông và Bắc Tông, chỉ cho hai khuynh hướng Theravada và Mahayana.
Trong khi có thể gọi kiểu Trung Hoa xưa “Nam Năng, Bắc Tú” bằng nhóm chữ Thiền sư Huệ Năng ở phương Nam và Thiền sư Thần Tú ở phương Bắc sẽ không làm nhầm lẫn.
HT Thích Như Điển viết trong sách này là, trích:
“...Thần Tú đắc Thiền với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn xiển dương Thiền Pháp ở miền Bắc Trung Hoa như Trường An và Lạc Dương. Dòng Thiền nầy của Thần Tú được gọi là Thiền Bắc Truyền hay Bắc Tông. Còn Huệ Năng, người đồng môn với Thần Tú, nhỏ hơn đến 30 tuổi, cũng đắc được yếu chỉ của Thiền Tông từ Tổ Hoằng Nhẫn nhưng đi về phía Nam để hoằng truyền Thiền Phái, nên Thiền của Huệ Năng được gọi là Thiền Nam Truyền hay Thiền Nam Tông....
Về sau, Thiền phái Bắc Truyền Thần Tú suy vi, phái Thiền Nam Truyền của Huệ Năng lại ngày càng phát triển mạnh mẽ. Theo một số khảo sát nghiên cứu cho biết dần dần những bậc nhân tài ở Thiền Pháp Bắc Truyền của Thần Tú trống vắng, ngược lại, phái Thiền Nam Truyền lại thích nghi được với con người và phong thổ...”(ngưng trích)
.
Sách “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara cũng dẫn ra bài kệ Thiền Tông:
Giáo ngoại biệt truyền,  
Bất lập văn tự,  
Trực chỉ nhân tâm,  
Kiến tánh thành Phật.
Và ghi rằng, trích:
“...Bất lập văn tự có thể là phương thức của Thiền để nói hiểu rõ về ngôn ngữ và văn tự. Song vấn đề chính yếu vẫn là ai ai cũng có tánh Phật, cũng có khả năng để thành Phật.” (ngưng trích)
Trong cương vị người đọc sách, xin nêu ý kiến rằng “bất lập văn tự” có lẽ không mang nội dung muốn làm “hiểu rõ về ngôn ngữ và văn tự.”
Ngắn gọn, “bất lập văn tự” là nêu lên ý ly nhất thiết tướng, xa lìa tất cả các tướng, lúc đó mới nắm được thực tướng vô tướng. Bởi vì văn tự là vin vào tướng mà dựng lập.
Đó là chỗ của tịch lặng...
Lấy thí dụ đơn giản, chư tổ nói rằng như người uống nước, ấm lạnh tự biết, không nói chi được. Tương tự, vị ngọt của nước mưa khác với vị ngọt của nước giếng, nước suối... Biết khác, mà không nói minh bạch được. Nơi đây, ngôn ngữ không thể nói gì được, huống gì là nói tới cảnh giới trí huệ bất khả nghĩ bàn.
.
Tới đây xin nói về con vịt trời.
Trong sách “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara kể chuyện, trích:
“...có câu chuyện Thiền, đối thoại giữa Mã Tổ Đạo Nhất với đệ tử Ngài là Tổ Bách Trượng; khi hai người đang đi trên đường.
Thấy con vịt trời hãi sợ bay lên, vì nghe tiếng động bước chân. Mã Tổ hỏi Bách Trượng:  
- “Cái gì vậy?”  
Bách Trượng trả lời:  
- “ Con vịt trời” Mã Tổ hỏi:  
- “Đâu rồi?”  Bách Trượng trả lời:  
- “Bay mất rồi”.
Trong khi Bách Trượng suy nghĩ để trả lời cho Thầy, không hiểu sao tự nhiên Ngài Mã Tổ bốp mũi Ngài Bách Trượng một cái. Ngài Bách Trượng la:  
- “Đau quá.”  
Ngay lập tức Mã Tổ hỏi  
- “Đã bay mất rồi, thì làm sao đau được.”
Ngài Bách Trượng thấy con vịt trời nhưng chẳng nghĩ mình là con vịt trời. Thế nhưng Ngài Mã Tổ, sư phụ của Ngài Bách Trượng đã nối kết con vịt trời với Ngài Bách Trượng như đồng nhất một tiêu điểm và chỉ rằng: “Vịt trời là Bách Trượng. Bách Trượng là vịt trời”...”(ngưng trích)

Như thế, ngài Matsubara kể lại khác với bản gốc trong Bách Trượng Ngữ Lục.
Bản Việt dịch của Thầy Thích Duy Lực từ Bách Trượng Ngữ Lục, trích như sau:
“...Một hôm sư theo hầu Mã Tổ, có một bầy vịt trời bay qua, Tổ nói:
"Là gì vậy?" - Sư nói: "Vịt trời". Tổ nói: "Đi đâu rồi?" - Sư nói: "Bay qua rồi". Tổ bèn quay lại nhéo mũi Sư một cái, Sư đau la thất thanh. Tổ nói: "Sao nói bay qua rồi!".
Sư ngay đó tỉnh ngộ, rồi liền trở về phòng thị giả khóc to thảm thiết....”(ngưng trích)

Trong Bích Nham Lục (Một Trăm Công Án Thiền Tông), bản Việt dịch của HT Thích Mãn Giác kể về Tắc Thứ 53, nhan đề “Con Vịt Trời của Mã Đaị Sư” -- trích như sau:
“THÙY: Khắp nơi không ẩn, toàn cơ độc lộ, gặp chuyện không vướng, luôn luôn có cơ duyên xuất thân. Trong câu vô tư, chỗ nào cũng có ý giết người. Song thử nói xem, rốt cuộc cổ nhân an nghỉ ở chỗ nào? Thử nêu lên xem.
CỬ: Một lần kia Mã Đại Sư tản bộ với Bách Trượng, thấy có bầy vịt trời bay qua. Mã Đại Sư hỏi, “Cái gì vậy?” Bách Trượng nói, “Vịt trời.” Mã Đại Sư nói, “Bay đi đâu vậy?” Bách Trượng nói, “Bay đi mất rồi.” Mã Đại Sư bèn bẹo mũi Bách Trượng. Bách Trượng đau quá kêu lên. Mã Đại Sư nói, “Đã từng bay đi đâu?” (ngưng trích)

Xin phép trình bày, trong Bích Nham Lục viết: “Đã từng bay đi đâu.” Và Bách Trượng Ngữ Lục viết: “Sao nói bay qua rồi!”
Như thế, không có ý nói “Vịt trời là Bách Trượng. Bách Trượng là vịt trời”...
Mà chỉ nói rằng, cái được thấy (con vịt trời bay rồi) nhưng cái thọ tưởng (mũi bị bóp đau, làm kêu lên) vẫn còn đó...
Chỉ vào con vịt trời và bóp mũi cho đau chính là “Trực chỉ nhân tâm.”
Có lẽ ý chư tổ là như thế.

Tương tự, nơi trang 123 sách “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara, bản dịch của Ngài Như Điển viết, trích:
“Tiếp theo “Triệu Châu Vô Tự” là một công án ghi rõ trong tác phẩm “Vô Môn Quan”của Trung Hoa, trong đó có viết về Hoà Thượng Triệu Châu tịch năm 897 một câu chuyện như thế nầy:
Có người học Thiền hỏi:  
- Bạch Ngài, con chó có Phật Tánh không?
Triệu Châu đáp:
- Không.
Chữ Không trở thành công án. Thông thường, không đối lại với có, bởi vì cả hai khái niệm không và có vẫn thuộc tương đối. Thật ra, chữ không ở đây không có nghĩa là không, cho nên không thể dùng lý luận để giải quyết công án được. Nếu dùng tri thức tương đối để nhận ra, thì phải dùng cái lực khác để phá vỡ nó đi.”(ngưng trích)
Ngài Matsubara viết về chữ Không như thế cực kỳ tuyệt vời. Vì như thế đúng với lời bình của ngài Vô Môn Huệ Khai (1183-1260), tác giả Vô Môn Quan, trong đó Tắc đầu tiên là “Con Chó Của Triệu Châu,”  trích (bản dịch Dương Đình Hỷ):
“Cử :
Một ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Con chó có Phật tánh không?
-Không!
.
Bình :
Tham thiền phải qua cửa tổ, diệu ngộ phải tuyệt đường tâm. Cửa tổ không qua, đường tâm chẳng dứt thì như tinh linh nương vào cây cỏ. Thử hỏi thế nào là cửa tổ? Chính là một chữ Không, gọi là Cửa không cửa của thiền vậy.”(ngưng trích)
.
Như vậy, xa lìa cả có và không là thế nào?
Thực ra, bất kỳ ai trì tụng Kinh Kim Cương đều có thể nhận ra rất đơn giản:
-- chỉ cần thay chữ “con chó” bằng chữ “chúng sinh tướng”...
-- và thay chữ “Phật Tánh” bằng chữ “Thực tướng Vô tướng” là tức khắc thế giới sáng rực trước mắt.
Lúc đó, tất cả các pháp đều rỗng rang vô tướng... Hễ còn vướng vào tướng nhân, tướng ngã, tướng chúng sinh... là cứ xoay vòng cõi này thôi.
Hễ lấy sắc tướng và âm thanh mà cầu Phật, dù là cầu Phật Tánh đều là tà đạo.
Đức Phật nói trong Kinh Kim Cương: nhược kiến chư tướng phi tứớng, tức kiến Như Lai. Nếu thấy các tướng không phải là tướng, tức là thấy Như Lai.
.
Câu hỏi rằng, Đức Phật có dạy công án không?
Xin trả lời: Đức Phật dạy công án, và dạy khó vô cùng tận.
Chư Tổ Trung Hoa và Việt Nam đưa các công án về đời thường, cầm gậy đưa ra, hay chỉ vào vịt trời, hay chỉ vào cây bách trước sân, hay chỉ vào bà già bán bánh, hay nói về con trâu còn kẹt cái đuôi nơi cửa sổ, hay chỉ vào con chó... đều là hình tượng hóa các công án của Đức Phật.
Đức Phật dạy công án khó thế nào? Khó tới mức rất trừu tượng, không còn thấy hình tướng gì nữa, vì đưa tất cả  hình tướng trở về vô tướng: Đức Phật chỉ vào tứ đại (đất nước gió lửa), vào ngũ uấn (sắc thọ tưởng hành thức) -- nghĩa là, những gì rất mực trừu tượng, không còn tướng mạo gì cả.
Và tất cả, đều chỉ vào thực tướng vô tướng, nơi đó là Không, là Vô Ngã... là thấy tướng mà không phải là tướng, mới đúng là thấy Như Lai.
Trong sách ngài Matsubara cũng tuyệt vời là khi kể truyện về ngài Bạch Ẩn Huệ Hạc, với bài “Toạ Thiền Hoà Tán” -- xin trích mấy câu tuyệt vời như sau:
“...30) Ngay nơi tự tánh chứng biết  
Tự tánh tức vô tánh  
Việc ấy rời hý luận  
Nhân quả nhất như đà mở cửa  
Chẳng hai chẳng ba mà thẳng lối  
(35) Âm thanh vô tướng vẫn là tướng  
Đến đi đều chẳng có  
Vô niệm chính là niệm  
Múa hát cũng đều là tiếng pháp  
Rộng mở tam muội Không và Vô ngại...”(ngưng trích)
.
Để nói ngắn gọn, tác phẩm  “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” có giá trị lớn về sử liệu, sẽ giúp người hậu học dò tìm các sự kiện, các diễn tiến và các nhân vật Thiền Lâm Tế Nhật Bản. Tác phẩm cần có trong các tủ sách về Phật giáo Nhật Bản và về Thiền Lâm Tế Nhật Bản.
Người điểm sách trân trọng cảm ơn tác giả Matsubara và dịch giả HT Thích Như Điển đã để lại một sử liệu giá trị.

Tìm mua sách này, xin vào Amazon.com và gõ chữ “thien lam te nhat ban”...