Hòa Thượng Thích Phước Tịnh
Công Trình Giáo Dục Của Phật Giáo Tại Mỹ
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính bạch hiện tiền chư Tôn Đức Tăng Ni.
Kính thưa quý Đồng hương, Phật tử.
Kính thưa quý Đồng hương, Phật tử.
Chúng con rất cảm ơn chư Tôn Đức Tăng Ni đã cho phép chúng con đóng góp một vài suy nghĩ rất hạn hẹp của mình đến công trình giáo dục của đạo Phật tại Mỹ.
I. Bản chất công trình giáo dục của đạo Phật.
Chúng ta đều biết, giáo dục là công trình quan trọng hàng đầu cho mọi nền phát triển của xã hội văn minh. Giáo dục xây dựng tính nhân văn cho một quốc gia và làm thành nhân cách sống con người cao quý, thiện lành, đẹp đẽ và hạnh phúc cho từng cá nhân trên hành tinh này. Đạo phật đã có một bề dầy 26 thế kỷ của công trình giáo dục, tạo thành mảng văn hóa lớn cống hiến cho xã hội loài người từ quá khứ đến hiện tại. Nền tảng giáo dục của đạo Phật xưa cũng rất xưa, nhưng mới cũng rất mới do đặc tính khai phóng, nhân văn, nâng cao trí tuệ, lòng thương yêu và tự do con người lên đến tuyệt đỉnh; trên nền tảng nhân bản – lấy con người làm bản vị – mà không hề đặt thân phận con người vào bàn tay của đấng Thần linh nào từ bên trên áp đặt. Thế nên, xã hội càng văn minh, nhu cầu hiểu biết và hạnh phúc con người càng cao, thì càng nhận ra đạo Phật mở cho họ nhiều cánh cửa hiểu biết, nhiều phương pháp thực tập đầy trí tuệ để thành tựu phẩm chất đời sống tự thân và cộng đồng. Đây là sắc thái đặc thù chưa tìm thấy nơi dòng chảy tâm linh nào ngoài đạo Phật.
Trong quá khứ, từ nguồn chảy ban đầu trên đất Ấn, đức Thế Tôn đã không chấp nhận một tôn giáo cuồng tín nơi vị giáo chủ, một nền giáo dục đạo Phật nhồi sọ niềm tin và phương pháp tu tập ỷ lại thần linh, phó thác đời mình vào tay người khác. Những phương pháp van xin, cầu khấn, trốn chạy bốn chân lý hiện thực giữa đời sống chưa từng có trong lời dạy của Ngài. Tuy nhiên, khi dòng chảy xa nguồn, đi qua các vùng văn hóa khác biệt, các bậc Thánh Tăng truyền bá chánh pháp đã ít nhiều mở ra những cánh cửa phương tiện để pháp hành của Phật đến được với người bản địa. Thế nên, có những hình thái sinh hoạt của đạo Phật hiện tại không hề là đạo Phật nguyên chất ban đầu. Sự thuận lợi của công trình phổ biến Pháp tuy có giúp người tiếp nhận Giáo Pháp rất dễ, nhưng đồng cũng thời tạo thành những nhánh chùm gởi, bám chặt vào thân cây hút cạn nhựa sống của đạo Phật nguyên sơ, đã làm cho bao người bỡ ngỡ khi nhìn vào hình thức sinh hoạt của Phật giáo hiện tại. Thiệt thòi hơn nữa, người tu chúng ta lại nhận lầm những nhánh chùm gởi chính là đạo Phật. Đây là một sai lầm to lớn không riêng gì đạo Phật Việt Nam mà chung cho người Phật tử Nam Bắc truyền Phật giáo.
Đất nước chúng ta đã tiếp nhận đạo Phật từ Ấn Độ đi ngang qua các vùng văn minh Trung Á, Hoa Hạ, Tây Tạng nhuộm đầy bản sắc và tập tục của các địa phương đạo Phật từng phát triển. Cộng thêm gần 2,000 năm gắn liền với niềm tin đa thần của dân tộc Việt, nên trở thành một gia tài cồng kềnh trên vai Tăng, Ni và Phật tử khó bề gỡ xuống. Càng khó hơn nữa là thay đổi não trạng ta đang tu học theo Phật giáo Đại thừa. Do vậy, để có thể thay đổi chính mình, đổi thay sinh hoạt đạo Phật, để sống còn và hành Đạo được trên đất Mỹ, không thể có con đường nào khác ngoài con đường giáo dục.
II. Hiện tình đạo Phật tại Hoa Kỳ.
Chúng ta – Tăng, Ni và Phật tử Việt – đã có mặt nơi đây khi lịch sử đất nước sang trang sau 1975 và nhiều đợt người đến, sinh ra và trưởng thành cho đến hiện tại. Nhìn chung, chúng ta đã làm được bao điều kỳ vĩ. Thế hệ thứ hai, thứ ba người Việt rất thành công trên miền đất Hứa. Các bậc Thầy có mặt từ trước đã xây dựng được cơ sở tự viện, duy trì được sinh hoạt tôn giáo, làm chỗ tựa tinh thần cho cộng đồng Phật tử Việt Nam. Đây là niềm tự hào rất lớn. Nhưng nhìn thật kỹ, có nhiều điều quan trọng vẫn còn mở ngõ đợi chờ. Chúng ta còn chưa làm cho đạo Phật có sức sống, đáp ứng nhu cầu tu tập cho người trẻ, nuôi dưỡng được các thế hệ tương lai trên đất Mỹ. Càng chưa mở được cánh cửa tu tập, để người bản địa đến với chúng ta. Dường như từ hình thức mái chùa đến nghi lễ tụng niệm, mũ miện nghi trang, cách thức truyền đạt Giáo pháp và văn hoá ứng xử của chúng ta đậm nét một đạo Phật hình thức rườm rà, già cỗi, cách biệt đời sống thực tiễn, chỉ có thể đáp ứng cho những người gìa Việt Nam sẵn tín tâm đã quy y tự ngày xưa. Có lẽ, tệ nạn này sẽ chảy dài mãi cho đến bao giờ chúng ta dám nhận diện những hạn chế của mình và quyết tâm thay đổi.
III. Nhu cầu giáo dục của Phật giáo Việt Nam tại Mỹ.
Một nhà xã hội học Hoa Kỳ đã bảo: “Cho dù bạn đánh sập nền kinh tế Mỹ đến tận đáy cũng không thể kéo sự phát triển khoa học và nền dân chủ nơi đây xuống thấp hơn, khi những trường đại học Mỹ vẫn sừng sững hiên ngang và luôn tỏa sáng”. Chắc hẳn rằng: đây không phải là lời tuyên bố vô căn cứ. Nước Mỹ đã dẫn dắt thế giới về mọi mặt của đời sống văn minh, do vì hệ thống giáo dục của họ từ thấp lên cao luôn sống động, mới mẻ và đi tới. Chúng ta chưa từng nghe từ ngữ “đổi mới chương trình giáo dục” của chính phủ Hoa Kỳ chỉ thị từ thời lập quốc đến hiện tại. Bởi lẽ bản chất nền giáo dục Mỹ luôn mới. Tự thân nó luôn đổi thay, thích ứng và dẫn dắt xã hội đi lên. Từ đấy, nhìn lại một dòng chảy tuệ giác được sinh ra từ đấng Giác Ngộ sống còn đến hôm nay, không chỉ đơn thuần vì đấy là chân lý mà còn do đặc tính hội nhập vào các nền văn minh, nhưng không mất phẩm chất của nội dung trí tuệ từ bi rất tinh túy. Biểu hiện và duy trì được sắc thái này, hẳn nhiên từ công trình khéo thích ứng và nền giáo dục khai phóng của đạo Phật đã luôn sóng vai cùng xã hội phát triển.
Trên nền tảng này, nhìn lại đường đi của đạo Phật Việt Nam nơi đất nước văn minh mà chúng ta hiện sống, sẽ thấy sự khập khiễng đáng thương của một hình thái Phật giáo mà chúng ta đang cố tình xây dựng nơi đất nước Hoa Kỳ. Có thể chúng ta vin vào muôn ngàn lý cớ để tự mãn, để ru ngủ và bằng lòng với sự sống còn của đạo Phật nơi đây – nhất là công trình giáo dục chung chung cho những người con Phật. Nhưng nếu quan sát đủ rộng và suy nghĩ đủ xa, chúng ta sẽ cùng chấp nhận rằng: Nếu cứ hình thức rườm rà và công trình giáo dục nặng nề của một đạo Phật mang đầy nhánh chùm gởi như sinh hoạt Phật giáo Việt Nam hiện tại, chúng ta chẳng những đánh mất mình mà mất luôn các thế hệ tương lai nhất là bội bạc với dòng tuệ giác sinh động của đức Thế Tôn đã hiến tặng cho nhân thế.
IV. Những đề xuất cho công trình giáo dục.
Cuối cùng, chúng con xin mạo muội đề xuất vài ý kiến cho công trình giáo dục Phật giáo nơi đây:
1. Nên có sự tham khảo và tiếp nhận ý kiến đủ rộng từ các bậc Thầy về nhiều lĩnh vực giáo dục trong xã hội và Phật giáo để xây dựng chân đế cho công trình giáo dục ngắn hạn và dài hạn của đạo Phật tại Mỹ.
2. Đặt trọng tâm vào đối tượng thanh thiếu niên, người trung niên trong xã hội. Khai triển những phương pháp thực tập, đáp ứng được nhu cầu đời sống rất thực của con người nơi đây.
3. Bỏ bớt những hình thức rườm rà lễ mạo, những tập tục không cần thiết, những tín ngưỡng nặng giáo điều và sùng thượng cuồng dại thành phần Tăng lữ. Hãy phục hồi một đạo Phật trong sáng, giản dị, sống động, hiện thực và hữu ích hơn từ nền tảng của giáo lý Nguyên thủy. Xây dựng lại nếp sống thanh đạm, trí tuệ và đạo hạnh của người xuất gia; sống hòa ái yêu thương, phụng sự tha nhân nhưng đầy hạnh phúc hiền minh qua pháp hành cho người cư sĩ giữa cuộc sống trần tục.
4. Tùy vào khả năng và vai trò của mỗi người con Phật có thể làm được – và ai cũng có thể làm được, là hãy thay đổi tự thân bằng công trình tự nuôi dưỡng mình từ pháp học và pháp hành thực sự nghiêm túc. Để có thể đến được với nhau bằng trái tim hòa ái tương kính và cùng hướng về tương lai, cống hiến một chút gì cho thế hệ kế tiếp. Chỉ ngần này thôi chúng ta mới mong đẩy được nền giáo dục Phật giáo tại Mỹ có được một hình hài khang kiện, tươi mới và sống động; thâm nhập vào văn hóa Mỹ để tồn tại và phát triển.
V. Kết luận.
Một đời giáo hóa của đức Thế Tôn, điều Ngài làm không mỏi mệt và di chúc cho các thế hệ người con Phật kế thừa là “giáo hóa thông”. Thần thông của đạo Phật không hề đi trên mây hay ẩn thân nơi này, hiện thân nơi nọ, mà thần thông là giáo hóa con người, tự mình chuyển hóa nghĩ suy, nói năng và hành động, để thành tựu an lạc hạnh phúc hiện tiền và chứng nghiệm giải thoát giữa cuộc sống trần thế. Thế nên, công tác giáo dục được nhiều thế hệ Phật tử đặt lên hàng đầu trong công trình hành Đạo. Có thể công trình này phải mất thời gian rất dài và cho phép bao cơ hội tái lập sau những lần lệch hướng. Thế nhưng, chúng ta hãy bắt đầu bằng con đường học thẳng vào Kinh tạng thuần chất nguyên sơ, đủ thông minh nhận ra những phần thêm thắt của các thế hệ Tăng sĩ kế thừa kiết tập. Đưa đạo Phật và người tu Phật trở về nguồn cội của pháp hành thực sự. Hẳn nhiên, khi học và thực tập sâu xa chúng ta sẽ khám phá rằng bản chất của chân lý được đức Thế Tôn khơi mở và hướng chúng ta đến giải thoát, vốn “phi thần linh và phi tôn giáo”. Bao giờ thành tựu được phẩm chất vô ngã này, chúng ta mới rời bỏ được tinh thần cục bộ, tự mãn và chấp chặc vào tông môn pháp phái, cùng nhau đẩy những việc làm chung đi xa hơn, đủ nhẫn lực hơn và chắc chắn sẽ thành công trong công trình giáo dục của đạo Phật trên đất nước Hoa Kỳ.
Cuối cùng, một lần nữa chúng con xin vô cùng biết ơn chư Tôn Đức Tăng Ni và quý đồng hương Phật tử đã lắng nghe con trình bày những suy nghĩ nông cạn của mình.
Xin chân thành tri ân các vị.
Orange County, ngày 09 tháng 04 năm 2016.
Thích Phước Tịnh
Thích Phước Tịnh


“Đặt trọn vẹn sự chú ý vào phương tiện cũng như vào cứu cánh” đối với Vivekananda, đó là bí quyết của sự thành công. Nỗi nhọc nhằn, sự lầm lỗi lớn lao của con người là bị lôi cuốn thu hút bởi cứu cánh, lý tưởng, mục đích cao đẹp huyễn hoặc và bỏ quên những chi tiết gọi là vụn vặt. Sự thất bại phần lớn là do mình xao lãng phương tiện. Phải có sự chú ý thích ứng đối với phương tiện, đó mới là điều cần thiết. Phương tiện chính xác thì cứu cánh sẽ hiện đến. Nhân tạo quả, quả không thể thành tựu đơn phương. Nhân thế nào thì quả thế ấy. Mỗi khi phương tiện đã được xác định đàng hoàng thì lý tưởng nhất định sẽ được thể hiện. Chúng ta chỉ nên bận tâm đến nguyên nhân, vì kết quả nhất định sẽ do nguyên nhân qui định. “Phương tiện là nguyên nhân: chú ý đến phương tiện mới là bí quyết vĩ đại của đời sống” (The means are the cause: attention to the means, therefore, is the great secret of life). Kinh Gita dạy chúng ta rằng phải làm việc liên tục với trọn sức lực của mình, đặt hết mọi tâm trí trong công việc mình đang làm, dù bất cứ việc gì (We also read this in the Gita and learn that we have to work, constantly work with all our power; to put our whole mind in the work, whatever it be, that we are doing), nhưng điều quan trọng nhất là không nên bị dính kẹt vào việc làm, phải “vô trước”. Làm việc say sưa, hết lòng hết mình, không bị lôi kéo bởi bất cứ cái gì khác, ngoài việc làm của mình, nhưng đồng thời phải có khả năng lìa bỏ việc làm khi cần thiết mà không thấy ái ngại. Làm thì làm hết mình, đặt hết mọi tâm lực vào việc làm, nhưng nếu cần thì có thể bỏ việc làm mà không bị ràng buộc vào việc làm ấy. Nỗi đau khổ lớn lao nhất của con người là ở điểm này: mình đổ hết tất cả năng lực của mình vào việc làm gì đó và có thể việc làm ấy đi đến chỗ đổ vỡ, thế mà mình vẫn không thể bỏ phứt đi được. Dù việc ấy tác hại mình, tạo khổ đau cho mình, mà dứt nó đi thì mình vẫn không làm nổi. Vivekananda ví tình cảnh ấy như một con ong hút mật ngọt, nhưng khi bị dính vào lọ mật, lại không thể rút đi. Tất cả bí mật của đời sống là ở chỗ ấy. Đi tìm tình yêu, đi tìm chất ngon ngọt của tình yêu và lúc bị sa chân dính bẫy vào nỗi cay đắng của tình yêu thì lại không có khả năng rút chân đi, rồi lại phải chịu chết dần chết mòn trong sự bất lực. “Chúng ta bị vướng kẹt, dù chúng ta tìm đến để bắt lấy. Chúng ta tìm đến để thụ hưởng nhưng rồi lại bị thụ hưởng. Chúng ta tìm đến để thống trị nhưng rồi lại bị thống trị. Chúng ta tìm đến để làm việc nhưng rồi lại bị sai sử” (We are caught, though we came to catch. We came to enjoy; we are being enjoyed. We came to rule; we are being ruled. We came to work ; we are being worked). Đó là thảm kịch của suốt đời mình. Chúng ta cố gắng tác động đến tâm thức của kẻ khác, nhưng thực ra chúng ta lại bị tâm thức kẻ khác tác động. Năng biến thành sở, chủ nhân ông chính là nạn nhân của kẻ mà mình tự nhận là chủ. Giống như người đàn ông yêu người đàn bà, cai trị, làm chủ, thống trị đàn bà, tưởng rằng mình kéo mũi đàn bà, nhưng một cách tế nhị, chính người đàn ông anh hùng kia chỉ là nạn nhân vô ý thức của kẻ mà mình tưởng là nô lệ của mình. Chủ chỉ là nạn nhân của nô lệ. “Chúng ta muốn tận hưởng những hoan lạc của đời sống; nhưng chính những hoan lạc ấy lại ăn mòn tàn phá tâm não chúng ta. Chúng ta muốn ôm lấy rút tỉa mọi sự từ thiên nhiên, nhưng rồi thì chúng ta mới sực thấy rằng rút cục thiên nhiên lấy mất tất cả mọi sự trong ta — khánh tận chúng ta và quăng ném chúng ta ra ngoài lề” (We want to enjoy the pleasures of life; and they eat into our vitals. We want to get everything from nature, but we find in the long run that nature takes everything from us — depletes us, and casts us aside). Giống như dự thế của khoa học cơ khí ở thế kỷ hai mươi, con người hiện đại muốn khai thác thống trị thiên nhiên, nhưng sau cùng chính thiên nhiên lại quăng ném con người vào hố thẳm. Nhưng dù gì đi nữa thì mọi sự không hẳn là tuyệt vọng, nếu con người còn có khả năng thoát ra ngoài sự chấp trước: không bị vướng mắc dính kẹt. Tai nạn lớn nhất của con người là bị dính keo, mắc lưới: đeo dính vào một cái gì đó là bị mắc vào đó, trói buộc vào đó. Vivekananda nhắc lại đạo lý của kinh Gita: Làm việc thường trực liên tục bền bỉ; làm việc mà không bị trước nhiễm bởi công việc, không bị vướng kẹt (Work constantly; work, but be not attached; be not caught).



