Saturday, May 21, 2022

Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Liệu, Phật giáo có thể tồn tại ở Mỹ không? – Dẫn nhập | Is Buddhism Surviving America? – Introduction

 

 

Phỏng vấn của Amy Edelstein với Helen Tworkov, biên tập viên tạp chí Tricycle

 

Đó là một trong những ngày ấm áp đầu tiên của mùa Xuân, khi những cây táo cua đã nở rộ dọc theo Riverside Drive. Đến Manhattan và băng qua những con phố đông đúc, nhộn nhịp của West Village, tôi tự hỏi: Helen Tworkov là ai?

Chúng tôi đã gặp nhau ở cầu thang của tầng hai bên ngoài tòa soạn tạp chí Tricycle, cô đang ngồi trên bậc thềm sau khi vừa kết thúc một phiên họp. Helen Tworkov đã bắt tay tôi một cách nồng nhiệt, và nhìn thẳng vào mắt tôi. Chỉ ngoài đôi mươi, cô khởi đầu cho một cuộc hành trình tâm linh khi mà tôi chỉ mới tập tễnh biết đi, Helen Tworkov đã sống qua nhiều chương lịch sử quan trọng của Phật giáo Hoa Kỳ. Cô ấy là một phần của phong trào khai quang con đường mòn đầu tiên đến với Đông phương, phong trào đã tạo nên những gì được biết như là “nghiệp”, “niết bàn” và “giác ngộ”.

Ngay từ đầu, chúng tôi nghĩ đến việc phỏng vấn Helen Tworkov về chủ đề này vì hầu như không ai khác, cô ấy có được cái nhìn tổng thể về sự tiến hóa của thế giới Phật giáo tại Hoa Kỳ. Cô là người sáng lập và biên tập trang phê bình Phật giáo được lưu hành rộng rãi nhất nơi đây, đã gặp gỡ, viết hoặc thực hành với nhiều bậc thầy Phật giáo có ảnh hưởng nhất trong thời đại của chúng ta, phương Đông lẫn phương Tây. Nhưng không chỉ là sự trải nghiệm độc đáo của Tworkov thu hút mối quan tâm của chúng tôi, bốn năm trước, tạp chí Tricycle đã xuất bản Lời bạt đầy táo bạo của cô cho lần tái bản của tác phẩm Thiền ở Hoa Kỳ, trong đó cô đã lên tiếng phê bình gay gắt việc làm giảm mục tiêu của giáo lý Đức Phật. Những hiểu biết tinh tường của Helen Tworkov về sự đồng hóa của Phật giáo ở phương Tây đầy khiêu khích và soi sáng. Rõ ràng cô ấy quan tâm một cách say mê đến truyền thống giác ngộ và tương lai của nó.

Khi được hỏi làm thế nào mà cô ấy có duyên với Phật giáo, đôi mắt của Helen Tworkov đã sáng lên; vẫn còn xúc động khi nhớ lại điều gì đã khiến mình phải chấp nhận những rủi ro bất thường như vậy khi còn trẻ. Khổ tâm vì cuộc chiến đang diễn ra ở Việt Nam và sự thất bại của văn hóa Mỹ trong việc đáp ứng những câu trả lời có ý nghĩa, cô, giống như nhiều người khác thuộc thế hệ của mình, đã hướng về châu Á và Phật giáo. Theo quan điểm của mình, đây là một phong trào mang tính cộng đồng, một phong trào thay đổi, một phong trào nhằm cải biến những gì không thể chấp nhận được trong xã hội và của chính phủ bấy giờ, cũng như một hệ quả hợp lý, một phong trào nhằm xóa bỏ tận gốc rễ những điều không thể chấp nhận được nơi bản thân của họ.

Bấy giờ, Tworkov tình cờ đọc được các tác phẩm của D.T. Suzuki về vô thường và cái chết. Cô diễn giải: “Nó hoàn toàn khác với những gì nền văn hóa của tôi cung cấp. Nó không có vẻ thần bí hay là của ai đó ngoài hành tinh; nó có vẻ là thật. Và bạn không cần phải là một nhà khoa học không gian để có được nó!” Vì vậy, khi Tworkov hai mươi hai tuổi, ngay sau sự kiện tổng thống John F. Kennedy bị ám sát, cô đã đến Nhật Bản, là một trong những người Tây phương và phụ nữ đầu tiên đi vào mạch nguồn tâm linh phương Đông.

Tuy nhiên, Tworkov nhận thấy Nhật Bản và các tu viện ở đó thật sự đáng e ngại và khó tiếp cận, đồng thời phát hiện ra rất ít điều phù hợp với mình trong nền văn hóa rất xa lạ đó. Nhưng bất chấp điều này, cô đã ở lại châu Á trong hai năm – lâu hơn nhiều so với dự định ban đầu – cuối cùng cô đi từ Nhật Bản đến Nepal, nơi cô làm việc với những người tị nạn Tây Tạng. Những kinh nghiệm với người Tây Tạng đã tạo dấu ấn sâu đậm đối với cô. Chỉ bốn năm sau cuộc xâm lược tàn bạo của Trung Quốc vào Tây Tạng, và đây là những người sống lưu vong khỏi quê hương của họ, những người đã chạy trốn khỏi sự tàn phá, tra tấn và sự giam cầm đã gây ra cái chết của hàng ngàn tăng ni Phật giáo. “Có điều gì đó tuyệt vời khi làm việc với người Tây Tạng vào thời điểm đó,” cô nhớ lại. “Hoàn cảnh của họ rất khó khăn, nhưng họ dường như vẫn có thể tiếp cận được niềm vui và hạnh phúc thực sự. Điều đó thật kỳ diệu đối với tôi, trong khi trại tị nạn đầy những người vừa chứng kiến người thân trong gia đình mình bị tra tấn và giết hại.”

Helen Tworkov trở lại Mỹ vào giữa thập niên sáu mươi, theo lời kể, bấy giờ chỉ như một “đảy sách biết đi”, không biết làm thế nào để biến những giáo lý đã từng quyến rũ mình thành kinh nghiệm, vẫn còn khó nắm bắt, vẫn còn xa lạ và dường như chỉ dành cho những ai sinh ra ở châu Á. Lúc này, những vị thầy Nhật Bản đầu tiên đã bắt đầu đi lưu giảng ở Hoa Kỳ, và chỉ vài ngày sau khi Tworkov trở về phương Tây, tờ New York Times đã đăng một bài báo trên trang nhất thông báo về sự hội tụ của những người hippies ở Kathmandu. Một cuộc di cư bắt đầu đổ về châu Á, nhưng Tworkov đã tái định cư ở phương Tây. Vài năm sau, cô bắt đầu theo học với vị đạo sư người Tây Tạng Dudjom Rinpoche. Cô mô tả thầy với sự tôn kính, bằng tình cảm sâu sắc và có lẽ là người thầy giác ngộ nhất mà cô từng gặp, nhưng – đồng thời – lại là một người mà cô không thể tìm được nhịp cầu văn hóa nào. “Tôi được truyền cảm hứng từ thầy ấy,” cô giải thích, “nhưng tôi thực sự không thể học hỏi.” Cuối cùng, cô nhận ra mình lại bị thu hút bởi những lời dạy của một người New York bản địa, sau này trở thành vị kế thừa pháp môn [người kế thừa giáo pháp] cho dòng Thiền của Taizan Maezumi, Bernard Glassman. Vào thời điểm này, cô nghĩ rằng mình sẽ học Thiền vì từng trải nghiệm ở Nhật Bản. Tuy nhiên, cô giải thích, sự thay đổi không nhiều từ Phật giáo Tây Tạng sang Thiền mà từ các vị thầy châu Á sang các vị thầy Mỹ. Với Glassman, không có rào cản ngôn ngữ, và cô ấy không phải xây dựng bất kỳ cây cầu xã hội hay văn hóa nào. Nhưng mặc dù các vị thầy người Mỹ của cô ấy có thể nói cùng một ngôn ngữ và hiểu nền tảng văn hóa cũng như các câu hỏi của cô, nhưng đối với các vị thầy châu Á, khi nhớ lại những vị mà cô từng biết, cô nhìn nhận họ là những người “trí óc tỉnh táo”, những người đã “nắm giữ sự truyền dạy” theo nghĩa chân thực nhất của thuật ngữ này, có thể truyền đạt cảm giác thực tế và có thể chạm thấy được điều mà cô gọi là ” không thể biết và không thể tưởng tượng được” cho các đệ tử của mình.

Trong Lời bạt về Thiền ở Hoa Kỳ, Tworkov mô tả sự hiếm có của quan điểm giác ngộ, đồng thời trình bày ngắn gọn và dễ hiểu những quan sát của cô về tầm quan trọng của giác ngộ đã được giảm thiểu trong Phật giáo ở đây như thế nào. Chúng tôi bị ấn tượng bởi sự phê bình bộc trực của cô ấy và sự sẵn sàng tra vấn của cô, theo cách mà ít người khác dám làm, điều gì đang được giảng dạy như là con đường để tỉnh thức trong nhiều cơ sở Phật giáo Hoa Kỳ đương đại. Và chúng tôi rất vui mừng, thậm chí cảm thấy nhẹ nhõm khi nhận ra được quan điểm của cô, vì chúng tôi đã bắt đầu tìm thấy những kết luận tương tự khi tổng hợp vấn đề này, rồi tự hỏi – liệu chúng tôi có thiếu thứ gì đó cần thiết không?

We must ask ourselves if the Americanization of Zen now under way is a necessary cultural adaptation or a justification for the co-optation of Zen by secular materialists. – Chúng ta phải tự hỏi mình rằng liệu việc Mỹ hóa Thiền đang được thực hiện có phải là một sự thích nghi văn hóa cần thiết hay là một sự biện minh của chủ nghĩa duy vật thế tục.

Được phổ biến trong tạp chí Tricycle với tiêu đề Zen in the Balance: Can It Survive America?” – (tạm hiểu ‘Thiền trong sự hội nhập: Liệu có thể tồn tại ở Mỹ?’) Lời bạt của Tworkov đã gây nên một sự náo động lớn trong giới Phật giáo. Trong đó phê phán một cách nghiêm túc một nền Phật giáo đã bị đánh mất bởi những người thừa kế giáo pháp, vốn đang “đồng hóa giác ngộ vào đời sống vật chất và phục vụ bản thân,” và xem mục tiêu giác ngộ như một trở ngại, thay vì đó là mục đích của, thực hành tâm linh. Mặc dù cô chủ yếu đề cập đến sự phủ nhận giác ngộ trong Thiền ở Hoa Kỳ, những suy ngẫm của cô về những ảnh hưởng đặc trưng của văn hóa Mỹ đối với Phật giáo đương đại nói chung là sâu sắc dù không dễ thấu đáo. Chúng tôi rất muốn tìm hiểu xem liệu Tworkov có cảm thấy sự phê bình của mình áp dụng cho các trường phái Phật giáo phương Tây khác hay không. Nếu cô ấy nhìn thấy cùng một sự suy thoái của mục tiêu tỉnh thức và hoài nghi về tiềm năng chuyển đổi cá nhân triệt để mà cô ấy đã thấy được trong Thiền ở Hoa Kỳ, thì điều gì, chúng tôi muốn hỏi, cô ấy có xem là tương lai – và cho vấn đề đó là một hiện trạng — của Phật giáo ở đây?

Là chứng nhân về sự phát triển của Phật giáo Hoa Kỳ đã khiến cô suy nghĩ sâu sắc về sự thất bại của nhiều vị thầy trong việc duy trì các giá trị đạo đức, và về tính độc lập ngoan cố và chủ nghĩa cá nhân, có lẽ đặc biệt đối với người Mỹ, mà cô gọi là “libertine antagonism to authority.” Cô tin rằng cả hai yếu tố này đã làm giảm vai trò, mục đích và giá trị của sự tỉnh thức trong các Thiền giả. Trong Lời bạt của mình, cô phản ứng dứt khoát với hiện tượng này, mô tả “hành trình tìm kiếm sự giác ngộ đã bị coi là [một] khát vọng lãng mạn và thần thoại như thế nào.” Cô than thở rằng “sự phủ nhận của sự giác ngộ” là một “sự hiểu sai đáng tiếc và có lẽ là đặc biệt là người Mỹ” về những lời dạy của một số thiền sư vĩ đại về mục tiêu của con đường tâm linh. Và ngược lại với quan điểm này, cô giữ vững niềm đam mê về sự thay đổi đã đưa Phật giáo đến Hoa Kỳ ngay từ đầu: “Sự nhiệt tình ban đầu… Không chỉ dành cho khám phá cá nhân, mà còn là khả năng phát triển sự đánh giá cao đối với những điều chưa biết trong một xã hội quá lộn xộn – đó là một nỗ lực để tạo ra những khả năng mới.”

Được nói chuyện với Helen Tworkov thực sự là một niềm vui và đặt ra những câu hỏi quan trọng về các loại ảnh hưởng mà nền văn hóa thiên về vật chất cũng như sự thỏa mãn của chúng ta đã có đối với những gì từ trước đến nay vốn là truyền thống buông xả. Sự tham gia của cá nhân cô vào sự trưởng thành của Phật giáo ở Mỹ cho chúng ta một cái nhìn về xã hội của mình và ảnh hưởng của Phật giáo đối với những người tìm kiếm tâm linh đang thâm nhập nhưng đồng thời khiêu khích, và điều này khiến chúng ta đặt ra câu hỏi: Liệu Phật giáo có tồn tại được ở Hoa Kỳ không?

Đón đọc phần phỏng vấn

Is Buddhism Surviving America?

An interview with Helen Tworkov, editor of Tricycle magazine
by Amy Edelstein

Introduction

It was one of the first warm days of spring, and the crab apple trees were in bloom all along Riverside Drive. As I entered Manhattan and crossed the crowded and alive streets of the West Village, I found myself wondering: Who is Helen Tworkov?

We met in the stairwell on the second floor outside of the Tricycle offices, the “smoking annex,” where she was perched on a step, finishing a business meeting with her publisher. She shook my hand warmly, looking me straight in the eye. Twenty years my senior, having begun her spiritual quest when I was just learning to walk, Helen Tworkov has lived through many of the critical chapters of American Buddhist history. She was part of the movement that cut the first trails to the East, the movement that made “karma,” “nirvana” and “enlightenment” household words.

We first thought of interviewing Helen Tworkov for this issue of WIE because she, like almost no one else, has had a bird’s eye view of the evolution of the American Buddhist world. The founder and editor of America’s most widely circulated Buddhist review, she has met, written about or practiced with many of the most influential Buddhist teachers of our time, both Eastern and Western. But it was not only Tworkov’s unique experience that had piqued our interest. Four years ago Tricycle had published the bold Afterword to the second edition of her book Zen in America, in which she had voiced vociferous criticisms of the watering down of the goal of the Buddha’s teachings in America. Her astute insights regarding the assimilation of Buddhism in the West were provocative and illuminating, and she obviously cared passionately about the enlightenment tradition and its future.

When asked how she got involved with Buddhism, Helen Tworkov’s eyes brightened; she was still moved by the recollection of what it was that had compelled her to take such unusual risks at such a young age. Agonized by the war in Vietnam and the failure of American culture to provide meaningful answers, she, like others of her generation, had turned toward Asia and Buddhism. In her view, this was a collective movement, a movement for change, a movement to transform what was unacceptable in the society and in the government and, as a logical corollary, a movement to eradicate the roots of that which was unacceptable in themselves.

During this period, Tworkov came across D.T. Suzuki’s writings on impermanence and death. “It was so radically different from what my own culture provided,” she explains. “It didn’t seem mystical or alien; it just seemed real. And you didn’t have to be a rocket scientist to get it!” So when she was twenty-two, just after John F. Kennedy was assassinated, she headed for Japan, one of the first Westerners, and one of the first Western women, on the Eastern spiritual circuit.

Tworkov found Japan and the Japanese monasteries intimidating and inaccessible, and discovered little that made sense to her in that very foreign culture. But in spite of this, she stayed in Asia for two years—far longer than she had originally planned—eventually traveling from Japan to Nepal, where she worked with Tibetan refugees. Her experiences with the Tibetans marked her deeply. It was only four years after the brutal Chinese invasion of Tibet, and these were people in exile from their homeland, who had fled destruction, torture and the imprisonment and death of thousands of Buddhist monks and nuns. “There was something amazing about working with the Tibetans at that time,” she recalls. “Their situation was so rough, and yet they still seemed to be able to access genuine joy and happiness. Given that the refugee camp was filled with individuals who had just seen members of their own families tortured and killed, that was miraculous to me.”

Helen Tworkov returned to America in the mid-sixties, by her own account still a “book Buddhist,” not knowing how to translate into her own experience the teachings that had captivated her and yet still remained elusive, alien and seemingly only for those born in Asia. By now, the first Japanese teachers had begun touring the States, and only days after Tworkov had returned to the West, The New York Times published a front page article announcing the convergence of hippies in Kathmandu. An exodus began for Asia, but Tworkov had resettled in the West. Some years later she started studying with the great Tibetan master Dudjom Rinpoche. She describes him with deep reverence and affection as perhaps the most enlightened man she has ever met, but—at the same time—one to whom she could find no cultural bridges. “I was inspired by him,” she explains, “but I couldn’t really learn from him.” Eventually, she found herself attracted to the teachings of a native New Yorker, later to become dharma heir [teaching successor] to Taizan Maezumi’s Zen lineage, Bernard Glassman. Even at the time, she thought it ironic that she would be studying Zen after her experience in Japan. But the shift, she explains, was not so much from Tibetan Buddhism to Zen Buddhism as from Asian teachers to American teachers. With Glassman there was no language barrier, and she didn’t have to build any social or cultural bridges. But though her American teachers could speak the same language and understand her cultural background and questions, it is to her Asian teachers that she looks when recalling those individuals she has known who had authentic “awakened mind,” who were “holders of the transmission” in the truest sense of the term and who, because of who they were, could communicate a real and palpable sense of what she calls “the unknowable and unthinkable” to their students.

In her Afterword to Zen in America, Tworkov describes the rarity of the enlightened perspective, and succinctly and unflinchingly articulates her observations about how the significance of enlightenment has been minimized in American Buddhism. We were struck by her impassioned critique and her willingness to question, in a way that few others have dared to do, what is being taught as the path to awakening in many contemporary American Buddhist institutions. And we were excited and even relieved to have come across her views, for we had begun to arrive at similar conclusions ourselves while putting together this issue of WIE, and had been wondering—were we missing something essential?

Published in Tricycle under the title “Zen in the Balance: Can It Survive America?” Tworkov’s Afterword provoked a loud uproar in Buddhist circles. In it, she unreservedly criticizes a Buddhism that has lost its real dharma heirs, that has “co-opted enlightenment to add to a materialistic and self-serving lifestyle,” and that views the goal of enlightenment as an obstacle to, rather than as the purpose of, spiritual practice. Although she refers primarily to the denigration of enlightenment in American Zen, her reflections on the idiosyncratic influences of American culture on contemporary Buddhism in general are insightful and hard-hitting. We were very interested to find out if she felt her critique applied equally to the other Western schools of Buddhism. If she saw the same dissipation of the goal of awakening and cynicism about the potential for radical personal transformation that she had observed in American Zen, then what, we wanted to ask her, did she see as the future—and for that matter the present state—of Buddhism in America?

Tworkov’s firsthand observations of the coming of age of American Buddhism have led her to think deeply about the fallout from the failure of many teachers to uphold moral values, and about the tenacious independence and individualism, perhaps particular to Americans, that she terms “libertine antagonism to authority.” Both of these factors, she believes, have served to diminish the role, purpose and value of awakening among Zen Buddhists. In her Afterword, she responds unequivocally to this phenomenon, describing how “the quest for enlightenment has been derided of late as [a] romantic and mythic aspiration.” She laments the “denigration of enlightenment” as a “grievous and perhaps peculiarly American misinterpretation” of some of the great Zen masters’ teachings about the goal of the spiritual path. And in contrast to this view, she holds up the passion for change that brought Buddhism to America in the first place: “The original enthusiasm . . . was not just for personal discovery, but for the possibility of developing an appreciation for the unknown in an excessively cluttered society—it was an effort to break ground for new possibilities.”

Speaking with Helen Tworkov was a genuine pleasure and raised important questions about the kinds of effects our materialistic and gratification-oriented culture has had on what has traditionally been a renunciate tradition. Her personal involvement in the maturation of Buddhism in America offers us a view of our society and its influence on spiritual seekers that is penetrating and provocative, and which leaves us with the question: Is Buddhism surviving America?

The next interview is to be continued ]

Wednesday, May 18, 2022

Chia sẻ bài vở từ trang Hội Đồng Hoằng Pháp và Thư Viện Phật Việt 17.05.22

Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni

Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni
Kính thưa quý pháp hữu,
Chúng con/chúng em xin được mạn phép chia sẻ những bài mới của trang nhà Hội Đồng Hoằng Pháp và trang nhà Thư Viện Phật Việt. Đồng thời kính nhờ quý vị chuyển tiếp/chia sẻ cho đạo tràng hay thân hữu của mình.

Để Pháp Phật được lan truyền rộng như vết dầu loang, kính mong quý vị "Like" hai trang nhà này, chia sẻ cùng đạo tràng của mình, bạn bè hoặc người thân để FB tính logarithm chuyển tải Giáo lý Phật Đà một cách hiệu quả hơn.
https://www.facebook.com/hoangphap21 hoặc giới thiệu trang hoangphap.org
https://www.facebook.com/thuvienphatviet  
hoặc giới thiệu trang thuvienphatviet.com

Chúng con/chúng em xin dự định sẽ chia sẻ những bài khi thời gian cho phép, nếu không muốn nhận email này, thì cho chúng con/em hay để lấy ra khỏi email listing hoặc muốn thêm ai thì cũng xin cho hay.

Khi chia sẻ trên các trang nhà khác, xin hãy ghi nguồn xuất phát từ 2 trang nhà HĐHP và Phật Việt.

Từ trang nhà HỘI ĐỒNG HOẰNG PHÁP

1. HT Thích Tuệ Sỹ: Những giá trị phổ quát của Bồ tát hành
https://hoangphap.org/ht-thich-tue-sy-nhu%cc%83ng-gia-tri%cc%a3-pho%cc%89-quat-cu%cc%89a-bo-tat-hanh/

2. Ruwan M. Jayatunge | Pháp Thường dịch: Khái niệm Niết-bàn theo quan điểm tâm lí học
https://hoangphap.org/ruwan-m-jayatunge-phap-thuong-dich-khai-niem-niet-ban-theo-quan-diem-tam-li-hoc/

3. HT Thích Tuệ Sỹ: Dù Phật xuất hiện hay không xuất hiện Pháp tánh vẫn vậy
https://hoangphap.org/ht-thich-tue-sy-du-phat-xuat-hien-hay-khong-xuat-hien-phap-tanh-van-vay/

4. HT Thích Thái Hòa: Đức Phật thị hiện đản sinh
https://hoangphap.org/ht-thich-thai-hoa-duc-phat-thi-hien-dan-sinh/

5. Ban Truyền bá Giáo lý Âu Châu: Khóa tu tập tháng Năm
https://hoangphap.org/ban-truyen-ba-giao-ly-au-chau-khoa-tu-tap-thang-nam/

6. Ban Truyền bá Giáo lý Hoa Kỳ: Khóa tu tập tháng 4, 5, 6
https://hoangphap.org/ban-truyen-ba-giao-ly-au-chau-khoa-tu-tap-thang-4-5/

7. HT Thích Đức Niệm: Lược truyện tiền thân Đức Phật
https://hoangphap.org/ht-thich-duc-niem-luoc-truyen-tien-than-duc-phat/

8. Thích Nữ Tịnh Quang: Ứng dụng Phật pháp trong xã hội hiện đại (Luận án Việt/ Anh)
https://hoangphap.org/thich-nu-tinh-quang-ung-dung-phat-phap-trong-xa-hoi-hien-dai-luan-an-viet-anh/

9. Nguyên Giác: Đức Phật ra đời, như mặt trời chói sáng
https://hoangphap.org/nguyen-giac/

10. Tâm Huy Huỳnh Kim Quang: Từ hiện sinh đến đản sinh
https://hoangphap.org/tam-huy-huynh-kim-quang-tu-hien-sinh-den-dan-sinh/

Từ trang nhà Thư Viện Phật Việt
1. Thích Nhuận Thịnh: Mối liên hệ giữa nền văn học Avadāna và các kinh Đại thừa
https://thuvienphatviet.com/thich-nhuan-thinh-moi-lien-he-giua-nen-van-hoc-avadana-va-cac-kinh-dai-thua/

2. Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Các hình thức luôn thay đổi của Phật giáo
https://thuvienphatviet.com/tam-quang-nhuan-dich-viet-cac-hinh-thuc-luon-thay-doi-cua-phat-giao/

3. 
James Blumenthal: The Ever-Changing Forms of Buddhism

4. Geo Poland | Thích Viên Lý dịch: Truyền bá thiền nội quán tại Ấn Độ và các quốc gia Tây phương
https://thuvienphatviet.com/geo-poland-thich-vien-ly-dich-truyen-ba-thien-noi-quan-tai-an-do-va-cac-quoc-gia-tay-phuong/

5. Hạnh Phương: Nơi ngài đến
https://thuvienphatviet.com/hanh-phuong-noi-ngai-den/

6. Phan Cảnh Tuân: Dự án về trường hàm thụ Gia đình Phật tử
https://thuvienphatviet.com/phan-canh-tuan-du-an-ve-truong-ham-thu-gia-dinh-phat-tu/

7. Nguyễn Khắc Từ: Gia đình Phật tử trong lòng Giáo hội và Dân tộc
https://thuvienphatviet.com/nguyen-khac-tu-gia-dinh-phat-tu-trong-long-giao-hoi-va-dan-toc/

8. Thich Tue Sy: Reduction to the nothingness
https://thuvienphatviet.com/thich-tue-sy-reduction-to-the-nothingness/

9. Thich Phuoc An: Thien (Zen) Buddhism and Poetry – Bonze Huyen Quang and the Silent Path of Autumn
https://thuvienphatviet.com/thich-phuoc-an-thien-zen-buddhism-and-poetry-bonze-huyen-quang-and-the-silent-path-of-autumn/

10. 
Zen master TRẦN NHÂN TÔNG - His Teachings and Literature
(Translated with notes by Phan Minh Trị: Zen Master Trần Nhân Tông) 

Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát

Tuesday, May 17, 2022

Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Những cuộc di cư của Phật giáo | The Migrations of Buddhism


Những cuộc di cư của Phật giáo

Tâm Quảng Nhuận dịch Việt

Siddhartha Gautama – sau này được gọi là Đức Phật, Đấng Giác ngộ – đã giảng dạy ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ sáu, trước Công nguyên. Học thuyết của ông đã tách rời khỏi Ấn Độ giáo vào thời của ông bằng cách khẳng định rằng thực sự có một lối thoát khỏi vòng sinh và tái sinh bất tận mà những người theo đạo Hindu cho rằng tất cả sự sống hữu tình đều là số phận vĩnh viễn. Ông dạy thêm rằng sự đau khổ và buồn bã tồn tại trong cuộc sống này là kết quả của sự ràng buộc của con người với dục vọng – ham muốn khoái lạc, thỏa mãn, quyền lực hoặc bất cứ điều gì.

Trong Tứ diệu đế và Bát chánh đạo, Đức Phật đã khám phá cội rễ của sự bất hạnh và vạch ra một hệ thống tư tưởng, lời nói, hành vi, nhận thức tinh thần, hành động và việc làm – dựa trên sự buông bỏ, tu hành và tự chủ – kiên nhẫn học hỏi, thiền định và thực hành trong nhiều lần tái sinh. Ngay cả khi con đường cô đơn và gian khổ trong một chuỗi dài tồn tại của một người, tuy nhiên, hành giả sùng đạo vẫn có thể mong muốn cuối cùng đạt đến Niết bàn, chấm dứt ham muốn và tái sinh, sự diệt vong của bản ngã.

Phật giáo đã quét qua Ấn Độ trong một cuộc chuyển đổi lớn và hòa bình, khi hàng ngàn nhà sư Phật giáo mặc áo cà sa đã thuyết giảng tư tưởng của Đức Phật. Qua biển, các giáo lý đến được Sri Lanka và qua Vịnh Bengal, nơi ngày nay là Miến Điện, Thái Lan, Campuchia và Indonesia.

Ở tất cả các quốc gia này, các di tích kiến ​​trúc vĩ đại vẫn tôn vinh cuộc đời và tư tưởng của Đức Phật, giống như những điều dường như đã được các đệ tử của Ngài thuyết giảng trong cuộc đời của Ngài hoặc ngay sau đó. Những công trình kiến ​​trúc này thể hiện những lời dạy của “Đấng giác ngộ” được trang trí trong những ngôi đền và điêu khắc kỳ công. Angkor Wat ở Campuchia và Borobudur, trên đảo Java của Indonesia, là hai ngôi đền như vậy. Pagan, ở Miến Điện, là địa điểm của hàng trăm ngôi chùa; và Sri Lanka có nhiều công trình kiến ​​trúc được dựng lên bởi các vị vua ngoan đạo. Điều đáng chú ý là khi vượt biển, những lời dạy của Đức Phật dường như có ít thay đổi.

Ngược lại, khi Phật giáo lan rộng dọc theo các tuyến đường bộ, nó đã trải qua một sự thay đổi sâu sắc. Có những tuyến đường thương mại trên bộ tuyệt vời trong những ngày đó và trong những thế kỷ sau nữa, đã kết nối với Trung Quốc thậm chí đến Địa Trung Hải. Dọc theo những con đường này, Phật giáo đã phát triển mạnh đến vùng tây bắc Ấn Độ và xa hơn nữa, dọc theo Con đường Tơ lụa truyền thuyết về phía đông và phía tây. Các tu viện và các trường đại học lớn mọc lên. Khi giáo lý đến được với những người thuộc các nền văn minh khác nhau, nhu cầu thích ứng với các phong tục địa phương đã hình thành ý tưởng của Đức Phật theo những cách khác nhau. Trên tất cả, một cách ít khắc khổ hơn để đến Niết bàn (hạnh phúc vĩnh cửu) – hơn là được giảng dạy ở Đông Nam Á – dường như cần thiết. Cách thức mới sẽ cung cấp một con đường mở ra cho tất cả và không chỉ cho những ẩn sĩ và thánh nhân rút lui, những người đã thực hành Giáo lý trong vô số cuộc sống đơn độc của họ. Cần có Cỗ Xe Lớn – không phải Cỗ Xe Nhỏ chỉ giới hạn ở một số rất ít, tuy nhiên chúng có thể dành riêng cho họ. Với sự trỗi dậy của học thuyết rộng rãi và dễ tiếp cận hơn này, một sự bùng nổ của các văn bản, bình luận, điêu khắc và nghệ thuật thiêng liêng đã phát sinh không chỉ tập trung vào Đức Phật mà còn về nhiều nhân vật đại diện cho các khía cạnh khác nhau của bản chất Đức Phật. Nghệ thuật và giáo lý lan truyền về phía tây đến Afghanistan và qua Trung Á về phía đông đến Thái Bình Dương – đến Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, và những gì ngày nay chúng ta gọi là Việt Nam. Vào triều đại nhà Đường, Trung Quốc (618 – 907 sau Công nguyên), Phật giáo đã sản sinh ra một nền văn hóa rực rỡ có ảnh hưởng lớn đến tất cả các quốc gia lân cận ở Đông Á. Nếu Phật giáo của Cỗ xe nhỏ có vẻ nghiêm mật, và – theo một nghĩa nào đó – cô lập, thì Đạo Phật của Cỗ xe lớn trở nên gần gũi, quen thuộc và dễ hiểu cũng như dễ thực hành.

Các giáo lý đến Nhật Bản vào khoảng thế kỷ thứ năm, sau Công nguyên, và ít nhiều đã sống thoải mái với các hình thức tôn thờ thiên nhiên trước đó của Nhật Bản được gọi là Thần đạo. Ở Nhật Bản nảy sinh một số giáo phái khác nhau – một số vẫn có nguồn gốc từ Trung Quốc, một số khá hiếu chiến, một số bí truyền cao, một số mở ra mẫu số chung nhất của xã hội Nhật Bản. Có lẽ trường phái được người dân đất nước này biết đến nhiều nhất là Zen, một hình thức được biết đến trước đó ở Trung Quốc với tên gọi Chan, có tính năng chiếu sáng tức thời (satori) thông qua thiền định và một khái niệm làm đẹp tinh tế.

Phật giáo cuối cùng đã suy tàn tại nơi sinh ra, Ấn Độ, nhưng vẫn ngự trị ở phần lớn còn lại của châu Á với tên gọi Tiểu thừa (“Phương tiện nhỏ” của Đông Nam Á; các hành giả thích thuật ngữ Nguyên thủy, “Giáo lý của những người cao tuổi”) hoặc Đại thừa (“Xe lớn”) của tất cả phần còn lại của châu Á, ngoại trừ Tây Tạng. Ở Tây Tạng, một hình thức Phật giáo độc đáo, pha trộn với thuyết vật linh đã có từ trước, xuất hiện vào thế kỷ thứ chín, nhấn mạnh đến một tổ chức tu sĩ do các Lạt ma tái sinh lãnh đạo. Người đứng đầu tinh thần của Phật giáo Tây Tạng là Đức Đạt Lai Lạt Ma, một hóa thân của Bồ tát Từ bi được tôn kính, Chenrezig (Avalokitesvara). Phật giáo Tây Tạng đề cao thiền định (dưới hình thức tụng kinh lặp đi lặp lại, sử dụng bánh xe cầu nguyện, và các cuộc đi nhiễu), và đã tạo ra các loại hình nghệ thuật phong phú cũng như các nghi lễ phức tạp.

Tuy nhiên, dưới bất kỳ hình thức nào, và cho dù có nhiều giáo phái hay tông hệ phái mà Phật giáo phát triển có vẻ khác nhau như thế nào, thì thông điệp trọng tâm cốt yếu của Đức Phật vẫn không thay đổi. Thông điệp đó nhấn mạnh rằng ham muốn là cội rễ của bất hạnh trong cuộc đời con người, qua các chu kỳ sinh và tái sinh; rằng có những cách để đạt được sự soi sáng, diệt trừ dục vọng và chấm dứt tái sinh; và thiền định, cũng như lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh, là một trong những phương pháp thực hành cần tuân theo.

Phật giáo không chống lại các tín ngưỡng địa phương gặp phải khi lan rộng, mà là đồng hóa vào chính Phật giáo những yếu tố được nắm giữ sâu sắc nhất trong các lĩnh vực khác nhau. Đây không phải là sự chinh phục của thanh gươm, mà là chiến thắng của sự thuyết phục từ bi – của sự truyền bá hòa bình, làm nên lịch sử.

Source:

The Migrations of Buddhism

Lionel Landry

Article written by Lionel Landry for the Asia Society’s Focus on Asian Studies Vol. II, No. 1, Asian Religions, pp. 20, Fall 1982.

Siddhartha Gautama — later known as the Buddha, the Enlightened One — taught in northern India in the sixth century, B.C. His doctrine departed from the Hinduism of his time by affirming that there was indeed a way out of the unending cycle of births and rebirths to which the Hindus held that all sentient life is forever destined. He further taught that the misery and sadness of existence in this life were the result of people’s attachment to desire — desire for pleasure, gratification, power, or whatever.

In his Four Noble Truths and Eight-fold Path, the Buddha explored the roots of unhappiness and outlined a system of appropriate thought, speech, behavior, mental awareness, action, and work — based on detachment, austerities, and self-control — patiently learned, meditated over, and practiced throughout many re-births. Even if the path was lonely and arduous in one’s long series of existences, the devout practitioner could nevertheless aspire ultimately to reach Nirvana, the cessation of desire and rebirth, the extinction of the ego.

Buddhism swept India in a grand and peaceful conversion, as saffron-robed Buddhist monks by the thousands preached the Buddha’s thought. Across the sea the teachings reached Sri Lanka and, across the Bay of Bengal, what are now Burma, Thailand, Cambodia, and Indonesia.

In all these countries great architectural monuments still celebrate the life and thought of the Buddha, much as it seems to have been preached in his lifetime or soon after by his disciples. These structures embody the teachings of “the Enlightened One” in marvelously sculptured temple decoration. Angkor Wat in Cambodia and Borobudur, on Indonesia’s Java, are two such temples. Pagan, in Burma, is the site of hundreds of pagodas; and Sri Lanka has many heroic structures erected by pious kings. It is striking to note that in crossing the sea the teachings of the Buddha seemed to undergo relatively little change.

By contrast, as Buddhism spread along land routes, it underwent profound change. There were great overland trade routes in those days and in later centuries too, that joined China even to the Mediterranean. Along these routes Buddhism proliferated to northwest India and beyond, along the fabled east-west Silk Route. Monasteries and great universities grew. As the teachings reached people of different civilizations, the demand for adapting them to local customs shaped the Buddha’s ideas in different ways. Above all, a less austere way to Nirvana (eternal bliss) — than came to be taught in Southeast Asia — seemed needed. The new way would provide a path open to all and not only to the withdrawn hermits and holy men who had practiced the Teachings over their countless solitary lives. A Large Vehicle was wanted — not a Small Vehicle restricted to the very few, however dedicated they might be. With the rise of this broader and more accessible doctrine, an explosion of sacred texts, commentaries, sculpture, and art arose centering not only on the Buddha but also on many figures representing various aspects of the Buddha’s nature. The art and the teachings spread westward to Afghanistan and through Central Asia eastward to the Pacific — to China, Korea, Japan, and what we now call Viet Nam. In Tang dynasty China (A.D. 618 to 907) Buddhism produced a brilliant culture that greatly influenced all nearby countries in East Asia. If the Buddhism of the Small Vehicle seemed severe, heroic, and — in a sense — lonely, that of the Large Vehicle became warm, familiar, and easy to understand and practice.

The teachings reached Japan about the fifth century, A.D., and lived more or less at ease with earlier Japanese forms of nature-worship known as Shinto. In Japan a number of different sects arose — some still with roots in China, some quite combative, some highly esoteric, some open to the most common denominator of Japanese society. Perhaps the sect best known to people in this country is Zen, a form known earlier in China as Chan, featuring instant illumination (satori) through meditation and an exquisitely refined concept of beauty.

Buddhism eventually died in its birthplace, India, but it reigned in much of the rest of Asia as Hinayana (the “Small Vehicle” of Southeast Asia; practitioners prefer the term Theravada, “The Teaching of the Elders”) or the Mahayana (the “Large Vehicle”) of all the rest of Asia, with the exception of Tibet. In Tibet a unique form of Buddhism, mixed with the pre-existing animism, arose in the ninth century that emphasized a monkhood led by reincarnated lamas. The spiritual head of Tibetan Buddhism is the Dalai Lama, a reincarnation of the revered Bodhisattva of Compassion, Chenrezig (Avalokitesvara). Tibetan Buddhism stresses meditation (taking the form of repetitive chanting, the use of prayer wheels, and circumambulations) and has produced fertile art forms and elaborate rituals.

In whatever form, however, and no matter how seemingly divergent the many sects and cults into which Buddhism developed, the essential central message of the Buddha remained constant. That message stresses that desire is the root of unhappiness in human life, through the cycles of birth and rebirth; that there are ways to achieve illumination, root out desire, and come to a cessation of rebirths; and that meditation, as well as compassion for all sentient beings, are among the practices to be followed.

Buddhism did not fight the local beliefs it encountered as it spread, but rather assimilated into itself the elements most deeply held in various areas. This was not conquest of the sword, but rather the triumph of compassionate persuasion — of peaceful, history-making proselytization.

Monday, May 16, 2022

Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Các hình thức luôn thay đổi của Phật giáo

 

Nhiều phẩm chất đáng chú ý của Phật giáo mong muốn là khả năng thích ứng qua nhiều thế kỷ với các tình huống văn hóa và lịch sử khác nhau mà không làm ảnh hưởng đến những hiểu biết cốt lõi của nó. Phật giáo đã làm như vậy để đáp ứng nhu cầu của các cộng đồng mới. Các hình thức và thực hành văn hóa mới, cũng như những cách thức giảng dạy sáng tạo để giúp duy trì sự phù hợp và sức sống của giáo lý đối với năng khiếu, khuynh hướng và điều kiện sống của các Phật tử, liên tục được trình bày theo những cách hữu ích dựa trên nguồn cảm hứng của những vị thầy đáng kính kể từ khi có Đạo Phật thời kỳ sớm nhất. Để sử dụng một thuật ngữ Phật giáo, các vị thầy của Phật giáo đã sử dụng các phương tiện thiện xảo (upaya) để truyền đạt giáo lý một cách hiệu quả nhất cho các đệ tử khác nhau trong những hoàn cảnh thay đổi. Cho dù đó là sự phê phán giống như Đạo giáo về tư tưởng thất ngôn đã được áp dụng và quá nổi bật trong các truyền thống Ch’an / Zen, hay các khuynh hướng pháp sư giống như Bonpo trong các hình thức Phật giáo Tây Tạng, bao gồm việc sử dụng thần chú, điều khiển thời tiết v.v., “y phục” mà Phật giáo đã mặc trong các biểu hiện văn hóa đa dạng để tối đa hóa hiệu quả trong môi trường mới là điều hấp dẫn và đầy cảm hứng.

Tất nhiên điều này có nghĩa là Phật giáo cũng đã thích nghi vì nó cũng đã tiến sang phương Tây. Không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng Phật giáo trong vô số hình thức thay đổi. Nói cho cùng, vô thường là một trong những nền tảng cơ bản nhất của giáo lý Phật giáo. Tuy nhiên, thoải mái với sự thay đổi và chấp nhận sự thay đổi đôi khi là một thách thức. Tôi thường thấy nhiều người ở các trung tâm Phật pháp cảm thấy tin chắc rằng nếu những người thầy và dòng pháp của họ là đích thực, thì những truyền thống đó phải hoàn toàn không thay đổi và liên tục kể từ thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Họ dường như cảm thấy đang báng bổ truyền thống nếu thừa nhận sự thay đổi, một điều trớ trêu mà thường không được chú ý. Cùng những dòng truyền thừa này, người ta đoán rằng những gì xảy ra ở trung tâm Phật giáo ngày nay cũng giống như những gì đã xảy ra ở Tây Tạng cách đây 300 năm hoặc ở Ấn Độ cách đây 2.500 năm. Rốt cuộc, nó là một dòng truyền thừa không gián đoạn.

Tuy nhiên, lịch sử và bản thân truyền thống nói với chúng ta một cách khác. Người ta chỉ cần nhìn vào sự đa dạng đáng kinh ngạc của thực hành, hình thức nghi lễ và triết thuyết (chưa kể đến sự chống lại giáo điều) trong Phật giáo trên khắp châu Á và bây giờ ở phương Tây để nhận ra rằng lịch sử của sự thích nghi đã diễn ra. Thiền, được trông thấy, cảm nhận cũng như âm vang khác rất nhiều so với Phật giáo Gelugpa. Tôi không chỉ nói về các thẩm mỹ văn hóa khác nhau, mặc dù chúng cũng rất quan trọng. Các giáo lý cũng khác nhau đáng kể. Chẳng hạn, như đã đề cập ở trên, Thiền có khuynh hướng chỉ trích cao việc sử dụng nhiều tư tưởng phân tích và diễn ngôn để theo đuổi trí tuệ không khái niệm mà Đức Phật đã chứng ngộ. Tsongkhapa, người sáng lập ra truyền thống Gelug, cho rằng phân tích và lập luận là những khía cạnh quan trọng của con đường dẫn đến trí tuệ đó. Cả hai đều có những ảnh hưởng giúp hình thành phương pháp tiếp cận của họ đã phát triển nhiều thế kỷ sau, hoặc trong bối cảnh khác biệt với Phật Thích Ca – Đạo giáo cho Thiền; Dharmakirti cho Tsongkhapa. Mặc dù có thể có một trí tuệ Phật giáo cơ bản ở trung tâm của cả hai truyền thống, nhưng “y phục” của cả hai truyền thống đều phụ thuộc vào nhau. Cả hai đều phát sinh trong sự phụ thuộc một phần vào các hoàn cảnh ngẫu nhiên trong lịch sử. Cũng giống như trường hợp của nhiều thế kỷ trước, những người thầy đáng kính ngày nay duy trì những khía cạnh đó của các hình thức giảng dạy có hiệu quả và định hình những khía cạnh khác theo cách truyền đạt tốt nhất cho đệ tử. Tôi không nói rằng sự khôn ngoan là khác nhau, chỉ là cách thức giao tiếp mà sự khôn ngoan đó thay đổi. Thử trích dẫn từ The Flower Ornament Sutra:

Trên thế giới này có bốn triệu cái tên thể hiện Bốn Chân lý phù hợp với tâm hồn của chúng sinh, khiến tất cả chúng được hòa hợp và định tĩnh.[1]

Đức Đạt Lai Lạt Ma là một ví dụ hoàn hảo của một vị lạt ma nói về Pháp theo nhiều cách khác nhau để đáp ứng nhu cầu và / hoặc khuynh hướng của nhiều đối tượng khác nhau của ngài bao gồm các Phật tử (thuộc mọi chủng tộc), nhà vật lý, nhà tâm lý học, nhà nhân văn thế tục, chính trị gia. Người theo đạo Thiên chúa, người theo đạo Hồi, v.v… Đoạn trích trên và các hoạt động của Thánh Đức thể hiện bản chất lịch sử / tình huống của các phương tiện khéo léo.

Tình hình hiện tại của Phật giáo là duy nhất trong nhiều khía cạnh. Các dòng truyền thống từ các quốc gia và truyền thống khác nhau đang tiếp xúc với nhau và ảnh hưởng đến nhau theo những cách sâu sắc và tinh tế. Ngoài ra, lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, tôi nghĩ rằng văn hóa tiếp nhận cũng có tác động đáng kể trở lại truyền thống Phật giáo mà họ đang tiếp nhận. Không phải chỉ có Phật giáo Tây Tạng đang ảnh hưởng đến phương Tây, mà phương Tây đang ảnh hưởng đến Phật giáo Tây Tạng. Để đáp lại sự quan tâm mãnh liệt của các tín đồ ở phương Tây, các Lạt ma cao cấp đang dành một phần đáng kể thời gian giảng dạy của họ cho các đệ tử cư sĩ (thường là sa di). Mức độ mà điều này đang xảy ra là chưa từng có. Trước sự phản đối của nhiều đệ tử phương Tây, các Lạt ma Tây Tạng đang đặt câu hỏi về một số quan điểm kế thừa sai lầm đã tồn tại trong Phật giáo trong nhiều thế kỷ. Trong số những tác động khác của dòng câu hỏi này là một động thái nhằm bắt đầu, lần đầu tiên một truyền thừa thọ giới đầy đủ cho các ni cô (bhikshuni) theo truyền thống Tây Tạng.[2] Động thái này được dẫn dắt bởi các ni cô phương Tây đã đến Đài Loan và Hồng Kông để thọ nhận thọ giới đầy đủ của họ, khi chỉ có các thầy Tây Tạng của họ mới có thọ giới Sa di. Sự tham gia của Đức Đạt Lai Lạt Ma với các nhà khoa học phương Tây đã có tác động rõ ràng đến các chương trình nghiên cứu ở các trường đại học phương Tây, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học thần kinh và nghiên cứu về tác động của thiền đối với não bộ. Nhưng ảnh hưởng này đã đi theo hai hướng. Đức Pháp Vương cũng đã khởi xướng việc dịch nhiều tài liệu nhập môn về khoa học giáo dục để các tu viện có thể bắt đầu đào tạo các tu sĩ trẻ theo phương pháp khoa học phương Tây cơ bản. Những bản dịch này đang được thực hiện tại Viện Biện chứng Phật giáo ở Dharamsala. Điều thú vị là, có lẽ nỗ lực đầu tiên trong văn hóa Tây Tạng theo kiểu phản ứng “chủ nghĩa hiện đại” này đối với những hiểu biết khoa học được chấp nhận rộng rãi đã xảy ra vào đầu thế kỷ XX khi nhà sư nổi dậy Gendun Chopel được đào tạo bởi người Drepung rời Tây Tạng và đi du lịch ở Ấn Độ khi bị Anh chiếm đóng trong 17 năm. Ông bắt đầu viết các bài báo cho tờ báo tiếng Tây Tạng có trụ sở tại Darjeeling, Melong (The Mirror), nơi ông sẽ kêu gọi người Tây Tạng thức tỉnh về kiến ​​thức khoa học hiện đại, bao gồm cả kiến ​​thức rằng thế giới là hình tròn (và không bao gồm bốn lục địa với Núi Meru ở giữa)!

100 năm trước, ở Tây Tạng không phổ biến việc các Lạt ma cao cấp tổ chức các buổi điểm đạo yoga tantra cao cấp nhất cho khán giả là những đệ tử hầu hết không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Tôi không nghi ngờ rằng có những lý do quan trọng, ngẫu nhiên về mặt lịch sử tại sao những Lạt ma này thấy những lợi ích to lớn trong việc này ngày nay. Tôi không nghi ngờ gì rằng đó là một ví dụ về phương tiện khéo léo của họ. Đây cũng là một ví dụ về sự thay đổi “y phục” của truyền thống – kiểu thay đổi đã diễn ra trong hơn 2.000 năm.

Một thay đổi cuối cùng mà tôi muốn đề cập rằng tất cả những điều này liên quan là việc đưa một ý thức lịch sử hơn vào các hình thức của Phật giáo Tây Tạng (và Phật giáo nói chung). Tôi đã chỉ ra những thay đổi khác nhau trong các truyền thống trong bài viết này. Ý thức rõ ràng rằng những thay đổi đã diễn ra trong truyền thống không phải lúc nào cũng đi đầu trong sự tự nhận thức của nhiều Phật tử hoặc truyền thống cụ thể của họ. Điều này được chứng kiến, như tôi đã đề cập trước đó, bởi những người ở các trung tâm Phật pháp, những người tuyên bố rằng không có gì thay đổi trong các dòng giáo lý mà họ thực hành trong 2.500 năm. Việc không nhận thức được những truyền thống thích nghi khéo léo đã thực hiện trong suốt lịch sử có thể dẫn đến chủ nghĩa phân phái bởi vì một sản phẩm phụ tiềm tàng của việc nghĩ rằng dòng dõi của tôi là dòng truyền thừa đích thực không thay đổi của Đức Phật là ngụ ý mà các dòng truyền thừa khác của Phật giáo không có.[3]

Theo truyền thống, người Tây Tạng có xu hướng không quan tâm đặc biệt đến các điều kiện lịch sử đã dẫn đến những thay đổi trong cách trình bày Phật giáo. Lời kêu gọi đối với các dòng giảng dạy có thẩm quyền đã trở thành trật tự hơn. Mặc dù điều này đã dẫn đến các vấn đề liên giáo phái theo thời gian ở Tây Tạng, sự cô lập tương đối của Tây Tạng với phần còn lại của thế giới Phật giáo đã cho phép nó không phải là vấn đề quá nghiêm trọng ở cấp độ Phật giáo chung. Nhưng trong thế giới ngày nay, nơi mà các Phật tử thuộc mọi chủng tộc tiếp xúc với nhau thường xuyên hơn và ý thức lịch sử là một giá trị được chấp nhận rộng rãi hơn, tôi tin rằng những thay đổi có lẽ sắp xảy ra. Ví dụ, người Tây Tạng theo truyền thống nghiên cứu các ý tưởng của triết học Phật giáo độc lập với các điều kiện lịch sử đã góp phần vào quá trình sản xuất của họ. Các học giả phương Tây và các phương pháp tiếp cận học thuật hiện đại đối với Phật giáo nhấn mạnh việc hiểu các ý tưởng trong ngữ cảnh. Cá nhân tôi nhận thấy cách tiếp cận này đối với các văn bản Phật giáo, trong đó xem xét đối tượng dự định của tác giả, quan điểm cạnh tranh mà tác giả có thể đang xem xét, điều kiện xã hội và các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến hình dạng cụ thể của các bài thuyết trình, vô cùng có lợi cho việc đào sâu hiểu biết của tôi. Các cuộc thảo luận gần đây mà tôi đã có với một số geshes và Lạt ma khẳng định tầm quan trọng của việc này, sự hiện diện ngày càng nhiều của các Lạt ma và người dân tộc Tây Tạng trong các chương trình tiến sĩ và các vị trí giảng viên tại các cơ sở học thuật, cùng với các ấn phẩm mang tính lịch sử của họ, đã khiến tôi tin rằng chúng ta có thể đang ở giai đoạn đầu của sự trỗi dậy cơ bản về ý thức lịch sử trong các truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Việc này diễn ra trong bao lâu, (các) hình dạng và tác động của nó đối với các thế hệ Phật tử trong tương lai vẫn còn phải được xem xét. Nhưng tôi nghĩ rằng bước sang thế kỷ 21, đó là một sự thay đổi không chỉ là tất yếu, mà sẽ có lợi cho các Phật tử cho các thế hệ sau.

_____________________________

[1] Cleary, Thomas. dịch. (1993) The Flower Ornament Scripture. Boston: Shambhala.
[2] Điều tương tự cũng đang xảy ra trong các truyền thống Nguyên thủy.
[3] John Makransky đã thảo luận rất rõ ràng và chi tiết về ý tưởng này trong bài báo của mình, “Ý thức lịch sử như một sự cúng dường cho Đức Phật Xuyên lịch sử” trong John Makransky và Roger Jackson (eds.) Thần học Phật giáo: Những phản ánh phê phán của các Học giả Phật giáo Đương đại. Surrey: Curzon Press, 2000.

Source:

The Ever-Changing Forms of Buddhism

James Blumenthal | Philosophy Department | Oregon State University

JAMES BLUMENTHAL, Ph.D. is an associate professor of Buddhist philosophy at Oregon State University and professor of Buddhist Studies at Maitripa College. He is the author of The Ornament of The Middle Way: A Study of the Madhyamaka Thought of Shantarakshita along with more than 40 articles in scholarly journals and popular periodicals on various aspects of Buddhist thought and practice. He recently finished work with Geshe Lhundup Sopa on Steps on the Path: Vol. IV, a commentary on the “Shamatha” chapter of Lamrim Chenmo by Tsongkhapa which is due for publication in the fall.

Among Buddhism’s many remarkable qualities has been its ability to adapt across centuries to various cultural and historical situations without compromising its core insights. It has done so to meet the needs of new communities. New cultural forms and practices, as well as innovative ways of teaching to help to maintain the relevance and vitality of the teachings for the aptitudes, predispositions and conditions of living Buddhists, have continually been presented in beneficial ways on the inspiration of great teachers since Buddhism’s earliest period. To use a Buddhist term, Buddhism’s teachers have employed skillful means (upaya) to most effectively communicate the teachings to different disciples in changing circumstances. Whether it was the Taoist-like critique of discursive thought that was adopted by and is so prominent in Ch’an/Zen traditions, or the Bonpo-like shamanistic tendencies in Tibetan forms of Buddhism, including the use of oracles, weather manipulators, divinations, etc., the “clothes” Buddhism has worn in its manifold cultural manifestations to maximize its effectiveness in new einvironments are fascinating and inspiring.

Of course this means it has also adapted as it has made its way to the West as well. That Buddhism in its multiplicity of forms changes should not be surprising. Impermanence, after all, is one of the most fundamental of Buddhist teachings. Comfort with change, and acceptance of change, however, is sometimes challenging. I often find people in Dharma centers who feel convinced that if their teachers and lineages are authentic, then those lineages must be utterly unchanged and continuous since the time of Shakyamuni Buddha. They seem to feel they are blaspheming the tradition if they acknowledge change, an irony that often goes unnoticed. Along these lines, it is presumed that what happens in the Dharma center today is just like what happened in Tibet 300 years ago or in India 2,500 years ago. After all, it is an unbroken lineage.

And yet history and the tradition itself tell us differently. One need only look at the incredible diversity of practice, form ritual, and philosophy (not to mention, resistance to dogma) within Buddhism across Asia and now in the West to realize that historical adaptations have taken place. Zen looks and feels and sounds a lot different than Gelugpa Buddhism. I am not just speaking of different cultural aesthetics, though those are important too. The teachings also vary considerably. As mentioned above, for example, Zen tends to be highly critical of many uses of analytic and discursive thought in pursuit of the non-conceptual wisdom that the Buddha realized. Tsongkhapa, the founder of the Gelug tradition, argued that analysis and reasoning were critical dimensions of the path to that wisdom. Both had influences that helped shape their approaches that developed centuries after, or in distinct settings from Shakyamuni Buddha – Taoism for Zen; Dharmakirti for Tsongkhapa. While there may be a fundamental Buddhist wisdom at the heart of both traditions, the “clothes” of both traditions were dependently-arisen. Both arose in partial dependence upon historically contingent circumstances. Just as it was the case centuries ago, great teachers today maintain those aspects of the forms of teachings that are effective and shape other aspects in ways that best communicate them to students. I am not saying that the wisdom is different, just that the ways of communicating that wisdom change. To quote from The Flower Ornament Sutra:

“In this world there are four quadrillion names to express the Four Holy Truths in accord with the mentalities of beings, to cause them all to be harmonized and pacified.”¹

His Holiness the Dalai Lama is a perfect example of a lama who speaks about the Dharma in a variety of ways to meet the needs and/or predispositions of his various audiences including Buddhists (of all stripes), physicists, psychologists, secular humanists, politicians, Christians, Muslims, etc. The quote above and His Holiness’ activities exemplify the historically/situationally conditioned nature of skillful means.

Buddhism’s current situation is unique in many respects. Lineages from various countries and traditions are coming into contact with one another and influencing one another in profound and subtle ways. In addition, for the first time in Buddhism’s history, I think that the receiving culture is also having a significant impact back onto the Buddhist traditions they are receiving. It is not just that Tibetan Buddhism is affecting the West, but the West is affecting Tibetan Buddhism. In response to intense interest among laity in the West, high lamas are devoting significant proportions of their teaching time to (often novice) lay disciples. The degree to which this is happening is unprecedented. At the protest of many Western disciples, Tibetan lamas are questioning some of the inherited misogyny that has lingered in Buddhism for centuries. Among other effects of this line of questioning has been a move to begin for the first time a full ordination lineage for nuns (bhikshuni) in Tibetan traditions.² This move has been led by Western nuns who have gone to Taiwan and Hong Kong to receive their full ordination, when only novice ordination was available from their Tibetan teachers. His Holiness the Dalai Lama’s engagement with Western scientists has had a clear impact on research agendas in Western universities, particularly in the area of neuroscience and research into the effects of meditation on the brain. But this influence has gone in two directions. His Holiness has also initiated the translation of numerous introductory science education materials so that monasteries can begin to educate young monks in the rudiments of Western science. These translations are being carried out at The Institute for Buddhist Dialectics in Dharamsala. Interestingly, perhaps the first attempt in Tibetan culture at this sort “modernist” response to broadly accepted scientific understandings happened in the early part of the twentieth century when the Drepung-trained rebel monk Gendun Chopel left Tibet and traveled in British-occupied India for 17 years. He began writing articles for the Darjeeling-based Tibetan language paper, Melong (The Mirror) where he would implore Tibetans to wake up to the knowledge of modern science, including knowledge that the world is round (and not comprised of four continents with Mount Meru in the middle)!

It was not common 100 years ago in Tibet for high lamas to offer highest yoga tantra initiations to largely lay audiences of disciples who mostly do not understand what is going on. I have no doubt that there are important, historically contingent reasons why these lamas see great benefits in this today. I have no doubt that it is an example of their skillful means. It is also an example of the change in the “clothes” of the tradition – the type of change that has been happening for more than 2,000 years.

One final change I would like to mention that all of this relates back to is the introduction of a more historical consciousness to forms of Tibetan Buddhism (and Buddhism in general). I have pointed out various changes in the traditions in this article. Explicit consciousness that changes have taken place within the tradition has not always been at the forefront of the self-awareness of many Buddhists or their specific traditions. This is witnessed, as I mentioned earlier, by those in Dharma centers who claim that nothing has changed in the lineages of teachings they practice for 2,500 years. Failure to be aware of the skillful adaptations traditions have made throughout history can result in sectarianism because a potential by-product of thinking that my lineage is the authentic unchanged lineage of the Buddha is the implication that other Buddhist lineages are not.³

Traditionally, Tibetans have tended to not be particularly interested in the historical conditions that have effected changes in the ways Buddhism is presented. Appeals to authoritative lines of teaching have been more the order of the day. Although this has resulted in inter-sectarian problems from time to time in Tibet, Tibet’s relative isolation from the rest of the Buddhist world has allowed it to not be tremendously problematic on a pan-Buddhist level. But in the world today, where Buddhists of all stripes are in more regular contact with one another and historical consciousness is a more broadly accepted value, I believe that changes are probably imminent. For example, Tibetans have traditionally studied the ideas of Buddhist philosophy independent of the historical conditions that contributed to their production. Western scholars and modern academic approaches to Buddhism emphasize understanding ideas in context. I have personally found this approach to Buddhist texts, which consider the author’s intended audiences, competing views the author may be considering, social conditions, and other factors that can influence the specific shape of the presentations, to be incredibly beneficial for deepening my own understanding. Recent discussions I have had with several geshes and lamas affirming the importance of this, the increased presence of lamas and ethnic Tibetans in doctoral programs and faculty positions at academic institutions, along with their historically-minded publications, have led me to believe that we may be at the very early stages of a fundamental rise in historical consciousness in Tibetan Buddhist traditions. How long this takes, the shape(s) it will take, and its implications for future generations of Buddhists remains to be seen. But I think moving forward into the 21st century, it is a change that is not only inevitable, but will be beneficial for Buddhists for generations to come.

Notes
¹ Cleary, Thomas. Trans. (1993) The Flower Ornament Scripture. Boston: Shambhala.
² The same thing is happening in Theravada traditions.
³ John Makransky has discussed this idea very clearly and in great detail in his article, “Historical Consciousness as an Offering to the Trans-Historical Buddha” in John Makransky and Roger Jackson (eds.) Buddhist Theology: Critical Reflections by Contemporary Buddhist Scholars. Surrey: Curzon Press, 2000.

James A. Blumenthal Library at Maitripa College ]