Saturday, November 25, 2023

Tiểu sử Hòa Thượng THÍCH TUỆ SỸ - Biography of The Most Venerable Thích Nguyên Chứng; Dharma / Pen Name: Tuệ Sỹ

 

ON TUE SY 2

TIỂU SỬ

HÒA THƯỢNG THÍCH NGUYÊN CHỨNG
Hiệu: Tuệ Sỹ

 

Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, thế danh Phạm Văn Thương, sinh ngày 15-2-1943 theo khai sanh (gia đình khai tăng tuổi để thầy đi học), tuổi thật sinh ngày 05 tháng 4 năm 1945 (nhằm ngày 23 tháng 02 năm Ất dậu), tại tỉnh Paksé, Lào;

Thân phụ: Cụ ông Phạm Văn Phận, Pháp danh Trung Thảo, Thân mẫu: Cụ bà Đặng Thị Chín, Pháp danh Diệu Chánh,

Đồng nguyên quán xã Nghĩa Ninh, Đồng Hới, Quảng Bình, Trung phần Việt Nam.

Thuở nhỏ Thầy thường được theo mẹ đi chùa làng gần nhà, là nhân duyên để đến lúc Thầy chỉ muốn ở chùa không về nhà nữa. Năm 1952, do chạy giặc, Thầy được cha mẹ gởi lên chùa hành điệu hầu sư phụ là Hòa thượng khai sơn chùa Trang Nghiêm, làng Tân An, tỉnh Paksé, Lào. Năm 1954, 9 tuổi, Thầy chính thức được thế phát xuất gia tại chùa này. Đến năm 12 tuổi, vị Trụ trì chùa nhận thấy khả năng và thiên tư đặc biệt của người học trò này, đã khuyên gia đình nên đưa Thầy về Việt Nam để rộng đường tu học. Năm 1960 Thầy trở về Việt Nam, sống xa gia đình tại chùa Bồ đề, một ngôi chùa nhỏ gần cầu Gia Hội, Huế. Hành trang Thầy lúc đó là bộ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh chữ Hán Thầy luôn giữ bên mình, đến năm 1968 do biến cố Tết Mậu thân mới bị lạc mất ở chùa Từ Đàm, Huế. Chú của Thầy là Hòa thượng Thích Trí Quang, một nhà lãnh đạo nổi danh của Phật Giáo trong thập niên 1960, lúc ấy cũng đang sống tại Huế.

Tuy vậy với bản tính độc lập, Thầy đã một mình giong ruổi qua các địa phương: Huế, Nha Trang, Sài Gòn, Tiền Giang và các tỉnh miền Nam, tự lập và sống nương nhờ các tự viện lớn nhỏ. Năm 1961, 16 tuổi, Thầy thọ giới Sa-di với Hòa thượng Thích Hành Trụ tại Sài Gòn. Năm này, Thầy thọ an cư Sa-di giới đầu tiên tại chùa Phật Ân, tỉnh Tiền Giang cùng với thầy Trí Minh. Sau cùng Thầy được Hòa thượng (viết tắt là HT) Thích Trí Thủ nhận về thiền viện Quảng Hương Già-lam ở Gò Vấp, Sài Gòn. Thầy tốt nghiệp Viện Cao Ðẳng Phật Học Sài Gòn năm 1964, học tại Viện Ðại Học Vạn Hạnh, Phân khoa Phật học niên khóa 1965. Với các bài viết về Thế Thân (Vasubandhu), về A-tỳ-đạt-ma câu-xá luận, HT Thích Đức Nhuận là người đầu tiên phát hiện tài năng của người tu sĩ trẻ, đã giới thiệu Thầy vào Viện ĐH Vạn Hạnh. HT Thích Mãn Giác phó Viện trưởng lúc đó đã đề nghị Viện trao bằng Cử nhân cho Thầy, nhưng Thầy xin phép được từ chối.

Thầy được đặc cách bổ nhiệm Giáo sư thực thụ Viện Ðại Học Vạn Hạnh từ năm 1970 nhờ những công trình nghiên cứu Phật học và những khảo luận Triết học có giá trị cao như Ðại Cương Về Thiền Quán, do Đại lão HT Thích Đôn Hậu giới thiệu, Liên Hoa ấn quán in 1967, Triết Học về Tánh Không (An Tiêm xuất bản, Saigon 1970), v.v… Sau đó Thầy kiêm Xử lý Khoa trưởng Phân khoa Phật học tại Đại học này (niên khóa 1972-1973). Thầy tinh thông chữ Hán, biết nhiều ngoại ngữ như Anh, Pháp, Lào, Thái, Nhật, Tây Tạng, thông thạo hai cổ ngữ Pali và Sanskrit. Thầy cũng đọc hiểu tiếng Ðức, nghiên cứu kỹ về Heidegger và Hoelderlin. Cuốn Thiền Luận nổi tiếng của D.T. Suzuki bản Việt ngữ tập 2 và 3 là do Thầy dịch, in và tái bản nhiều lần từ 1972 đến 1975.

Năm 1973, HT. Thích Trí Thủ thấy Thầy mãi lo việc nghiên cứu và giảng dạy, Ngài đã đốc thúc Thầy chuẩn bị thọ Đại giới Tỳ-kheo, và Sa-di Tuệ Sỹ đã chính thức thọ giới Cụ túc tại Đại giới đàn Phước Huệ tổ chức tại Phật học viện Trung phần, Nha Trang năm 1973, với HT. Đàn đầu Thích Phúc Hộ, HT. Yết-ma Thích Giác Tánh, Giáo thọ sư HT. Thích Trí Nghiêm, Thích Huệ Hưng.

HT. Tuệ Sỹ không chỉ uyên bác về Phật Giáo Nguyên Thủy và Ðại Thừa, Thầy còn tinh thông triết học Tây phương, văn chương, thơ, âm nhạc. HT nghiên cứu thẳng từ nguyên tác của các văn nhân, thi sĩ nổi tiếng của Trung quốc như Tô Đông Pha, Lý Hạ, Đỗ Phủ… Ngoài những khảo luận Triết học và Phật học, HT đã viết tác phẩm đầy thi vị: ‘Tô Ðông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng’ (Ca Dao xb, Sài Gòn, 1973). Về âm nhạc, HT chơi đàn guitar, violon, piano, thổi sáo. Thầy tìm hiểu âm nhạc dân tộc, lại rất am tường nhạc cổ điển Tây phương. HT làm nhiều thơ, viết một số truyện ngắn và các tiểu luận triết học, phê bình văn học đặc sắc, phần lớn đăng trên các tạp chí Khởi Hành (1969-1972) và Thời Tập (1973-1975) tại Sài Gòn. Đồng thời HT cũng là Tổng thư ký tòa soạn Tạp chí Tư Tưởng của Ðại học Vạn Hạnh. Tập thơ đặc sắc bằng chữ Hán, ‘Ngục trung mị ngữ’ được HT làm trong tù sau năm 1975, và các tập thơ ‘Giấc mơ Trường sơn’, ‘Những điệp khúc cho dương cầm’, ‘Thiên lý độc hành’ sau này đã được dịch ra Anh, Pháp, Nhật ngữ, phát hành rộng rãi tại hải ngoại.

Từ trẻ HT đã thuộc lòng các bộ Kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Thắng Man, Duy-ma- cật… Duy-ma-cật sở thuyết là bộ kinh nêu cao tinh thần sống đạo mà chẳng cần y áo hay sự suy tôn kiểu cách. Có thể nói, tư tưởng Bồ-tát đạo trong kinh này và bộ kinh Pháp Hoa đã ảnh hưởng suốt cuộc đời tu học và hành Đạo của Thầy. Với kiến thức Phật Học uyên thâm, HT đã viết giảng luận “Huyền thoại Duy-ma-cật”, và đi theo hình mẫu lý tưởng này, HT đã không ngại dấn thân phụng sự, và ngài đã trở thành biểu tượng của sự đấu tranh ôn hòa cho các giá trị nhân quyền và tự do tôn giáo tại Việt Nam.

Năm 1973 HT về Nha Trang làm Giám học Phật học viện Trung phần (tức Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức), do HT Thích Trí Thủ làm Giám Viện.

Năm 1975, HT Tuệ Sỹ đang phụ trách giảng dạy tại Phật học viện Trung phần, Nha Trang. Sau biến cố 30/4/1975, cơ sở này bị đóng cửa, HT về ẩn cư tại một miếng rẫy chùa ở ven rừng Vạn Giã, cách Nha Trang chừng 60 km.

Ðến năm 1977, HT vào Sài Gòn lánh nạn ở chùa Tập Thành quận Bình Thạnh. Năm 1978, HT bị nhà cầm quyền bắt giam 3 năm không xét xử (tội cư trú bất hợp pháp), cuối năm 1980 thì được phóng thích.

Do hoàn cảnh mấy năm lang thang và ở tù, nhận thấy giới thể bị ảnh hưởng, có thể không thanh tịnh (*), HT được thọ lại Đại giới Cụ túc tại Quảng Hương Già-lam năm 1982 do HT. Thích Trí Thủ làm đàn đầu, HT. Thích Trí Quang làm tôn chứng, HT. Thích Trí Tịnh làm tuyên luật sư.

Từ năm 1980 đến 1984, HT làm Giáo thọ sư cho khóa đào tạo đặc biệt tại Tu Viện Quảng Hương Già-lam do Trưởng Lão HT Thích Trí Thủ làm Giám Viện.

Tháng 4/1984, HT lại bị bắt cùng Giáo sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát và 17 tăng ni, cư sĩ Phật tử. Trong phiên tòa kéo dài nhiều ngày vào cuối tháng 9 năm 1988, không chấp nhận luật sư chỉ định biện hộ mà hai thầy tự biện hộ cho mình, nhà cầm quyền đã kết án TỬ HÌNH hai Thầy Tuệ Sỹ và Trí Siêu vì tội “âm mưu lật đổ chính quyền”.

Do sự tranh đấu tích cực của các nhân sĩ trong và ngoài nước, cùng sự can thiệp của các cơ quan nhân quyền quốc tế, Hà Nội phải vội vã giảm án hai Thầy xuống còn 20 năm khổ sai, đem giam HT tại Xuân Lộc, Đồng Nai, sau đó chuyển riêng HT ra trại A-20 tỉnh Phú Yên. Tháng 10/1994, với sự phản kháng trong tù, HT bị nhà cầm quyền tách đưa ra trại giam Ba sao, miền Bắc. Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã được Tổ chức Human Rights Watch trao giải thưởng tranh đấu nhân quyền (Hellman-Hammett Awards) cùng với 7 nhà đấu tranh khác vào ngày 03/8/1998.

Năm 1998, Hà Nội trả tự do cho Hòa thượng, cùng với một số người khác. Trước đó, HT đã tuyệt thực trong tù. Vì trước khi thả, nhà cầm quyền áp lực buộc HT ký vào lá đơn gửi ông Chủ tịch nước “xin khoan hồng”, HT đã trả lời nội dung: “Chúng tôi đã không công nhận giá trị của phiên tòa này, tính pháp lý của bản án này, các ông không có quyền giam giữ chúng tôi thì sao lại có quyền khoan hồng hay ân xá chúng tôi.” Công an thuyết phục: không viết đơn thì không có lý do để thả được. HT đã khẳng khái đáp: “Đó là việc của các ông; nhưng nếu các ông cứ áp lực buộc chúng tôi ký đơn, tôi sẽ tuyệt thực phản đối.” Và Hà Nội đã phải trả tự do cho HT vào ngày 01/9/1998, sau 10 ngày Thầy không ăn và tiếp theo cả không uống, tổng cộng 14 ngày. Hòa thượng Tuệ Sỹ tuyệt thực một mình, không có tổ chức, bên ngoài không biết. Thấy sức khoẻ HT suy sụp nhanh chóng, chính quyền đã vội đưa bác sĩ vào xin điều trị, và đưa Thầy ra khỏi trại giam.

Ngày 02/9/1998, lúc 10 giờ 45, Hòa thượng Tuệ Sỹ được đưa lên xe lửa về Nam. Ngồi suốt 36 tiếng đồng hồ trên xe với sức khỏe rất yếu sau khi tuyệt thực trong tù, HT không chịu nổi nên được đưa xuống ga Nha Trang, về tạm ở Phật học viện Hải Ðức. Ít lâu sau công an lại ra lệnh HT phải về chùa Già Lam ở Sài-gòn, không được phép ở Nha Trang. Hòa thượng từ chối, viết một lá thư gửi cho nhà cầm quyền, nói “một là tôi tự do ở đâu tôi muốn, hai là vào tù trở lại, chứ mấy ông không thể thả tôi ra khỏi nhà tù nhỏ để nhốt tôi vào nhà tù lớn hơn là cả đất nước này”. Tin này lập tức được loan truyền trên báo chí hải ngoại thời đó.

Trước sau, Hòa thượng đã lãnh một án tử hình, 17 năm tù đày và ba lần bị quản thúc, trải qua các nhà tù khắc nghiệt khắp nam trung bắc. Tuy nhiên điều đó vẫn không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn, và vẫn giữ được lòng thanh thản bao dung không chút oán hận của Thầy.

Tháng 4 năm 1999, Hòa thượng Thích Quảng Ðộ đề cử Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ làm Tổng Thư Ký Viện Hóa Ðạo GHPGVNTN.

Năm 2002, với trách nhiệm Đệ Nhất Phó Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là một trong những nhà lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, là người đóng góp rất nhiều cùng với nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ trong công cuộc đấu tranh đòi hỏi quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam, nhất là quyền phục hoạt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Những lời tuyên bố của người tù lương tâm tôn giáo Thích Tuệ Sỹ tại tòa án, cũng như khí phách kiên cường lúc trong tù, là tấm gương sáng, là niềm tự hào của Phật giáo và của dân tộc: “Lập trường của chúng tôi là lập trường của Phật giáo, là lập trường của toàn khối dân tộc.” Ðối với Hòa thượng Tuệ Sỹ, sức mạnh của Phật giáo không phải là Chính trị, mà là Văn hóa và Xã hội, trong đó Giáo dục có vai trò rất quan trọng. Nhưng công cuộc giáo dục này phải do Giáo hội độc lập đề ra, không thể chịu sự kiểm soát hay áp đặt của bất cứ thế lực nào, thì mới mong đào tạo ra những thế hệ tăng ni có tài đức để phụng sự xã hội, xứng danh trong hàng Tăng Bảo.

Tiếp đến, đầu tháng 3/2003, Hòa thượng Tuệ Sỹ khâm lệnh Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, từ nơi bị quản thúc tại Quảng Hương Già-lam, Thầy đã tháp tùng Hòa thượng Thích Huyền Quang ra Hà Nội chữa bệnh và chuẩn bị gặp Thủ tướng đương thời là ông Phan Văn Khải, để yêu cầu ngài Thủ tướng giải quyết việc đã đình chỉ sinh hoạt của GHPGVNTN từ sau năm 1975, cũng như sự cấm đoán, quản chế không xét xử bản thân Hòa thượng cùng với HT. Thích Quảng Độ và một số Tăng ni, Phật tử khác. Trong dịp này, đại diện ngoại giao của 6 nước thành viên Khối Liên Âu và Hoa Kỳ tại Hà Nội đã chủ động tìm gặp Hòa thượng Tuệ Sỹ, mời Hòa thượng đến thăm, làm việc tại trụ sở ngoại giao của phái bộ Liên Âu ở Hà Nội. Họ đón Hòa thượng đi một mình, không có thị giả, người phiên dịch.

Ngày 01/10/2003, Hòa thượng đã cùng nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ tổ chức Đại hội bất thường GHPGVNTN tại Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định. Sau Đại hội này, hai vị Đại lão Hòa thượng cũng như Hòa thượng Tuệ Sỹ và một số Tăng ni tham dự đã bị nhà cầm quyền quản chế mỗi người một nơi, giám sát chặt chẽ. Tuy nhiên với tinh thần ‘uy vũ bất năng khuất’, Hòa thượng đã sát cánh cùng nhị vị HT Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ ủy thác cho các GHPGVNTN Hải ngoại tổ chức Đại hội bất thường GHPGVNTN tại Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu trong cùng năm 2003. Chính Đại hội này đã công bố đầy đủ nhân sự lãnh đạo Giáo hội trong nước và hải ngoại, và toàn thể Tăng ni Phật tử đã suy tôn Đại lão HT Thích Huyền Quang lên ngôi vị Đệ tứ Tăng thống GHPGVNTN.

Năm 2008, đức Đệ Tứ Tăng thống GHPGVNTN Thích Huyền Quang viên tịch. Ngôi vị được trao lại cho Đại lão HT Thích Quảng Độ truyền thừa, là Đệ Ngũ Tăng thống GHPGVNTN.

Từ đây, Hòa thượng Tuệ Sỹ được yên tâm dành hết thời gian và sức lực cho công việc trước tác, phiên dịch Phật ngôn, và đào tạo từng nhóm tăng ni đủ trình độ nghiên cứu Phật học, phiên dịch kinh điển sau này. Trong thời gian này HT đã hoàn thành phiên dịch, hiệu đính 4 bộ kinh A-hàm, kinh Duy-ma-cật sở thuyết, bộ Luật Tứ phần, các bộ Luận Thành Duy Thức, A-tì-đạt-ma Câu-xá, và nhiều trước tác khác…

Tháng 03/ 2019, Đại lão HT Đệ Ngũ Tăng thống GHPGVNTN dự tri thời chí, biết sức khỏe không còn nhiều, Ngài đã mời HT Thích Tuệ Sỹ đến gặp tại chùa Từ Hiếu, quận 8, Sài Gòn để phú chúc di ngôn và ấn tín của Viện Tăng thống GHPGVNTN, ủy nhiệm Hòa thượng Tuệ Sỹ lãnh đạo, xử lý thường vụ Viện Tăng thống sau khi Ngài viên tịch.

Đến tháng 02/2020 Đại lão HT Đệ Ngũ Tăng thống GHPGVNTN thuận thế vô thường, an nhiên thị tịch tại chùa Từ Hiếu. Lúc này, HT Thích Tuệ Sỹ đang chữa trọng bệnh tại Nhật Bản và bị mắc kẹt tại đây do đại dịch Covid, không thể về nước.

Tháng 10/2020 ngay khi có lại các chuyến bay thương mại, Hòa thượng là một trong số người đầu tiên về nước, dù lúc đó các bác sĩ Nhật Bản khuyên nên ở lại chữa trị, nếu không thì cuộc sống không thể kéo dài quá 6 tháng.

Qua năm 2021, đại dịch Covid bùng phát trở lại ở châu Á trong đó có Việt Nam, mà nặng nhất là Sài-gòn. Với sự phong tỏa chống dịch nghiêm ngặt của chính quyền, mọi dịch vụ y tế lúc đó bị đình trệ ngoại trừ việc chữa bệnh Covid, tuy nhiên Hòa thượng vẫn kiên trì mạnh mẽ chống chọi cơn bạo bệnh để hàng ngày vẫn ngồi bên bàn dịch Kinh, hiệu đính các tác phẩm, tổ chức sắp xếp thư mục cho công trình phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam được thực hiện theo đúng tiêu chuẩn học thuật quốc tế.

Tháng 11/2021 Ngài chủ trì Đại hội lần thứ nhất của Hội đồng Hoằng pháp, quyết định thành lập Hội đồng Phiên dịch Tam tạng Lâm thời để kế thừa Hội đồng Phiên dịch Tam tạng do chư tôn Trưởng lão Hội đồng Giáo phẩm Trung ương – Viện Tăng thống GHPGVNTN đã thành lập từ năm 1973 nhưng sau đó bị gián đoạn do chiến tranh và nhiều chướng duyên khác.

Ngày 03/12/2021 Hội đồng Phiên dịch Tam tạng Lâm thời chính thức được thành lập theo Thông bạch số 11/VTT/VP. Từ đây, công việc phiên dịch, hiệu đính, chứng nghĩa chuyết văn và tổ chức in ấn được đẩy mạnh, thảy thảy đều theo quy củ đã định, để cuối cùng hình thành 29 tập đầu tiên được khởi in trong năm 2022, với công đức dự phần của các bậc Tôn túc cho đến Tăng ni, Phật tử trong và ngoài nước, đặt nền móng cho công trình Đại Tạng Kinh VN chính thức được tiếp nối từ Hội nghị Toàn thể Hội đồng Phiên dịch Tam tạng tháng 10/1973.

Qua năm 2022:

Ngày 21/8, tại chùa Phật Ân, Long Thành, Đồng Nai, Hội đồng Giáo phẩm Trung ương GHPGVNTN đã suy cử HT. Thích Tuệ Sỹ đảm nhiệm trách vụ Chánh thư ký kiêm Xử lý thường vụ Viện Tăng Thống.

Tiếp ngày 22/8 tại chùa Từ Hiếu, quận 8, Sài-gòn, đã cử hành lễ truyền trao ấn tín và khai ấn Viện Tăng Thống cho Hòa thượng.

Từ đó, Hòa thượng đã dành hết thời gian và sức khỏe còn lại để chuyên tâm phiên dịch kinh tạng, hiệu đính, chứng nghĩa cho các dịch phẩm của hàng hậu bối.

Những ngày cuối đời, từ giường bệnh, Hòa thượng đã cẩn thận sắp xếp, dặn dò những việc cần làm của GHPGVNTN cũng như công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam cho các Hội đồng, sau đó đã thuận thế vô thường thâu thần thị tịch tại chùa Phật Ân, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, Việt Nam, vào lúc 16:00 giờ, ngày 24 tháng 11 năm 2023, nhằm ngày 12 tháng 10 năm Quý Mão, trụ thế 79 năm, giới lạp 46[*].

Sự ra đi của Hòa thượng không chỉ là mất mát lớn lao của GHPGVNTN mà còn là niềm đau chung của Phật giáo Việt Nam, cũng như là sự khuất bóng đáng tiếc của một anh tài tinh hoa Dân tộc; nhưng di sản Văn hóa, Giáo dục to lớn mà Hòa thượng để lại xứng đáng làm tư lương tối thiết cho hành giả và học giả muôn đời sau.

Nam mô Từ Lâm Tế Chánh tông tứ thập tứ thế, Việt Nam Phật Giáo Thống Nhất Giáo Hội, Tăng Thống Viện Chánh Thư Ký Xử lý Thường Vụ, húy thượng NGUYÊN hạ CHỨNG, hiệu TUỆ SỸ, Trưởng lão Hòa thượng Giác linh thùy từ chứng giám.

Sài Gòn ngày 24/11 năm 2023.
Môn đồ Pháp quyến

[*] Giới lạp là lấy số năm thọ Cụ túc làm tuổi; hạ lạp là lấy số năm an cư kết hạ làm tuổi. Giới lạp của Hòa thượng Tuệ Sỹ nếu tính từ khi thọ đại giới (1973) đến khi viên tịch (2023) là 50 năm; nhưng khi còn sinh tiền, Hòa thượng có căn dặn là trừ bớt 4 năm lang thang bất định và ở tù mà Hòa thượng tự xét là “giới thể có thể bị ảnh hưởng, không thanh tịnh.” Vì lẽ đó, môn đồ pháp quyến phụng mệnh ân sư, chỉ ghi 46 giới lạp.

DSC00128

Biography of The Most Venerable Thích Nguyên Chứng
Dharma / Pen Name: Tuệ Sỹ

 

The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ (TTS), birth name Phạm Văn Thương, was born on February 15, 1943, as per his birth certificate (his family increased his age for schooling). His real birth date was April 5, 1945 (February 23 of the Year of the Rooster) in Paksé province, Laos.
Father: Mr. Phạm Văn Phận, Dharma name Trung Thảo.
Mother: Mrs. Đặng Thị Chín, Dharma name Diệu Chánh.
Both parents were originally from Nghĩa Ninh, Đồng Hới, capital city of Quảng Bình province, Central Vietnam. 

When he was young he used to accompany his mother to the village Buddhist pagoda close to their house, which was what eventually led him to the point where he wanted to spend all of his time at the pagoda and not return home. During wartime in 1952, his parents sent him to the Trang Nghiêm pagoda in Tân An village, Pakse province, Laos, to assist the founding Venerable.  In 1954 he was ordained as a Novice at this pagoda at the age of nine. At 12 years old he was encouraged to return to Vietnam to continue his studies when the pagoda’s Abbot recognized his special qualities and abilities. In 1960 he returned to Vietnam by himself and lived at Bồ đề Pagoda, close to the Gia Hội Bridge in Hue. His main possession at the time was the Diệu Pháp Lotus Sutra, written in Chinese. That Sutra was lost in the Từ Đàm Pagoda in Huế as a result of the 1968 Tết Offensive. His uncle was The Most Venerable Thích Trí Quang, a well-known Buddhist leader from the 1960s who lived in Huế at the time.

However, due to his independent nature, he traveled alone through places like Huế, Nha Trang, Saigon, Tiền Giang, and other southern provinces. He lived and studied in both big and small pagodas. In 1961, at 16, he was ordained as a novice monk with The Most Venerable Thích Hành Trụ in Saigon. Eventually, he was accepted by The Most Venerable Thích Trí Thủ into the Quảng Hương Già-lam Zen Monastery in Gò Vấp, Saigon. TTS graduated from the Saigon College of Buddhist Studies in 1964 and from the Faculty of Buddhist Studies at Vạn Hạnh University in 1965. After his research on Câu-xá luận, The Most Venerable Thích Mãn Giác, then the Vice-President, proposed to grant him a Bachelor degree from Vạn Hạnh University, but he respectfully declined. 

In 1970, he was appointed as a professor at Vạn Hạnh University due to the excellence of his Buddhist research works and philosophical treatises. Among his contributions, the ‘Outline of Meditation’ (published by Liên Hoa in 1967) and the ‘Philosophy of Emptiness’ (published in Saigon by An Tiêm in 1970) stood out. From 1972-1973, he served as professor and head of the Buddhist Studies department at the same university. He was fluent in classical Chinese and also knew English, French, Lao, Thai, and Japanese. He was also fluent in Pali and Sanskrit, two ancient languages. In addition to reading and comprehending German, he meticulously studied the works of Heidegger and Hoelderlin. Before 1975, he translated, printed, and republished the second and third volumes of D.T. Suzuki’s famous ‘Essays in Zen Buddhism multiple times. 

In 1973, the Most Venerable Thích Trí Thủ noted that Tuệ Sỹ was deeply engrossed in research and teaching. He advised him to prepare for  ordination as Bhikkhu (Upasampada). Consequently, the novice monk Tuệ Sỹ officially received full ordination at the Phước Huệ Great Ordination Platform held at the Buddhist Academy in Central Vietnam in Nha Trang in 1973, led by The Most Venerable Thích Phúc Hộ. Other prominent figures at the ceremony included The Most Venerable (Kammavācācariya – Yết Ma) Thích Giác Tánh, The Most Venerable Acarya Thích Trí Nghiêm, and The Most Venerable Acarya Thích Huệ Hưng.

The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ was well-versed not only in Theravāda Buddhism and Mahayana Buddhism but also in Western philosophy, literature, poetry and music. TTS conducted his research and studies from the original works of renowned Chinese authors and poets, including Su Dongpo (Tô Đông Pha), Li He (Lý Hạ), Du Fu (Đỗ Phủ), and others. Beyond philosophical and Buddhist discourses, TTS authored the intriguing work ‘Tô Đông Pha, The Distant Dreamy Skies’ (1973, Ca Dao, Saigon). TTS was also a musician who played the guitar, violin, piano, and flute. He was well-versed in both traditional Vietnamese music and Western classical. A large volume of his works, poetries, short stories, philosophical essays, and outstanding literary critiques appeared in the Saigon-based magazines “Khởi Hành” (1969-1972) and “Thời Tập” (1973-1975). TTS was the editor-in-chief of Vạn Hạnh University’s “Tư Tưởng—Thought” magazine. His extraordinary poetry publication, written in Chinese, ‘Ngục Trung Mỵ Ngữ,’ was composed during his imprisonment after 1975. His poetry collections ‘Giấc mơ Trường sơn’ (the Trường Sơn Dream [Annamite Mountain Range Dream]), ‘Những điệp khúc cho dương cầm (Refrains for Piano), and Thiên lý độc hành’ (Odyssey Unto Self)  were later translated and extensively published internationally in English, French, and Japanese.

At an early age, TTS memorized the Lotus Sutra, Vajracchedika, Śrīmālā-siṃhanāda-sūtra (The Sutra of Queen Śrīmālā of the Lion’s Roar), and Vimalakirti Sutra, which are filled with tales of Bodhisattvas who self-sacrificed to save suffering sentient beings. The Vimalakirti Sutra emphasizes the spirit of living the path without monk’s robes or other overt religious manifestations. A lay Bodhisattva named Vimalakirti once profoundly stated, “My malady is the ailment of sentient beings. So long as any sentient being suffers, I will continue to suffer to serve them.” Inspired by this ideal, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ composed the discourse “The Legend of Vimalakirti” using his extensive Buddhist knowledge. TTS devoted himself wholeheartedly to becoming a symbol of the non-violent fight for human rights and religious liberty in Vietnam. 

In 1973, he moved to Nha Trang to take the position of academic coordinator of the Hải Đức College of Buddhist Studies. 

After the event of 30 April 1975, this institution was shut down. TTS retreated to a monastery plot on the fringes of Vạn Giã forest, approximately 60 kilometers from Nha Trang. 

By 1977, he relocated to Saigon and resided in the Gò Vấp district at Già Lam Temple. Beginning in 1978, the government of the Socialist Republic of Vietnam imprisoned him without trial for three years for staying without a registrational permit. His release occurred in early 1981.

Due to the circumstances of several years of wandering and being in prison, realizing that his precepts were affected and possibly impure (*), he was fully re-ordained a  Bikkhu in Quảng Hương Già-lam in 1982 by the Most Venerable Thích Trí Thủ, who led the ceremony, the Most Venerable Thích Trí Quang as Venerable Witness, and the Most Venerable. Thích Trí Tịnh delivered the Upasampadā Precepts.

The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ was a Dharma instructor for a special training course at Quảng Hương Già Lam Monastery from 1981 to 1984, under The Most Venerable Thích Trí Thủ serving as the Director of Institute.

In April 1984, TTS was detained along with Professor Trí Siêu Lê Mạnh Thát and 17 monks and Buddhist lay people. The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ and Professor Trí Siêu Lê Mạnh Thát were sentenced to DEATH for “conspiring to overthrow the government” after a multi-day trial held at the end of September 1988. The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ and Professor Trí Siêu chose to represent themselves and did not take state-appointed defense attorneys. Due to the active intervention of domestic and foreign intellectuals and activists, as well as international human rights organizations, Hanoi swiftly reduced the sentence to 20 years of hard labor, imprisoning TTS in Xuân Lộc, Đồng Nai, and later transferring him to camp A-20 in Phu Yen province. Because of his resistance in prison, TTS was isolated and transferred to the North in October 1994. Human Rights Watch presented the Hellman-Hammett Awards for human rights activism to The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ and seven other activists on August 3, 1998. 

In 1998 Hanoi released TTS along with several others. Before his discharge from prison, TTS had been on a hunger strike. Before releasing him the authorities compelled TTS to submit a petition to the president “requesting amnesty.” “We do not recognize the validity of this trial or the legality of this verdict.” TTS responded: “If you have no right to detain us, how can you have the right to absolve or grant us amnesty?” Without the petition, there would be no grounds for release, according to the police. TTS replied firmly, “That’s your problem, but if you keep pressuring us to sign the petition, I will go on hunger strike in protest.” TTS was released by Hanoi on September 1, 1998, after he had gone ten days without sustenance and four days without water, for a total of fourteen days. The hunger strike of The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ was a solitary act that was unseen by any organization or the outside world.

Seeing TTS’s swift deterioration in health, the authorities immediately dispatched a doctor and released him from prison. 

At 10:45 a.m. on September 2, 1998, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ was placed on a train bound for the South. After 36 hours of train travel, and with his health severely compromised by the hunger strike, TTS was unable to continue. He was dropped off at the Nha Trang station before lodging temporarily at the Hải Đức Buddhist Institute. The authorities ordered him to return to Già Lam Temple in Saigon and not to remain near Nha Trang. He refused, stating in a letter to the authorities, “You cannot release me from a small prison only to confine me to a larger prison, which is this entire country.” The international press promptly reported this news at the time.

The author of Những Phương Trời Viễn Mộng (“Distant Dreaming Horizons”) confronted the death penalty, 17 years of imprisonment, house arrest three times, and harsh prisons in the country’s South, Center and North. However, such adversity could not deter a person who chose to live in complete accordance with his values.

In April 1999, The Most Venerable Thích Quảng Độ nominated The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ for the position of Secretary-General of the Viện Hóa Đạo of GHPGVNTN (The Institute for the Dissemination of Dharma of the Unified Buddhist Church of Vietnam).

In 2002, as the First Deputy Head of the Institute for the Dissemination of Dharma, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ played a prominent position within the Unified Buddhist Church of Vietnam. Together with the revered monks The Most Venerable Thích Huyền Quang and The Most Venerable Thích Quảng Độ, he made significant contributions to the promotion of religious freedom in Vietnam, particularly the right to reactivate the Unified Buddhist Church of Vietnam.

The statements of the religious prisoner of conscience The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ in court and his resolute spirit while incarcerated serve as a shining example and a source of national pride for Buddhism and the nation: “Our stance is the stance of Buddhism and the stance of the entire national bloc.” Buddhism’s strength, according to The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ, lies not in politics but in culture and society, where education plays a crucial role. However, this educational endeavor must be initiated by a religious organization that is free from external control or imposition. Only then can they hope to raise generations of monks and nuns endowed with the virtue and talent required to serve society and worthy of ranking in Sangha’s linage.

Subsequently, in early March 2003, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ accompanied senior monk The Most Venerable Thích Huyền Quang from his house arrest location at Quảng Hương Già-Lam to Hanoi for medical treatment and to prepare for a meeting with Mr. Phan Văn Khải, the then Prime Minister of Vietnam. The purpose of this meeting was to request that the Prime Minister address the suspension of the activities of the Unified Buddhist Church of Vietnam since 1975 and the unjust prohibition and control over The Most Venerable Thích Huyền Quang, The Most Venerable Thích Quang Độ, and several other monks and adherents. On this occasion, diplomatic representatives from six member nations of the European Union and the United States met the Venerable and invited him to visit the diplomatic offices of the European Union in Hanoi. They requested that the Venerable come to them alone, without a companion or translator.

On October 1, 2003, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ, together with the most venerable monks Thích Huyền Quang and Thích Quảng Độ, convened an Extraordinary General Assembly of the Unified Buddhist Church of Vietnam (GHPGVNTN) at Nguyên Thiều Monastery, Bình Định. Following this congress, the two most senior monks, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ, and several participating monks were placed under house arrest and subjected to strict government surveillance. However, with an undeterred spirit, The Most Venerable stood with his two most senior leaders, The Most Venerable Thích Huyền Quang and The Most Venerable Thích Quảng Độ, entrusting overseas branches of GHPGVNTN to convene a congress abroad at Quảng Đức Monastery in Melbourne, Australia, in the same year, 2003.  This congress formally proclaimed the Church’s domestic and international leadership. The most Senior Monk, Thích Huyền Quang was elevated to the Fourth Supreme Patriarch of the GHPGVNTN by the congregation.

In 2008, The Most Venerable Thích Huyền Quang, the fourth supreme patriarch of GHPGVNTN, demised. Senior Monk Thích Quảng Độ, who became the Fifth Supreme Patriarch of GHPGVNTN, assumed his position.

The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ subsequently devoted his time and energy to literary labor, the translation of Buddhist scriptures, and the instruction of monks in the study and translation of Buddhist classics. During this time, he completed translations and revisions of four sets of scriptures: Āgama (A-hàm), Vimalakirti Sutra, the Four-Part Vinaya, and numerous other works, including Discourse on the Perfection of Consciousness-only and Abhidharmakośa (A-tì-đạt-ma Câu-xá) and other verses.

In March 2019, the Fifth Supreme Patriarch of GHPGVNTN invited The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ to meet him at the Từ Hiếu temple in District 8, Saigon, to confer the final words and seal of the Supreme Central Council Sangha (Sangharaja Institute) of GHPGVNTN, entrusting The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ with the leadership and daily operations of the Sangharaja Institute after his passing.

In February 2020, the Fifth Supreme Patriarch of the GHPGVNTN passed away peacefully at the Từ Hiếu Temple. At the time, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ was receiving intensive medical treatment in Japan and was unable to return home due to the COVID pandemic.

As soon as commercial flights resumed in October 2020, TTS was among the first to return to Vietnam, despite doctors in Japan advising him to remain for treatment and warning that he might not live beyond six months if he left.

The COVID-19 pandemic reemerged in 2021 in Asia, including Vietnam, with the most severe outbreak occurring in Saigon (Ho Chi Minh City). Due to the authorities’ stringent lockdowns, almost all medical services were suspended, except for COVID-19 treatment. Despite these obstacles and his health condition, the Venerable battled his grievous illness with fortitude and resolve. Every day, he sat at his desk translating scriptures, revising works, and organizing the catalog for the translation project of the Vietnamese Buddhist Canon to meet international academic standards.

In November 2021, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ presided over the first meeting of the Dharma Council and decided to form a Provisional Tripitaka Translation Council. This council would replace the Tripitaka Translation Council, which was established in 1973 by senior monks of the Central Religious Council—the Supreme Central Council Sangha (Sangharaja Institute) of the Unified Buddhist Church of Vietnam. However, the original council’s operations were, later on, interrupted by the conflict and other obstacles.

According to Order No. 11/VTT/VP, the Provisional Tripitaka Translation Council was formally constituted on December 3, 2021. Translation, revision, textual verification, and printing duties were subsequently expedited per established procedures. Ultimately, 29 volumes were scheduled for publication in 2022. This endeavor received contributions and support from senior monks to ordinary monks and Buddhists domestically and internationally, laying the groundwork for the current Council to continue the Vietnamese Buddhist Canon project initiated by the Tripitaka Translation Council General Assembly in October 1973.

On August 21, at Phật Ân Temple in Long Thành, Đồng Nai, the Central Religious Affairs Council of the Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV) elected Venerable Thích Tuệ Sỹ to assume the responsibilities of the Chief Secretary cum Standing Chief Executor and handle the regular duties of the Supreme Central Council Sangha.

On August 22 at Từ Hiếu Temple in District 8, Saigon, a ceremony was held to confer the seal to the Venerable and inaugurate the Supreme Central Council Sangha.

Since then, the Venerable has devoted all his remaining time and energy to focusing on translating Buddhist scriptures, editing, and validating the translations of works by younger generations.

In his final days, from his sickbed, the Venerable meticulously arranged and instructed the necessary tasks for the UBCV and the Vietnamese Buddhist Canon translation project for the Councils. He serenely passed away at Phật Ân Temple, Long Thanh district, Đồng Nai province, Vietnam, at 16:00 on November 24, 2023, corresponding to the 12th day of the 10th month in the Year of the Cat, at the age of 79, having devoted 46 vassas to monastic life.

The departure of The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ is not only a great loss for the UBCV but also a shared sorrow for Vietnamese Buddhism, as well as the regrettable loss of a national intellectual and cultural treasure. However, the Venerable left behind a vast cultural and educational legacy that legitimately provides essential nourishment for both scholars and present-day and future practitioners.

Homage to the 44th generation of the True Lam Te Sect, the Unified Buddhist Church of Vietnam, the Chief Secretary of the Supreme Central Council Sangha (Sangharaja Institute), ordained under Dharma name: first (name) NGUYÊN, last (name) CHỨNG, and titled TUỆ SỸ, The Most Venerable Elder.

Saigon, November 24, 2023
Compiled by the Dharma disciples and relatives.

(*) In Buddhist monastic tradition, the seniority of a monk, often referred to in terms of ‘Observing the Precepts Age’ (Giới lạp), is determined by the number of years since their complete ordination. On the other hand, ‘Hạ Lạp’ refers to the number of summer retreats a monk has completed. The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ, who was fully ordained in 1973, has accumulated fifty years of precepts by the time of his passing in 2023. However, during his youth, The Most Venerable  Thích Tuệ Sỹ chose to reduce the four years he spent wandering and in imprisonment. He believed these years did not contribute to his spiritual purity and monastic discipline, as he felt that “his observing precepts entity can be affected and not pure” during such times. Respecting their teacher’s perspective, his Dharma disciples officially recorded forty-six precepts for The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ, aligning with his expressed intentions.

Friday, November 24, 2023

VÕ ĐÌNH: THƯ CHO MỘT HOẠ SĨ GIÀ

 

THƯ CHO MỘT HOẠ SĨ GIÀ (VÕ ĐÌNH)


Mấy năm trước, dễ hơn chục năm trước, tôi có viết một loạt bài gọi chung là “Thư Cho Một Họa Sĩ Trẻ”. Hồi đó, tôi có người bạn nhỏ hơn đến gần ba chục tuổi, yêu văn học nghệ thuật, đặc biệt thích vẽ tranh. Tôi mượn cớ viết những thư đó (bắt chước nhà mỹ thuật học Anh cát lợi Herbert Read với cuốn Letter to A Young Painter của ông – Horizon Press, New York, 1962)— để chia sẻ một số kinh nghiệm bản thân trong đời cầm cọ.

Năm 198..., tạp chí Làng Văn ở Gia nã đại gọi đùa tôi là “họa sĩ trẻ... lại”. Tôi thưởng thức hai chữ “trẻ... lại” dí dỏm đó tuy biết rằng một khi cái già nó đến với mình rồi có bao giờ nó bỏ mình đâu.

Năm ngoái, qua Paris, gặp một bạn văn bảo nên tiếp tục loạt “Thư Cho Một Họa Sĩ Trẻ”. Phải một năm trôi qua mới thấy là “nên”. Bèn “tiếp tục”. Nhưng ngẫm lại, chưa chắc gì người trẻ họ cần được mình chia sẻ cho bằng người già. Trong giới cầm cọ hiện nay coi mòi người già đông đảo hơn người trẻ đó. Thời buổi này, đặc biệt ở hải ngoại, người trẻ thiếu gì cơ hội, dại gì mà lăn vào cái nghề được coi là “tàn mạt rách nát” (chữ của họa sĩ Khánh Trường). Cho nên có “Thư Cho Một Họa Sĩ Già” này.

...

Bác Th. kính yêu

Nghe tin Bác về hưu. Định nói “sướng nhé” nhưng thôi vì tôi biết với người như Bác “hưu” chỉ là chuyện trên giấy tờ. Đăng ký ở sở An sinh Xã hội để có được cái bảo hiểm sức khỏe rẻ mạt thôi chứ đời cầm bút cầm cọ có bao giờ biết đến chuyện hưu chuyện hiếc.

Tôi nhớ lần trước qua thăm, Bác có cho xem cái giá vẽ cũ. Giá gỗ sồi, mua từ nửa thế kỷ trước bên Pháp; các thứ móc, ốc, nẹp toàn bằng đồng, thật chắc. Tôi thêm hai chữ “thật chắc” để Bác biết rằng tôi đặc biệt để ý đến những bộ phận bằng solid brass của cái giá vẽ cũ. Đồ mới sau này người ta đúc bằng nhôm, bằng nhựa, vừa thô lậu, vừa yếu xìu. Nhớ hơn nữa là chuyện Bác kể .

Vác cái giá vẽ ấy về phòng trọ, dựng lên, gài vào tấm bố mới toanh còn thơm mùi toile de lin Belgique, rồi với những cây cọ tinh khôi Bác đã vẽ một bức... tự họa! Từ Rembrandt đến Delacroix cho đến Cézanne, Picasso, Modigliani, tự họa là việc không thể thiếu. Nhưng Bác không dấu diếm, cho biết rằng bức tự họa đó, Bác không bao giờ trưng bày, không cho ai xem, bởi vì nó quá “dở”. Bố cục, đường nét, màu sắc, tất cả đều xoàng, đều tồi, Bác bảo thế. Tôi vẫn biết Bác “khó”. Đâu biết, nửa thế kỷ trước, Bác đã “khó” với cả bản thân.

Ấy thế mà rồi Bác cứ tiếp tục dùng cái giá vẽ ấy để trong mấy chục năm vẽ ra không biết bao nhiêu là tranh. Nhớ hồi mới ngoài hai mươi, Bác mơ ước mở một phòng tranh, một triển lãm cá nhân – exposition particulière/ one-man show... Mặc bộ đồ lớn, thắt cái cà vạt kẻng nhất, đứng ở ngưỡng cửa, tươi cười chào đón quan khách. Và thỏa mãn nhất là cái giây phút “nàng” xuất hiện với bố mẹ. Đẹp rụng rời. Thơm ngát. Một tay nâng nhẹ cùi chỏ người đẹp, đúng phép lịch sự, một tay hững hờ cầm cái ly sâm banh cao cổ, dìu “nàng” bước nhỏ xem tranh, chốc chốc lả lướt đi một lời bàn vừa cổ kính vừa hào hoa. Ôi, giấc mơ tuổi trẻ, giấc mơ “văn nghệ"...

Cái ngày của phòng tranh ấy, rồi nó cũng đã đến, đã đi, và sau đó Bác cứ tà tà mấy chục cái triển lãm khắp nơi. Đã có nhiều bài báo, tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Anh, viết về Bác, đăng hình Bác, miệng ngậm ống vố, tay cầm cọ, nét đắm say trong đôi mắt ưu tư. Chao ôi,... “nhà nghề” quá sá. Bác đã vẽ, đã trưng bày, đã bán tranh, đã sống như một họa sĩ. Trong mấy chục năm. Và giờ đây, tuổi hưu nó đâm xầm vào Bác. Bác nghỉ hưu. Cái chữ “hưu”, tiếng Tàu, tiếng ta, nghe dễ chịu: nghỉ, thôi, ngưng. Tôi ngờ rằng Bác không ưa gì cái chữ Anh, chữ Pháp: retirement, retraite. Rút lui, thụt lùi. Tiềm tàng nỗi niềm thua thiệt, co cụm. Ngay cả ẩn nhẫn, yếm thế.

Người khác về hưu loay hoay phác hoạch đời sống tuổi già: khám sức khỏe định kỳ, du lịch theo chương trình, có tổ chức, tí toáy tập lấy một công việc vừa giải trí vừa bổ ích (hobby) thì Bác vẫn ngày ngày cặm cụi với mấy cây cọ. Mấy cây cọ Bác dùng bao năm nay đã quá cùn, xơ như cái chổi cũ. Bác bảo: Vẽ đẹp không cần cọ mới.

Nhớ lần Bác kể cho nghe Bác đã quyết tâm dấn thân vào con đường hội họa như thế nào. Đó là ngày Bác tình cờ được thấy tấm ảnh đen trắng lớn trong cuốn sách về tác phẩm của Georges Braque. Một phía phòng vẽ. Cửa sổ lớn, không màn, không sáo, ánh sáng xám nhạt tràn ngập lên cái bàn gỗ trơn. Trên bàn, một dãy lọ lớn đựng đầy cọ, thứ lọ thô lậu bằng đất nung rắc muối. Những cây cọ đứng dựa vào nhau, dài với dài, ngắn với ngắn, cây nào cũng cùn đến gần tới nẹp (ferrule). Cùn nhưng sạch sẽ, trang trọng, rõ ràng có bàn tay chăm chút săn sóc. Những cây cọ đứng trong những lọ đất thô đặt thành hàng trên mặt bàn gỗ chằng chịt dấu vết thời gian đã thôi thúc, dìu dắt Bác đi tới quyết định một đời.

Bây giờ Bác cũng có những cây cọ cùn như Braque. Có khác gì chăng những năm chưa hưu là Bác cũng đã cho cái giá vẽ về “hưu” với Bác. Cái chevalet Pháp nó hay thật: nhờ những móc, ốc, nẹp bằng đồng đó mà nó có thể được xếp lại vô cùng gọn ghế. Bác không dùng giá vẽ nữa, nghĩa là không đứng mà vẽ nữa, như tuyệt đại đa số họa sĩ Tây phương cổ cũng như kim, Bác đã “hạ thổ". Nghe kể Bác tự tay đóng một cái “bàn cao không tới gang tay, đặt cái thảm nhỏ trước “bàn”, ngồi xuống mà làm việc. Hỏi có phải Bác trở về phương Đông không thì Bác gắt: “Đông Tây gì! Đứng mỏi chân đấy thôi. Ngồi khỏe hơn đứng chứ. Muốn ngồi sao thì ngồi. Xếp bằng ăn cỗ cũng được mà chồm hổm chỏ hỏ kiểu nước lụt cũng xong. Bó gối như Yên Đổ Nguyễn Khuyến cũng hay mà quì hai gối chống hai tay... lối Nhật cũng... O.K. Đó là chưa kể đến chuyện ngồi lối kiết già kiếc giếc". Tôi chịu Bác!

...

Bác đứng hay ngồi, cái quyền và cái thú là của Bác, tôi không dám xía vào. Chỉ xin thưa với Bác về đôi chút lấn cấn trong tôi thôi. Có hỏi Bác lần nào đó và bị Bác “xì” cho một cái dài ý rằng không thèm lưu tâm đến ba cái lẻ tẻ vô bổ. Tôi không có cách nào khác hơn là viết ra đây, xin Bác vài lời để chúng tôi, đồng nghiệp... già của Bác có cơ hội xét lại đôi điều.

Bác bảo Bác không trưng bày nữa: Sau mấy chục cái triển lãm Bác đã chán ngấy. Chuẩn bị tranh triếc, phòng ốc đâu vào đấy, gửi thiệp mời, đón tiếp quan khách, vân vân, Bác cho rằng đời Bác như vậy là quá đủ. Tôi thông cảm và chia sẻ với Bác những phiền hà, vất vả này. Nhưng không trưng bày, không cho ai xem, tại sao Bác vẫn tiếp tục vẽ?

Không trưng bày, không cho ai xem, tức là không “rao hàng" vậy nói cụ thể Bác xoay trở làm sao? Có thể nhu cầu của Bác ít hơn nhiều người khác nhưng ở cái xứ đồng tiền là vạn năng này, nói như chính người Mỹ nói: “You can’t live on air alone!” (Chỉ hít không khí mà thôi, sống sao nổi!”)

Bác tiếp tục vẽ, ngày ngày vẫn vẽ, chẳng hay Bác vẽ cái gì? Hội họa là lãnh vực tạo hình, là nghệ thuật chỉ con mắt mới thấy được, “nói” ra e có điều bất cập, nhưng Bác cố thử xem sao. Tôi hứa sẽ rán hết sức hình dung con đường Bác đang lủi thủi một mình...

Thôi, đã hỏi “vẽ cái gì” thì tôi cũng xin “thừa thắng xông lên” hỏi tiếp: Bác vẽ làm sao? Thuở trẻ dại, Bác đã từng học vẽ bằng cách dùng que than vẽ tượng đá cổ Hy Lạp, dùng sơn dầu vẽ “cóp” những tranh Phục hưng... Sau bao năm luân lạc, Bác rời bỏ những khuôn phép ấy, Bác đã tìm kiếm không nguôi, và bây giờ Bác vẽ ra làm sao?

Trời ơi, gửi Bác những câu hỏi này, lòng tôi không an.

Mong Bác thương mà đừng mắng.

Tiểu đệ bái bút,

D.

...

Và sau đây là “Thư Từ Một Họa Sĩ Già”:

Anh Đ. thân mến,

Cái ông này bày đặt! “Tiểu đệ bái bút”! Làm gì mà ông trịnh trọng dữ vậy? Đã hỏi thì trả lời đây.

Người ta, người bên văn đó, cứ khoe “ngứa” cái này “ngứa” cái nọ. Cứ làm như chỉ vì “ngứa” mới viết và chỉ có họ mới biết “ngứa”. Giới cầm cọ chúng mình cũng “ngứa” như ai vậy. Nói như mấy ông họa sĩ đất thần kinh: ngửa hung! Ngứa quá sức. Đã ngứa phải gãi. Nhưng có phải khi nào gãi cũng sướng đâu. Đau, rát, bật cả máu. Mà vẫn gãi. Cái vẽ lắm khi đau đớn lắm. Nhưng không vẽ chịu không được.

Ông hỏi “vẽ mà không trưng bày, không cho ai xem, tại sao Bác tiếp tục vẽ?"

Giản dị lắm ông ơi. Trưng bày là nghề. Vẽ là nghiệp. Bỏ nghề được. Bỏ nghiệp, sức mấy. “Đã mang lấy nghiệp vào thân” mà.

Tôi vẽ mà không cho ai xem chẳng phải vì ích kỷ hay khinh người đâu. Chỉ là vì cho xem tranh, trong một cuộc triển lãm hay tại nhà riêng, phiền toái lắm. Viết cuốn sách, bà con xa gần tặng một cuốn “lấy thảo”, còn lại nhà phát hành phổ biến, ai mua thì mua. Đọc hay không đọc, hiểu hay không hiểu, thích hay không thích, việc của độc giả mình chỉ đứng xa xa ghi nhận được gì thì ghi nhận thôi. Bức tranh, đâu có giản dị thế, ông cũng là người vẽ, ông biết chán. Dù sao, tôi cũng “hưu” rồi. Đã “hưu” thì ta có quyền (và bổn phận) gạt bỏ bớt những phiền hà của đời “nhà nghề” đi. Chỉ giữ lấy cái nghiệp thôi. Chạy trời không khỏi nắng!

...

“Lấy gì mà sống” à? Những năm còn bán tranh, đóng thuế lợi tức nghề tự do (self-employment tax) dài dài nay nhà nước hoàn lại hàng tháng cho mình thôi. Chẳng xin xỏ ai cái gì cả. Mấy cuốn sách hồi nảo hồi nao, hai ba chục năm về trước, vậy mà vẫn đem lại lai rai tí quà: lâu lâu một cái chi phiếu ở đâu rớt xuống, coi như lộc Trời vậy. Mới hay cái cách làm việc của tư bản “thiếu nhân tính” nó hữu hiệu và công bằng. Chẳng cần biết nó thương hay nó ghét, cứ đến đúng ngày đúng tháng, là máy nó tự động tính toán, phun ra cái chi phiếu cho mình. Cái máy, nó thiếu “tình người” nhưng nó lương thiện. Nói thật với nhau chứ lỡ ra có đứa cà chớn nào đó ở nhà xuất bản cố tình không gửi tiền thì mình cũng chẳng biết vào đâu!.

Từ lâu tôi vẫn nghĩ rằng nhu cầu vật chất của mình ít hơn, thậm ít hơn là người ta cứ khăng khăng bảo rằng mình phải có. Ông có biết câu nói để đời của Henri Ford, vĩ nhân của tư bản Mỹ quốc, cha đẻ của chiếc Ford Model T, gần 100 năm về trước: “Bí quyết buôn bán thành công là làm sao cho người ta quay quắt muốn có những thứ mà thật ra người ta không cần tí nào". Đó là ông Tây dạy dỗ. Còn ông Đông (phương) thì nhắc nhở: “Đời sống tinh thần nên ở trên mức trung bình; đời sống vật chất nên ở dưới mức trung bình”. May mắn thay ông Ford và ông Nguyễn (Hiến Lê) không sống cùng một nơi!

Ở xứ Hiệp chủng quốc này có cái gọi là “poverty line”: Anh phải có lợi tức hàng năm trên mức đó anh mới không bị liệt vào “giới người nghèo". Tưởng gì chứ hạn định như vậy thì tuyệt đại đa số nghệ sĩ (nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, điêu khắc gia, nhạc sĩ khúc tác, nhạc sĩ trình diễn, kịch sĩ, diễn viên...) nghèo mạt rệp là cái chắc. Đã có nhiều công trình nghiên cứu thăm dò trong địa hạt này, ông thừa biết.

“Bác xoay trở làm sao?" Hà, hà, xoay trở làm sao hả? Thì từ lâu tôi đã bắt chước các cụ lẩm cẩm ngày xưa bên ta: Tri túc! Tri túc! Nói cụ thể: Có rất nhiều thứ người ta cho là cần lắm lắm, tôi chỉ thấy là cần sơ sơ, không có cũng được. Lại có những thứ người ta cho là cần sơ sơ, tôi, tôi đếch cần... Ngày xưa, bà cụ tôi hay thở dài: “Tạo ra bao nhiêu thì phiền não bấy nhiêu”. Nhỏ dại, nghe là nghe, không lưu tâm. Khôn lớn, mình cứ thắc mắc không rõ cái chữ “tạo” đó nghĩa là gì. Bây giờ thì tôi biết chắc: “tạo” này nghĩa là bày đặt đây, không phải tạo tác, sáng tạo, cấu tạo gì đâu. Nhện giăng mạng để bắt con này con kia. Người bày ra cho lắm rồi vướng vào mà chết.

Hơn 30 năm trước, ông bạn đàn anh Doãn Quốc Sỹ có viết một câu để đời: “Ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn; ở thế giới thực dân tư bản, người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn". Ông Doãn đã từ thế giới cộng sản qua đây với chúng ta ở thế giới tư bản mấy năm nay. Dám chắc lắm khi ông đã hả hê thấy rằng câu viết khi trẻ trung vậy mà chỉ lý quá đỗi. Có lần tôi nói với ổng: “Người ta muốn ‘mua rẻ′ mà anh cứng đầu không bán, anh chết! Chứ còn người ta ‘giam lỏng' anh chỉ vì, hoặc anh tự nguyện chui đầu vào rọ, hoặc đã lỡ ở trong rọ, ăn phải bã rồi, anh chẳng muốn thoát ly". Các giới sản xuất, thương mại, họ biết tỏng anh rồi. Ở xứ tự do, pháp luật minh định rõ ràng đâu là bổn phận, đâu là quyền lợi, không ai có quyền bắt anh phải thế này thế nọ một cách tùy tiện. Người ta chỉ được phép mời mọc, rủ rê, dụ khi thôi. Chịu hay không, tùy anh. Chỉ cần biết rằng cái gì cũng có cái giá của nó.

...

Đ. ơi, ông lại hỏi: “Chẳng hay Bác vẽ cái gì?" Nói ra e có người không vừa tai chứ tôi nghĩ rằng viết, dù không viết về cái gì đi nữa vẫn là viết cái gì. Dù chỉ viết cái chữ thôi, cái chữ vẫn là cái gì. Trong khi đó, vẽ là một động tác của thân xác trong không gian. Không nhất thiết vẽ cái gì mới là vẽ. Vẽ thôi. Như thở. Cần không khí cho cơ thể thì hít không khí vào và thả không khí ra. Nhưng hít vào và thả ra không phải là thở tuy rằng thở bao gồm hít vào và thả ra. Có sự phân biệt giữa hít vào thả ra như những động tác có ý thức, vì nhu cầu, và thở như một sự tuần hoàn tự động. Không ai hỏi “thở cái gì?" Vẽ cũng vậy. Có người vẽ cái này cái nọ. Tôi chỉ vẽ thôi. Đ. à, ông quá quắt lắm đấy nhá. Hỏi “vẽ cái gì” còn được đi, chứ hỏi “vẽ làm sao” thì ông chơi khó tôi quá. Xem nào, tôi mới nói chuyện hít và thở. Có phải là chỉ khi nào ông ý thức rõ ràng cái thở của ông, ông mới thấy có hít vào và thả ra không? Còn thường tình, ông chỉ thở thôi, ông không để tâm là mình đang thở. Vẽ cũng vậy.

Thuở còn rất trẻ, khi tôi vẽ bao nhiêu tâm trí dồn về cái tôi vẽ, và, dễ thôi, tôi cứ đi theo đúng nguyên tắc, những khuôn phép đã được học. Đến tuổi trung niên, khi vẽ tâm trí tôi lại dồn về bản thân tôi, tối đa. Cái tôi vẽ chỉ là cái cớ để tôi vẽ tôi. Một thứ tự họa phi chân dung! Bây giờ, “hưu” rồi, tôi chỉ vẽ thôi, bất cần biết đến cái tôi vẽ đã đành, mà ngay tâm tư bản thân tôi cũng mờ nhạt đi, mờ nhạt đến độ mất dạng.

Thuở non dại, tôi ước ao được trưng bày ở chỗ thật “ngon”, bán tranh thật chạy, kiếm được bộn tiền, và có nhiều thì giờ để sáng tác mạnh hơn. Sau đó, thấm lẽ tương đối của danh lợi và nghệ thuật, tôi để cả tâm trí vào việc tìm kiếm, nắm bắt được một cái vẽ viên mãn. Bây giờ, đã “hưu”, “ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch”, vẽ là vẽ thôi. Không ước ao, không tìm kiếm, không đuổi bắt. Vẽ thôi.

Anh Đ. ơi, trả lời vậy, được chưa?

Thân

Th.

VÕ ĐÌNH
(Lại nói chuyện vẽ-1999)

Hình: tranh của hoạ sĩ Võ Đình
Nguồn: FB 

Nguyên Hưng 

Hoà Thượng Tuệ Sỹ và GHPGVNTN trong dòng sống của dân tộc và hướng đi của thời đại

Hòa thượng Tuệ Sỹ biết mình thân đang mang trọng bệnh. Khó khăn duy nhất mà ngài không thể vượt qua là thời gian. Vì không có đủ thời gian để làm hết những điều mình mong muốn nên Hòa thượng ưu tiên hóa những đề án, những công việc phải làm.

Thị Nghĩa Trần Trung Đạo


Dù đứng từ góc cạnh nào, không ai có thể phủ nhận vai trò và sự đóng góp của Phật giáo vào dòng sống của dân tộc Việt. Đạo Phật là một tôn giáo rất đặc biệt trong nền văn minh nhân loại vì đáp ứng được các khao khát của con người theo từng thời đại không phân biệt màu da hay sắc tộc.

Kinh điển giống nhau nhưng đạo Phật mang sắc thái riêng khi đến mỗi quốc độ để từ đó có Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Thái Lan, Phật giáo Việt Nam v.v... Nhưng đạo Phật tại Việt Nam rất khác. Đạo Phật Việt Nam hòa tan trong tâm hồn mỗi con người. Tinh thần Phật giáo bàng bạc trong lời ru của mẹ, lời dạy bảo của cha. Một câu thơ, câu văn được các tác giả viết ra đã có tư tưởng Phật giáo dù tác giả không phải là một tín đồ Phật giáo.

Khi dừng chân tại Việt Nam, đạo Phật không chỉ đem lại cho con người những phương tiện cần thiết để đạt đến giải thoát, an lạc như tại nhiều nơi khác mà còn dung hóa và dung hợp một cách hài hòa vào dòng sống dân tộc, góp phần quan trọng trong việc xây dựng nền tảng văn hóa, đạo đức của dân tộc và là thành lũy tinh thần để bảo vệ Việt Nam.

Sau nhiều trăm năm bị đóng khung trong tứ thư ngũ kinh Nho giáo rồi Trịnh Nguyễn phân tranh, dân tộc Việt lại phải đối diện với Thực dân xâm lược. Ông bà chúng ta bàng hoàng trước sức mạnh cơ khí của Thực dân. Việt Nam trở thành một thuộc địa của Pháp nhưng tinh thần Việt Nam được hun đúc suốt nhiều ngàn năm không vì thế mà mất đi. Dòng văn hóa vẫn tiếp tục chảy dù phải chảy qua những vách đá cheo leo và có khi phải nhỏ từng giọt xuống trái tim người yêu nước.

Người Việt quan tâm đứng trước hai chọn lựa, (1) đi vay mượn các chủ thuyết ngoại lai, mượn súng đạn của ngoại bang về để “giải phóng dân tộc”, thực chất là thay một hình thức nô lệ này bằng hình thức nô lệ khác, (2) nâng cao nhận thức văn hóa, xã hội, chính trị phù hợp với hướng đi thời đại kết hợp với phát huy nội lực dân tộc để tự khai hóa chính mình thay vì “bị khai hóa” bởi thực dân.

Để tồn tại, vượt qua và vươn lên, chư tổ Phật giáo chọn con đường thứ hai. Con đường đó không phải tìm đâu khác, không vay mượn của ai khác mà trở về và phát huy những tố chất uyên nguyên của dân tộc. Nội dung của hành trình về nguồn đó chính là phong trào chấn hưng Phật giáo bắt đầu vào những năm cuối của thập niên 1920.

Giống như ngài Anagarika Dharmapala (1864-1933), nhà văn và nhà đấu tranh cho nền độc lập Tích Lan, các tổ Khánh Hòa, Giác Nguyên, Khánh Anh, Giác Tiên, Phước Huệ, Tố Liên, Trí Hải… của Việt Nam cũng đã rời những thiền phòng để chống gậy trúc đi vào lòng đất nước. Các ngài lắng nghe nỗi đau của dân tộc, đánh thức tinh thần yêu nước, độc lập tự chủ trong lòng mỗi người dân Việt để qua đó phục hưng dân tộc bằng phương tiện giáo dục bởi vì chỉ nâng cao nhận thức mới có thể chuyển hóa hai nguồn bạo lực đến từ Tây phương gồm chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa cộng sản.

Con đường chấn hưng Phật giáo như chư tổ vạch ra là một con đường dài, cần nhiều thời gian và đầy khó khăn nhưng là con đường đích thực.

Sau nhiều thăng trầm, gian khó và hy sinh, cuộc hành hương về nguồn cội đó đã dẫn đến sự ra đời của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) vào tháng Giêng, 1964 tại Chùa Xá Lợi, Sài Gòn. “Thống Nhất”, trong ý nghĩa đó không chỉ là một tập hợp mang tính hình thức của 11 giáo phái ký tên trong Hiến chương 1964 mà là bước phát triển cao hơn của một truyền thống đã có từ nhiều ngàn năm.

Được thành lập trong một giai đoạn lịch sử đầy ngộ nhận, GHPGVNTN dễ được hiểu như là kết quả của một biến cố chính trị. Biến cố có thể là “điểm vỡ” để GHPGVNTN được hình thành nhưng các giá trị hàm chứa trong Hiến chương 1964 của GHPGVNTN không đơn giản chỉ là kết quả của việc đổi thay một chế độ.

Từ đó đến nay, GHPGVNTN là nơi giữ gìn các giá trị tinh thần, các truyền thống văn hóa, lịch sử hai ngàn năm và sau này của Phật giáo Việt Nam. Dù bụi phủ, dù rêu phong căn nhà GHPGVNTN vẫn là căn nhà chính danh và chính thống của mọi người con Phật Việt Nam.

Lịch sử của GHPGVNTN từ khi ra đời tháng Giêng, 1964 cho tới khi Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ chính thức đảm nhiệm chức vụ Chánh Thư Ký kiêm Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống đã gần 60 năm với không biết bao nhiêu gian khó.

Đạo Phật tại Việt Nam không chỉ gồm một nhóm nhỏ những tu sĩ bị tha hóa mà chúng ta thường nghe hay thấy tại Việt Nam. Ẩn mình trong đám mây đen là ánh sáng của vầng dương trí tuệ và che giấu dưới lớp rêu xanh là những viên ngọc từ bi nhẫn nhục. Hàng ngàn, hàng vạn tăng sĩ Phật giáo đang âm thầm chuyên tâm tu tập chờ cơ hội đóng góp thiết thực cho đạo pháp và dân tộc. Các bậc Như Lai Trưởng Tử đó đang dâng hiến cuộc đời cho Phật giáo Việt Nam và Dân tộc Việt Nam trong nhiều cách khác nhau trên khắp ba miền đất nước. Họ có thể chưa nghe nhiều về GHPGVNTN hay chưa đứng hẳn về phía GHPGVNTN. Nhưng không sao. Tất cả vẫn còn đó. Một mai khi có điều kiện thuận lợi chư tôn đức tăng ni sẽ gặp nhau trong tinh thần hòa hợp và thanh tịnh tăng đoàn dưới một mái nhà GHPGVNTN.

Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN viên tịch ngày 22 tháng 2, 2020. Trong di chúc, ngài ủy thác quyền điều hành Viện Tăng Thống cho Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ: “đứng đầu vào vị trí của Viện Tăng Thống bảo đảm tiếp tục sứ mệnh của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong tương lai. Tôi hoàn toàn tin tưởng và ủy thác trọng trách này cũng như trao toàn quyền cho Hòa thượng Tuệ Sỹ điều hành mọi hoạt động của Giáo Hội.” (Quyết Định Số T4/QĐ/TT/VTT của Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN)

Tinh hoa và trí tuệ bộc phát trong những ngày tháng cuối đời giúp Đệ Ngũ Tăng Thống nhìn lại con đường giáo hội đã đi qua và thấy rõ hơn con đường trước mắt mà đạo Phật Việt Nam phải hướng tới. Ngài trao trọng trách cho Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ bởi vì, ngoài cơ sở pháp lý là Hiến chương GHPGVNTN và bên cạnh sự thông minh, uyên bác nhiều lãnh vực, Hòa thượng Tuệ Sỹ trước hết vẫn là con người văn hóa và có một tầm nhìn rất xa về tương lai Dân tộc và Phật giáo.

Là một bậc cao tăng dâng hiến cả cuộc đời cho Đạo pháp và Dân tộc, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ biết cuộc vận động chấn hưng Phật giáo từ thập niên 1920 chưa dừng lại mà là một tiến trình liên tục và phải bắt đầu ngay từ nền móng. Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Hòa thượng Tuệ Sỹ một cánh cửa mới sẽ mở ra để GHPGVNTN bước đi cùng thời đại.

Hòa thượng Tuệ Sỹ biết mình thân đang mang trọng bệnh. Khó khăn duy nhất mà ngài không thể vượt qua là thời gian. Vì không có đủ thời gian để làm hết những điều mình mong muốn nên Hòa thượng ưu tiên hóa những đề án, những công việc phải làm. Tất cả chỉ vì một mục đích như ngài viết trong Thông Bạch Thỉnh Cử Hội đồng Hoằng pháp: “mang ngọn đèn chánh pháp đến những nơi tăm tối, cho những ai có mắt để thấy, dựng dậy những gì đã sụp đổ, dựng đứng những gì đang nghiêng ngả.”

Nội dung Phật chất chứa đựng trong Hiến Chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (tu chính ngày 12.12.1973) hoàn toàn không thay đổi nhưng đưa đến cho mọi người ở mọi nơi bằng những phương tiện nhanh chóng chưa từng có nhờ kết quả của cuộc cách mạng tin học cuối thế kỷ 20.

Trong “thế giới phẳng” ngày nay, khoảng cách không gian và thời gian không còn là những trở ngại mà là những tiện nghi cần được tận dụng. Kết quả thấy rõ, chỉ trong vòng chưa tới hai năm Tạng Thanh Văn 29 cuốn trong Tam Tạng Kinh Điển đã được ấn hành và công bố. Kỳ diệu thay! Sau gần nửa thế kỷ ngưng trệ vì nhiều lý do nhưng những lời dạy của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni vẫn tiếp tục chảy vào dòng văn hóa Việt Nam và dòng văn minh nhân loại.

Hòa thượng Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống cũng biết việc mở cánh cửa, dựng lối vào cũng chỉ là phương tiện, đào tạo tăng tài để bước vào cánh cửa đó mới chính là mục tiêu quan trọng của GHPGVNTN hôm nay và mai sau. Một căn nhà đẹp bao nhiêu nhưng không được gìn giữ, sửa sang, một ngày cũng dột nát và sụp đổ. Truyền thống nếu không biết phát huy sẽ sớm trở thành một thói quen lạc hậu.

Sau thời gian bị bệnh Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Chánh Thư Ký kiêm Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống GHPGVNTN, Chủ Tịch Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời, Cố Vấn Hội Đồng Hoằng Pháp GHPGVNTN, đã viên tịch đúng 4 giờ chiều ngày 24 tháng 11 năm 2023 nhằm ngày 12 tháng 10 năm Quý Mão, Phật lịch 2567 tại Phương Trượng Đường Chùa Phật Ân, Long Thành, Đồng Nai, Việt Nam, trụ thế 79 năm, 41 hạ lạp.

Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, Đại Lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là ba bậc tôn đức khai sáng một thời đại mới của Phật giáo Việt Nam.

Dù dốc đá cheo leo, dòng Suối Từ vị diệu vẫn chảy dài theo lịch sử dân tộc. Mỗi thời kỳ đều có những bậc cao tăng thạc đức đứng ra chèo lái con thuyền đạo pháp. Công đức của các ngài sẽ không rơi vào quên lãng mà đã nở thành những bông Hoa Đàm làm đẹp con đường hoằng dương Chánh Pháp của đức Thế Tôn.

Nhiều người lo lắng, một mai khi các bậc cao tăng thạc đức của GHPGVNTN viên tịch, các thế hệ tăng sĩ và Phật tử sau này sẽ không biết gì về GHPGVNTN. Xin đừng bi quan. Lịch sử nhân loại đã chứng minh, bạo lực có thể thay đổi một thể chế nhưng không thể xóa đi một nền văn hóa và GHPGVNTN là một phần không thể thiếu của nền văn hóa Việt Nam.

Không một bậc cao tăng thạc đức nào thật sự ra đi. Hành trạng của quý ngài vẫn in dấu sâu đậm trong lòng Dân Tộc và Đạo Pháp. Tác phẩm của các ngài viết, những lời dặn dò của các ngài sẽ còn mãi mãi. Tiếng dương cầm vẫn réo rắt vọng theo dòng Suối Từ Bi. Đời người “như sương mai, như ánh chớp, mây chiều” như Hòa thượng viết trong thơ nhưng ngọn lửa tin yêu và hy vọng không bao giờ tắt cho đến khi nào dân tộc Việt Nam còn tồn tại trên mặt đất này.


Nguồn: VOA

Mạnh Kim: Tuệ Sỹ, buông tay nơi vách núi

 

Tuệ Sỹ, buông tay nơi vách núi

Không có ngôn từ nào đủ để miêu tả chính xác và đầy đủ về chân dung một người nhỏ thó về ngoại hình nhưng quá khổ về tầm vóc của Thầy Tuệ Sỹ. Thầy không chỉ là một nhà tu. Thầy là một nhân vật văn hóa vĩ đại với dấu ấn vĩ đại trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Thầy là nhà thơ, Thầy là nhà văn, Thầy là nhà nghiên cứu Phật học, Thầy là triết gia, Thầy là thiền sư, Thầy là giảng sư của nhiều thế hệ…
Thầy là một người rất Việt Nam, một con người phi thường, một nhân vật ngoại hạng. Tất cả những gì được tích lũy trong con người bình dị này đều do tự học. Thầy tự học tiếng Phạn, tự học chữ Hán, tự học dương cầm… Chỉ có một trí tuệ siêu việt khác thường mới có thể lãnh hội ít nhất 12 ngôn ngữ với trình độ thông thạo tuyệt luân…
Đạo Phật được truyền dạy qua Thầy là một môn Phật học cao thâm vượt quá khuôn khổ một tôn giáo với tín ngưỡng thờ phụng dân gian để trở thành một triết lý huyền diệu mà không bao giờ có thể thẩm thấu đến tận cùng nếu chỉ “tu” mà không có “học”.
Thầy Tuệ Sỹ đã cứu tôi, dù tôi không phải là đệ tử của Thầy. Những năm tháng nghèo khổ và hoàn toàn lạc lõng vô định những năm 1990, tôi đã đi tìm những cái phao triết học, đặc biệt Phật học, để dò dẫm bước tới. Và chỉ khi “gặp” được Thầy Tuệ Sỹ, cùng với những trí tuệ trác tuyệt ở thời của Thầy, trong đó có Phạm Công Thiện, Thích Minh Châu, Trí Hải…, tôi mới tự “trị liệu” được cho mình. Tôi vĩnh viễn biết ơn những vị thầy này, đặc biệt Thầy Tuệ Sỹ.
Một số nhân vật xuất hiện trên đời dường như để cho thấy họ vượt ra khỏi và hoàn toàn không bị bất kỳ quy luật thông thường nào có thể khiến họ khuất phục. Cuộc đời của Thầy Tuệ Sỹ không chỉ là tấm gương đồng bóng loáng sáng rực cho trí tuệ minh mẫn và sức làm việc cổ kim hiếm có mà còn là hình ảnh sừng sững đứng vững trước những trận phong ba kinh hồn, từ bản án tử hình đến những năm tháng tù tội.
Từ khi là giảng sư Phật học tại Đại học Vạn Hạnh khi chỉ hơn 20 tuổi, Thầy Tuệ Sỹ đã là một cây cổ thụ. Suốt hơn nửa thế kỷ, cây cổ thụ Tuệ Sỹ không ngừng tỏa bóng mát cho thế gian. Giờ đây cây cổ thụ đã trút hết lá. Thầy phẩy tay áo cà sa, thanh thản, mỉm cười. Nếu những năm tháng sống ở đời không khác gì việc níu vào vách núi để làm những gì phải làm cho chúng sinh, bây giờ Thầy nhẹ nhàng buông tay. Thầy, đứng dậy, đi về với Phật.
___________
PS: Nhân tiện, xin giới thiệu một trang web công phu lưu giữ nhiều bài viết giá trị về Thầy Tuệ Sỹ, tuesy.net. Anh Nguyễn Hoàng Thanh Tâm – một đệ tử của Thầy Tuệ Sỹ - đã mất năm năm trời để xây dựng trang web này.