Wednesday, April 1, 2020

Họa sĩ Đinh Trường Chinh: Hội Họa là Đời Sống

 
4.c.-Dinh-Truong
Về Phố Xưa - Tranh Đinh Trường Chinh 

Họa sĩ Đinh Trường Chinh thuộc thế hệ họa sĩ “trẻ,” trưởng thành và định hình trong nghệ thuật ở hải ngoại những năm gần đây. Anh vẽ dễ dàng, sáng tác mạnh, luôn tìm tòi ý thức mới trong hội họa, nhạy bén trước các vấn đề xã hội và nhân sinh. Ý thức hội họa là điểm mạnh trong tranh của anh, người xem luôn luôn cảm nhận một ý tưởng rốt ráo nào đó, dù hiện thực hay siêu hình mang tính triết học. Ngoài vẽ, anh còn làm thơ, và cũng như tranh, thơ anh thấm đẫm tính trữ tình, đầy ắp những băn khoăn với cuộc sống bên trong một tâm hồn thơ mẫn cảm. Độc giả Việt Báo đã biết đến họa sĩ Đinh Trường Chinh qua số báo xuân 2019, với những bức tranh minh họa trong suốt số báo Xuân. Hôm nay, Việt Báo hân hạnh gửi đến quý độc giả bốn phương một vài trao đổi với họa sĩ Đinh Trường Chinh để chúng ta biết thêm đôi điều về quan điểm cũng như phương pháp sáng tạo của tài năng này.

Việt Báo (VB): Được biết anh là con trai của họa sĩ Đinh Cường, một danh họa lẫy lừng suốt mấy chục năm qua của làng họa Việt Nam, người đã đóng góp rất nhiều cho kho tàng hội họa Việt Nam cho đến ngày tạ thế cách đây không lâu, nhưng vẫn xin hỏi anh tình huống nào đã thúc đẩy anh trở thành một họa sĩ?
 
DTC-Tu-Hoa
Đinh Trường Chinh - Tự họa
Đinh Trường Chinh (ĐTC): Thật ra tôi không phải là một họa sĩ chuyên nghiệp theo nghĩa có bằng cấp. Tôi chưa bao giờ tốt nghiệp trường mỹ thuật hay một ngành Fine Arts nào. Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ ngưng học vẽ. Có lẽ cái “vốn” lớn nhất tôi có là niềm đam mê dành cho hội họa – sự đam mê thật sự tôi không biết bắt đầu từ đâu. Chắc chắn là từ rất sớm. Tôi nhớ, từ hồi còn bé năm, sáu tuổi, Bố tôi đã “khoe” những hình vẽ nguệch ngoạc của tôi cho các bạn bè ông xem, có lẽ vì nó ngộ và có một gì đó không bình thường. Tôi nhớ Bố tôi có nói đâu đó: “Vẽ và hội họa giống nhau bởi cả hai đều dùng màu sắc, đường nét để ghi lại. Nhưng khác nhau ở chỗ vẽ là ghi lại bằng hình thức mô phỏng, bắt chước, những gì đã có sẵn theo các hình thức đã thành khuôn sáo… Còn hội họa là dùng phương tiện màu sắc để ghi lại những bóng dáng, hình ảnh, thể cách hoàn toàn mới mẻ theo dòng cảm xúc, suy tư và sáng tạo của mình.” Và, tôi đã lớn lên trong môi trường hội họa như thế. Chung quanh tôi lúc nào cũng hăng hắc mùi dầu xăng, màu, cả mùi thơm của những tấm bố mới. Tôi đã giúp Bố tôi pha màu, căng toile... và cũng đã bao lần cùng ông thức qua đêm, đã chứng kiến những bức tranh được hoàn chỉnh từ những tấm bố trắng toát. Sự quan sát dài hơi đó giúp tôi có một cái nhìn về hội họa từ bên trong, bên trong cả tâm hồn một người họa sĩ. Dần dần, tôi tiếp thu cái tư duy hội họa đó, thấm dần vào máu mình lúc nào không hay. Khi lớn lên, tôi có ghi danh học các lớp vẽ, kỹ thuật căn bản, bố cục, chân dung, anatomy, v.v… để giúp mình thêm kỹ thuật vẽ. Bố tôi thật sự chưa bao giờ dạy tôi trực tiếp nhưng ông là người thầy lớn nhất bởi ông đã truyền cảm hứng hội họa đến cho tôi. Tôi cho đó là điều quan trọng nhất để làm được cái mình muốn: niềm đam mê, trong một tâm hồn yêu nghệ thuật tự nhiên. Từ lúc nhỏ cho đến nay, tôi lúc nào cũng thích cầm bút, cầm cọ vẽ, lấm lem qua thời gian. Nếu có thời gian rảnh thì tôi thường chọn “vẽ tranh” như một ưu tiên thứ nhất. Nếu hôm nay tôi có được gọi là họa sĩ thì cũng vì thế – sự miệt mài và say mê làm việc của mình cho bộ môn nghệ thuật tạo hình này, dù chẳng đi đến đâu và chẳng mang đến cho ai niềm vui nào khác ngoài chính mình ra.
 
VB: Là con của một họa sĩ lớn, có lợi điểm gì? Và, ngược lại, có khó khăn, thách đố gì cho sự nghiệp hội họa của mình?
 
ĐTC: Lợi điểm là những điều tôi đã nêu trong câu trả lời trên. Tôi sống và lớn lên trong studio của Bố tôi, nơi ông đã miệt mài sáng tác chưa bao giờ ngưng nghỉ cho đến cuối đời. Ở đó, ngoài là “chứng nhân” cho các tác phẩm được thành hình của ông, tôi còn được “tham dự” (không chính thức) không biết bao nhiêu cuộc gặp gỡ giữa Bố tôi với bạn bè ông. Họ thường vẽ cho nhau trong các cuộc gặp gỡ như thế, bàn bạc những ý tưởng về hội họa, thi ca, âm nhạc..., những loại hình nghệ thuật bổ sung cho nhau . Vốn “kiến thức” đó, cộng thêm sự tò mò của tôi, như một vốn liếng vô tận đã cho tôi những nhận thức mà có khi bạn phải cần một khoảng thời gian dài để học hỏi và mày mò, cho dù là loại kiến thức “ngoài lề.”  Tôi đã rất “hands-on” khi lớn lên trong môi trường đó – “ngôi trường mỹ thuật” duy nhất mà tôi đã dự thính. Tôi vẽ một cách tự nhiên và tự do. Dĩ nhiên tôi không tránh khỏi lối vẽ của Bố tôi, vì đó là mỹ cảm đã ăn vào người tôi từ nhỏ. Nhưng với cá tính của mình, tôi biết tách ra khỏi bóng mát đó. Một điều quan trọng nữa là ý tưởng mình có trước khi tạo hình. Cái này thì không ai giống ai, và cũng không ai bắt chước được ai (trừ khi cố ý). Vẽ tranh là thể hiện những tâm tư nội tại lên không gian trước mặt. Với những ý tưởng riêng có được, thường trực đến, tôi thể hiện lên tranh với mong muốn tạo ra một sự riêng biệt cho con đường sáng tác của mình. Phần kỹ thuật thì có thể trau dồi thêm, mỗi ngày sẽ học hỏi được từ những cái “xấu,” “thô,” những đường nét bố cục vụng của chính mình vẽ ra, rồi cải thiện qua thời gian. Một khi mình quên đi được kỹ thuật, thả lỏng người khi sáng tác, thì lúc đó mình mới có sự “tự do” cần thiết cho sáng tạo. Thách đố lớn nhất là vượt qua chính mình, chứ không phải là vượt qua một người khác.

4.b.-Dinh-Truong
Phố Thinh Không

VB: Theo anh, hội họa miêu tả đời sống thực tại, hay đời sống thực tại trực tiếp ảnh hưởng lên hội họa? Nói cách khác, tương quan giữa đời sống và hội họa là gì?
 
ĐTC:  Vẽ tranh là bộ môn nghệ thuật tạo hình. Với tôi, hình ảnh được tạo ra chắc chắn là từ đời sống. Nếu không là một hiện vật, thì cũng là một thứ gì có thể chạm đến, ngay cả khi bạn vẽ lại một giấc mơ. Giấc mơ cũng chính là một phần của đời sống con người. Vì thế không thể tách rời sự tương quan giữa hội họa và đời sống. Tôi cũng nghĩ rằng hội họa giúp cho đời sống rất nhiều. Ngày xa xưa, hội họa ghi lại cuộc sống thay cho những kỹ thuật được phát minh sau này (ví như như chụp hình). Cho đến ngày nay, ngành hội họa giúp ích cho đời sống ở nhiều mặt khác nhau. Hội họa là một phần quan trọng của nền nghệ thuật nhân loại, và dĩ nhiên đời sống sẽ cực kỳ khô khan nếu không có nghệ thuật. Giống như khi bạn vào một building hay một văn phòng với bức tường hoàn toàn trắng toát. Hội họa còn giúp rất nhiều trong khả năng quan sát, thị giác, trí tưởng tượng... Đó là lý do tại sao hội họa được gợi ý để dạy cho các em nhỏ từ rất sớm. Để tăng khả năng quan sát, trí nhớ, tưởng tượng... ở đứa trẻ. Nói chung, sự tương tác giữa hội họa và đời sống đến như một lẽ tự nhiên. Người ta có thể vào galleries, museums xem tranh như đi xem phim, nghe nhạc. Hội họa đã góp mặt như một phần sinh hoạt không thể thiếu trong cuộc sống bình nhật.
 
VB: Câu hỏi này, có lần chúng tôi đặt ra với nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, hỏi về thơ. Nay cùng câu hỏi, nhưng thay thế thơ bằng hội họa, vì thơ và hội họa có nhiều cái tương đồng. Câu hỏi đó là: Thiếu thực phẩm, thiếu tự do, người ta có thể chết. Nhưng thiếu hội họa, không ai chết cả. Sự thật là phần nhiều người ta không quan tâm đến hội họa, không mấy ai bỏ cả chục ngàn đô-la mua tranh (hội họa) về treo trong nhà. Anh nghĩ sao về một đời sống không hội họa, không thơ ca?
 
ĐTC: Đối với riêng tôi thì hội họa là một phần rất lớn của đời sống tôi, nên chắc chắn nó cần thiết và giúp ích cho tôi. Khi nhà thơ Phùng Quán viết “... Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy,” tôi cảm được ngay – thơ ở đây không chỉ là giá trị tinh thần. Tôi cảm nhận được luôn cái giá trị “vật chất” của “câu thơ” Phùng Quán, “vịn” như một “cây gậy” để đỡ người mệt mỏi đứng dậy. Có những lúc tuyệt vọng, mệt mỏi thân xác, tôi chọn cách ngồi vẽ tranh hàng giờ; và những lúc ấy trong sâu thẳm tôi là một sự hòa bình, một sự tự do vô giá. Đời sống có cần hội họa không thì cái đó chỉ phụ thuộc vào từng cá nhân. Với riêng tôi, nó vô cùng cần thiết. Như tình yêu. Có những bức tranh làm tôi nhớ nhung và thường trực nghĩ về. Thực sự là thế. Có những bức vẽ bỏ dở từ đêm qua, khi đi làm về, tôi chạy ngay vào để nhìn ngắm chúng. Tôi nghĩ những bức tranh đó là những vật thể hoàn toàn cho tôi cảm giác thật. Vậy thì chắc chắn, hội họa tôi là một phần của đời sống tôi.  Không có hội họa, tôi sẽ không còn là tôi nữa – có nghĩa là tôi đã chết một phần nào rồi.

4.a-Dinh-Truong
Phố rán chiều

VB: Đâu là đường biên giữa hội họa và tranh ảnh lá cải, quảng cáo? Cái gì định nghĩa hội họa? Tại sao bức Benefits Supervisor Sleeping của họa sĩ Lucian Freud vẽ một người đàn bà xấu xí béo mập núng nính khỏa thân nằm ngủ trên sô-pha lại được xem là kiệt tác và bán ra với giá trên 33 triệu đô la?
 
ĐTC:  Tôi nghĩ bức tranh  Benefits Supervisor Sleeping của Freud được xem như một bức vẽ nổi tiếng (và đắt nhất một thời) vì những giá trị nó mang đến cho nghệ thuật tạo hình , theo ý tôi , có mấy điểm sau:
    – Kỹ thuật tuyệt đỉnh của nó . Freud đã đeo đuổi đến cùng cách vẽ tân (và siêu) hiện thực của ông, hiện thực trên từng thớ da, từng tế bào.  “Da” con người như một cảm hứng độc đáo mà ít ai có được. Freud vẽ sự nhục dục, xác thịt con người một cách “thực” nhất như cách ông nhìn.
    – Tác giả đánh đổ quan niệm “thiếu nữ đẹp” ước lệ thường thấy trong tranh thiếu nữ – nhất là từ các họa sĩ lãng mạn. Điều đó cần một sự bứt phá nội tâm không dễ có được, chỉ những cá tính mạnh, như Freud mới có được. Vượt ra khỏi một ước lệ trong nghệ thuật (và vượt thành công), định hình một phong cách không giống ai, đã là một giá trị to lớn.
    – Xác định cái mới trong nghệ thuật không có nghĩa là phải trừu tượng, cao xa, khó hiểu. Abstract không có nghĩa là mới hơn Figurative. Một nghệ sĩ có thể làm mới và trở thành “master” từ những cái tưởng đã cũ. Freud chỉ cần một người đàn bà quá khổ ngồi trên cái ghế đã diễn đạt được triết lý mà ông muốn đưa đến người xem. Đó là một bậc thầy vậy.
    Bức tranh xứng đáng về mặt chuyên môn lẫn triết lý, ý tưởng.
    Tôi nghĩ, trên căn bản, đó cũng là những yếu tố chính có thể nhìn thấy được giữa một tác phẩm đẹp, nghệ thuật và một bức tranh tầm thường, tạm gọi là “tranh chợ” hay “lá cải” mà có thể tóm gọn như sau:
    – Tranh cho thấy kỹ thuật vững vàng, bố cục chặt chẽ, màu sắc trong, sạch, ánh sáng...
    – Phải có ý tưởng riêng biệt và chuyển tải được ý tưởng đó một cách tài hoa, không giẫm phải lối mòn, không bắt chước, tạo ra một sự chuyển động nào đó lôi cuốn người xem, và phải bật ra một cảm xúc nào đó từ người vẽ. Tác phẩm đẹp phải là một tác phẩm duy nhất, không có cái thứ hai.
    Nội bao nhiêu đó thôi cũng đã là những yếu tố mà tranh hàng loạt, tranh chợ, tranh chép... không thể có được rồi.
    Còn hội họa ư? Cái đó thì tôi không có khả năng nói hết về nó. Đó là một thế giới mà vẫn tạo cho tôi sự ngạc nhiên thích thú hầu như mỗi lần tiếp cận với nó.
 
VB: Tranh của anh có thuộc về một trường phái nào không? Anh có xem trường phái là quan hệ đối với một họa sĩ không? Hay như bên thi ca, chính cái “riêng tư,” cái “phi quy chiếu” mới là những thuộc tính quan hệ đối với thơ Hiện đại và Hậu Hiện đại?
 
ĐTC: Tranh tôi không thuộc về một trường phái nào cả. Có lẽ đó cũng là một điều không hay: tôi chưa định hình hẳn hoi như một họa sĩ. Tôi sống và lớn lên trong mỹ học xưa cũ của hội họa Pháp và một chút của hội họa hiện đại Mỹ những thập niên 50, 60, cộng với một nền văn chương thụt lùi lãng mạn của Việt Nam. Tôi khó thoát ra khỏi mỹ cảm ấy. Nhưng, cũng có một điều khá mâu thuẫn là đôi khi không thuộc trường phái nào lại cho ta sự tự do của một đứa bé khi chạm đến môn nghệ thuật này.
    Ngày xưa, thường có nhiều trường phái, mỗi trường phái được khởi xướng bởi những người cha đẻ hoặc các họa sĩ thành công nhất trong trường phái của họ. Cũng có những trường hợp, trường phái lại giam họ đến một đời vẽ. Sau này, cũng có nhiều movements trong sự tiến hóa của nghệ thuật tạo hình. Những Mimimalism, Tachisme, Color Field, v.v... Tuy nhiên, những họa sĩ đương đại tôi yêu thích thường tạo nên “trường phái” của riêng họ. Một vài cái tên: Cy Twombly, Soulages, Tapies... Họ vẽ tự do và đẹp. Thể hiện nội tâm lên bố một cách tinh tế nhất. Tôi cho đó là cái quan trọng nhất chứ không phải đi theo trường phái. “Trường phái” của họ chính là hội họa, tác phẩm của họ. Bạn sẽ thành một “master” khi loại bỏ được trường phái và kỹ thuật trong đầu khi thực hiện tác phẩm. Mọi thứ sẽ tự nhiên trôi theo đầu ngón tay, đầu cọ với những chất liệu của màu sắc và ánh sáng.
    Nói cho cùng vẽ tranh đối với tôi là một công việc tự do, hay một việc làm để thể hiện sự tự do. Hình thức, trường phái do con người đặt ra, và dĩ nhiên, cần thiết. Nhưng tôi không chủ trương vẽ theo một trường phái nào cả. Tôi tự nhận thấy tranh mình rất cũ kỹ so với trào lưu mỹ thuật thế giới, nhưng khi đặt ý tưởng lên tranh, tôi không muốn gượng làm những gì không phải là mình. Miễn sao tôi cảm thấy có đủ tự do để làm cái mình thích là tôi thỏa mãn.

4.d.-Dinh-Truong
Ý Nghĩ Mùa Đông

VB: Anh vẽ khá dễ dàng, xin hỏi cảm hứng sáng tác anh lấy từ đâu? Thao thức, trăn trở nội tại hay cảnh huống ngoại tại, trong đó những động thái xã hội là động cơ chính?
 
ĐTC: Cảm hứng sáng tác là cái khó có thể nói hay dự tính trước. Nó thường ập đến bất ngờ và tự dưng cho mình một thôi thúc phải ghi lại ngay, lên tranh, lên những “media” có trước mặt. Những “cảnh huống ngoại tại” thường đi song song với “trăn trở nội tại.”  Vẽ tranh với tôi thường là công việc bùng phát từ bên trong. Cái đầu mình dường như điều khiển những ngón tay cầm cọ, chấm màu, pha xăng, vấy tạt lên tấm bố... Đó là những động tác đến rất tự nhiên như có một sự điều khiển vô hình, vô thức nào đó từ bên trong con người mình.  Cũng có những cảm hứng thường đến từ sự liên hệ với ký ức mình. Những hình ảnh bên ngoài cuộc sống, nếu gợi nhớ từ một ký ức nào đó , thường dễ lay động và trở thành cảm hứng cho người sáng tác. Nói chung, mọi thứ đều rất trừu tượng và khó có một sự giải thích rõ ràng nào cho câu hỏi “Cảm hứng đến từ đâu?” Đó cũng là sự quyến rũ cho người làm nghệ thuật. Có những lúc, bạn bắt đầu vẽ những nét đầu tiên, rồi sau đó cứ theo sự dẫn dắt của màu sắc, bố cục, và bạn sẽ khám phá thêm trong quá trình hình thành bức vẽ. Có những ý tưởng, cảm hứng bật ra bất ngờ, liên kết với nhau, xọ câu chuyện này đến câu chuyện kia... trong một bức tranh. Có khi không cần một cái gì to tát, ví dụ như chỉ từ một lời hát thôi, tôi cũng có thể vẽ nó thành một bức tranh. Ngoài ra, tôi cũng vẽ nhiều tranh xã hội, những hiện thực cuộc sống, những trăn trở hàng ngày...
    Tôi thích sáng tác, phá ra ngoài những đường viền, khung bố cục, kích thước đúng thật ngoài đời. Miễn sao tranh chuyển tải được điều mình muốn nói. Không bắt ép mình. Vẽ một cách tự do. Đôi khi, bạn cũng không kiểm soát được một khi đã đi sâu vào bức tranh. Rất nhiều lúc, màu sắc gợi đưa bạn đến một điểm đến khác với những gì mình nghĩ ban đầu. Nên cứ vẽ, không gò bó, không tính toán nhiều... Vẽ, để đó, ngắm đi ngắm lại, hoặc cất ủ thật lâu. Một hôm nào đem ra xem lại. Có khi còn thích, có khi xóa đi. Và như thế, chuyện vẽ tranh thật quyến rũ, thú vị.
 
VB: Theo anh, làm họa sĩ có phải hy sinh đời sống bình thường như người ta vẫn nghĩ không? Làm thế nào để cân bằng nội tâm với cuộc sống đời thường mà vẫn cho ra đời những tác phẩm nghệ thuật sáng giá?
 
ĐTC: Nói hy sinh thì hơi to tát nhưng chắc chắn là có một sự đánh đổi không nhỏ. Người làm nghệ thuật nếu được tự do từ những hệ luỵ thì rất lý tưởng để “tự do” trong sáng tác. Đời sống là một sự thỏa hiệp. Bạn phải đánh đổi nhiều thứ để có một phần đời sống nghệ thuật, thứ đời sống mang lại oxygen tinh thần cho bạn. Tôi vừa đọc đâu đó, một tiểu thuyết gia nổi tiếng của Pháp, Romain Gary, “được” người con trai mô tả: “… according to Diego Gary, he (Romain Gary) was a distant presence as a father: Even when he was around, my father wasn’t there. Obsessed with his work, he used to greet me, but he was elsewhere.” (https://en.m.wikipedia.org/wiki/Romain_Gary). Cũng có những họa sĩ như vậy. Họ sống trọn vẹn trong thế giới bay bổng của sắc màu nhưng không làm tròn những nhiệm vụ, tạm gọi là bình thường, khác của đời sống, thứ đời sống vật chất. Tôi xác định là khó, rất khó, cân bằng đời sống nội tâm để làm “vừa lòng” những bộ mặt khác nhau của đời sống.
    Với tôi, tôi trân trọng những tác phẩm đẹp được “tạo hình” bởi những nhà tạo hình giỏi, cho dù họ không biết cách sống “giỏi.” Tôi chỉ nhìn họ trong phạm trù của họ. Tôi không nghĩ bạn có thể cho ra đời những tác phẩm lớn nếu bạn cứ mãi loay hoay với đời sống thường nhật, những hệ lụy muôn đời. Bạn cần phải vượt ra khỏi cái nhà tù đó để được tự do. Và có tự do thì mới có tác phẩm lớn.
 
VB: Xin cảm ơn họa sĩ Đinh Trường Chinh đã chia sẻ cùng độc giả Việt Báo những điều thật hữu ích và thú vị về hội họa và nhiều khía cạnh khác của cuộc sống.

Nguồn: Việt Báo

Tuesday, March 31, 2020

BUỔI CHIỀU QUA CẦU NGÂN SƠN NHỚ VÕ HỒNG

BUỔI CHIỀU QUA CẦU NGÂN SƠN
NHỚ VÕ HỒNG 
Kỷ niệm bảy năm ngày nhà văn Võ Hồng mất
(31/03/2013 - 31/03/2020)


Nhà văn Võ Hồng (Ảnh: TTD)
Cách đây mấy năm, trên một chuyến xe đò muộn về thăm quê. Khi xe đi ngang qua cầu Ngân Sơn, thì lúc ấy đã 5 hay 6 giờ chiều. Dù đã nhiều lần đi qua đây, nhưng có lẽ buổi chiều cuối xuân năm ấy, là buổi chiều mà tôi đã nghĩ nhiều nhất về Võ Hồng.
Tôi tưởng tượng rằng, hồi còn nhỏ chắc mỗi chiều ông vẫn thường ra đứng ở nơi này, để nhìn ráng đỏ nơi rặng núi phía Tây kia? Rồi nhìn bóng chiều xuống chậm trên dòng sông này? Chắc phải vậy! Vì trong tác phẩm của Võ Hồng thì cái đẹp của thiên nhiên và cái đẹp của đất trời, tôi cho là những cái đẹp mà Võ Hồng đã viết hay nhất. Nhưng trong cái đẹp đó, Võ Hồng luôn luôn đưa vào thiên nhiên một chút sầu, hay ngậm ngùi cho một cái gì đó đã hay đang sắp mất đi trên cuộc đời này. Tại ông bi quan chăng? Hay tại vì cái đẹp mong manh của những buổi chiều tà trên dòng sông tuổi thơ dạo nào cứ ám ảnh ông mãi.
Nhưng chính nhờ có được kinh nghiệm nội tâm ấy, mà thiên nhiên với Võ Hồng không phải chỉ để thưởng ngoạn thôi, mà ông còn cho ta thấy một giá trị nữa, quan trọng hơn. Đó chính là, thiên nhiên cũng rất cần cho ta như một người bạn thân thiết vậy, vì cái đẹp của thiên nhiên có thể làm cho ta vơi bớt đi những đau khổ mà chắc rằng không nhiều thì ít, mỗi người trong chúng ta đang âm thầm gánh chịu. Trong truyện ngắn Hãy Đến Chậm Hơn Nữa, Võ Hồng đã viết: “… Anh đã hưởng được gì ở cuộc đời? Nghe một tiếng chim tu hú vào đầu mùa hè, ngửi một mùi thơm của hoa mù-u trong buổi chiều, nhìn những con chuồn chuồn đảo lộn trên nền trời sau cơn mưa. Những niềm vui ấy quá nhỏ so với nỗi khổ đang đè nặng của anh…”
Dường như khi về già, sống cô độc giữa phố phường ồn ào và đầy bụi bặm, thì tiếng con chim tu hú lạ lùng ở vùng quê Ngân Sơn đã quá xa xôi đó, lại sống dậy một cách mãnh liệt trong ông:
Ðâu phải chỉ người mới không sai hẹn
Cuối tháng giêng, tu hú gọi vang trời.
Hai câu đó trích từ tập Hồn Nhiên Tuổi Ngọc, tập thơ mới nhất mà Võ Hồng đã viết cho tuổi thơ. Trong tập thơ này, ta thấy Võ Hồng muốn trao đến cho tuổi thơ một điều rất giản dị: điều giản dị đó là, hãy bắt đầu quan sát rồi rung động trước mọi vẻ đẹp mà tuổi thơ đã có dịp nhìn thấy hàng ngày. Chẳng hạn có thể là một gốc khế già đứng khiêm tốn trong khu vườn, một cây bàng hiu quạnh bên vệ đường, hay niềm vui chứa chan khi cơn mưa đầu mùa chợt đến.
Chính những sự vật mà tuổi thơ đã từng rung động đầu tiên này sẽ rất cần thiết. Vì từ đó, tâm hồn chúng ta mới có thể giao cảm được với cái đẹp của thiên nhiên và của đất trời. Ta có thể kết luận mà không sợ sai rằng, tình người, tình nhân loại hay bất cứ thứ tình cao cả nào khác, cũng phải được khởi đầu bằng những rung động đơn sơ ấy.
Một đám mây trắng bay cô độc trong buổi chiều tà, sẽ chẳng có nghĩa gì cả đối với một người đang náo nức đợi giờ đến nhà hàng. Nhưng chắc rằng, nếu một người biết rung động trước cái đẹp của thiên nhiên và đất trời, thì khi nhìn đám mây trắng họ sẽ chạnh lòng nghĩ đến biết bao sự đau khổ của con người: những kẻ bơ vơ không nhà không cửa, rồi sẽ không có một nơi nào để trở về khi đêm tối đang đến:
Chiều ngồi tựa cửa
Nhìn áng mây xa,
Về đâu lát nữa
Hỡi mây không nhà?
(Hồn nhiên tuổi ngọc)
Phải chăng đây cũng là những gì mà Võ Hồng đã từng muốn thể hiện trong các tác phẩm của ông?

II
Những ngày tôi bắt đầu bước chân vào trung học. Dạo đó, dường như tôi đang theo học lớp đệ ngũ hay đệ tứ thì phải. Hình bóng Võ Hồng đã trở thành thân yêu nhất trong đời sống tôi. Thân yêu nhất không phải vì ông là một ông Giáo sư dạy hay hay dạy giỏi, mà chính là nhân cách và tâm hồn phiêu bồng của ông. Có lẽ hồi ấy, tôi cũng chưa biết gì về tác phẩm của ông – tôi chỉ thấy ông mang một phong độ khác hẳn với những giáo sư khác, ở những giáo sư khác tôi thấy có gì quá tầm thường và quá an phận (có lẽ với tuổi hồi ấy, tôi đã đòi hỏi quá nhiều, đòi hỏi những gì mà chính vị đó không thể có được). Riêng Võ Hồng, người đã mang đến cho tuổi thơ tôi những xao xuyến, hoài nghi, những chất vấn về thân phận phù ảo của kiếp người – và cũng từ đó ông đã gợi cho tôi thấy một chút mộng mơ nào đó của đất trời. Hình như Gandhi đã nói đâu đó rằng, những gì mà tuổi thơ ta đã sống, thì những điều đó sẽ điều động ta suốt một đời. Tuổi thơ ngồi trong lớp học, vào những giờ của Võ Hồng, tôi thấy ông thường bâng quơ nhìn qua khung cửa sổ. Ngôi trường cạnh bên dãy núi, có những ngôi tháp cổ, cây phượng trước sân trường. Sau này khi có dịp đọc văn Võ Hồng, tôi thấy ông viết đúng như tôi đã thấy vào cái thời thơ ngây ấy “mấy ngôi cổ tháp đứng ở sân sau trường lặng lẽ suy tư. Những cây sao thân cao mọc ở ven chân núi thong thả để rơi từng cánh hoa màu trắng xuống những bụi gai thấp. Nơi này thỉnh thoảng ngồi trong lớp nhìn qua cửa sổ tôi thấy một con sóc chuyền cành”. Tôi đã nhìn thấy và đã xúc động Võ Hồng từ những điều vu vơ trên. Có những buổi chiều tan trường, tôi thấy ông thường lửng thửng bước ra khỏi sân trường sau cùng. Gương mặt của ông lúc đó trông buồn buồn. Sau khi những bước chân, những tà áo cuối cùng đã vắng bóng. Vào những khi như vậy, tôi thường có dịp đứng nghe ông nói chuyện. Ông nói đến nỗi buồn của cuộc sống, nỗi cô độc của kiếp người cùng những ly tan của cuộc sống. Có thể nói đó là những nỗi ám ảnh lớn trong toàn thể cuộc sống của Võ Hồng. Sống và khổ đó là những gì quá tầm thường và quá quen thuộc. Những gì của thực tại muôn đời và thực tế muôn nơi, xảy ra ở khắp mọi chân trời. Nhưng dường như, bất cứ lúc nào chúng ta nghe nói đến tiếng Khổ, thì nỗi xúc động trong ta sẵn sàng bừng dậy. Bởi vì càng lớn lên, ta thấy kiếp người càng buồn và vô nghĩa thêm ra.
Vào khoảng năm 1960-1962 khi anh Phạm Công Thiện còn ở Nha Trang, anh đang tu chùa Hải Đức. Tôi nhớ, vào một buổi chiều mưa, anh trở về chùa một mình, anh có đọc cho tôi nghe hai câu thơ:
Mưa chiều thứ Bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông.
Tôi được anh cho biết, là anh đã làm hai câu thơ trên từ nhà Võ Hồng trên đường trở về chùa. Sau đó, nếu tôi không lầm, thì hình như Võ Hồng cũng viết một câu truyện ngắn Hoa khế lưng đồi bắt nguồn từ cảm hứng hai câu thơ trên của anh Phạm Công Thiện, cũng cây khế trỗ bông ấy và ngọn đồi ấy “những cây khế ở lưng đồi trổ hoa tím, những chùm hoa hình khối lục lăng mường tượng những ngôi cổ tháp”. Vào khoảng thời gian ấy, tôi thấy mỗi chiều Võ Hồng thường lên chùa thăm anh Phạm Công Thiện. Hai người thường ngồi nói chuyện với nhau trong một vùng cây rậm nhìn xuống chân đồi. Tôi không biết hai người nói với nhau những gì. Nhưng thôi cần gì phải biết, tôi cứ tưởng tượng theo những nhân vậtcủa Võ Hồng như thế này một người từ phố lên mang cả cái mệt mỏi và hiu quạnh của đời sống tẻ nhạt với “nhiều uẩn ức, nhiều bức thúc, nhiều dày vò. Thân phận con người quằn quại trong những đau khổ muôn hình”. Còn một người đang ở trên núi, thì sẽ đem hết cái tịch liêu, những hoài vọng triền miên của tuổi trẻ mình để nói chuyện với nhau. Và rồi, đến một lúc thì thế nào anh Phạm Công Thiện cũng sẽ như một nhân vật nào đó của Võ Hồng “nhẹ nhàng kéo tôi vào một nẻo suy tư nào đó với anh, về một chân lý, một tư tưởng triết học. Lịch sử Ấn Ðộ dày quá khứ và quá khứ đó dày tư tưởng”.
Tôi có thể tưởng tượng như trên, để viết lại một ít hoài niệm mà tôi đã biết về Võ Hồng vào khoảng thời gian xa xôi ấy.
Ðứng trước chiến tranh, Võ Hồng cũng như tất cả những người cầm bút khác, đều nói lên lòng đau đớn của mình. Nhưng Võ Hồng thì khác, ông thâm trầm hơn, ông đưa chúng ta đến một trầm tư thê thảm, trước thân phận đau buồn của quê hương “…chòi canh cao bay phất phơ lá cờ. Một người lính ngồi ôm súng nhìn không gian chập chùng đồi núi. Lô cốt. Trại lính. Người dân không có thì giờ nghỉ ngơi. Hai mươi năm đủ để tạo một thế hệ. Người lính đang ngồi trên chòi canh đó, có thể là con của người lính mà tôi đã gặp hai mươi năm trước. Các thế hệ nối tiếp nhau đã truyền cho nhau tiếng nói và cây súng. Nước chảy dưới cầu. Những đồi cát nằm giữa dòng sông”. Những giòng lặng lẽ trên đang bay lất phất trong những làng mạc, những đồi núi chập chùng của quê hương. Một buổi chiều mùa đông âm u nào đó, trong một chuyến xe đò băng ngang qua những vùng âm u của quê hương, rồi nhìn những người trẻ tuổi đang cầm súng đứng trong mưa, thì những giòng trên mới thấm vào trái tim buốt giá của ta. Có phải bóng đêm đang vồ chụp xuống trên những mái đầu xanh của những đứa con tại Việt Nam?
Tôi đọc văn thường không để ý lắm đến cách hành văn hay bố cục (có lẽ tôi không biết gì nhiều hơn tác giả). Tôi chỉ đọc những gì trong đó thấy có bóng dáng của mình. Như bây giờ đang là buổi xế trưa, những buổi trưa thức dậy nghe bỗng xiêu đổ lạ thường. Ánh nắng vàng vọt của buổi chiều qua cửa sổ. Một người con gái vừa ra đi để rồi không bao giờ gặp lại. Tất cả chỉ còn lại một cái gì thật mơ hồ, thật xa xôi. Giọng hát từ đâu vọng lại, ta không cần biết nó hay, nó dở thế nào. Nhưng chiều nay, nghe tiếng hát đó, bỗng nghe ta trong ngậm ngùi của nỗi đời ly biệt “nhưng chiều nay giọng hát trầm trầm và sai giọng ấy, mỗi lần nghe đến là Doãn tưởng rằng như mình đang dự vào buổi chiều cuối cùng của trái đất khi nhân loại bị phóng xạ nguyên tử đang cầu kinh”… Tôi đã đọc câu chuyện Vết Hằng năm tháng vào một buổi xế trưa. Những nét mặt quen thuộc của thuở ấu thơ, những nét mặt xa lạ, những cái bắt tay, những buổi họp vừa tan, chỉ còn lại bàn ghế trơ vơ. Ngày đi, tháng đi và năm đi. Những tà áo hồng cũng đã xa dần, xa dần… đó là gì? Ðó là vết hằn của tháng năm. Trong đời sống hằng ngày, tôi đã nghe và cảm thấy như thế, nhưng tôi chưa có dịp nói được. Khi đọc Võ Hồng, tôi thấy ông đang nói thay mình. Tôi đọc và buồn đến nghẹn thở. Tôi cũng tưởng như mình đang sống trong những ngày cuối cùng của trái đất.
Tác phẩm của Võ Hồng, ta có thể ví như những tấm gương. Trong đó phản chiếu những tâm tư của một đời người, nhất là trong hoàn cảnh đau buồn của Việt Nam hiện nay. Sống và phản ứng lại cuộc sống-đó là tất cả những gì ta bắt gặp nơi Võ Hồng. Những hy vọng, tuyệt vọng, đau khổ, hạnh phúc, những bất lực của thân phận con người. Một chút xanh mộng nào đó mà ta đang hoài vọng. Vào một đêm mưa, một người con gái đến gõ cửa, nàng kể cho ta nghe một mối tình câm lặng, người yêu của nàng vừa nằm xuống vĩnh viễn – đang khi đó, ngoài trời những cơn gió đầu mùa thổi đến làm lạnh lòng người. và làm rụng những lá me bên kia đường. Ta chợt nghe một chút nồng ấm của cuộc đời, một đốm lửa vừa nhóm lên trong đêm mưa lạnh. Cho dù ta vẫn biết cuộc đời vốn là ảo mộng “từng cơn gió lạnh lùa vào phòng. Nước trên tàn cây me rơi lộp độp xuống mặt đất từng hồi mỗi khi có cơn gió lạnh ào tới. Liên giã từ tôi, và tôi lẳng lặng đưa nàng xuống sân”.
Tôi lẩm nhẩm suy nghĩ: Hãy an nghỉ, Adul Rahim. Hãy ngủ yên giấc ngủ vĩnh cửu của anh. Cái thân tứ đại vốn là giả họp. Anh đã có lần nói với tôi như vậy và chắc là anh không tiếc. Liên nó đang nghĩ đến anh và nó đang yêu anh đó. lúc sống, anh không dám hỏi và chắc là nó cũng không trả lời. Nhưng hôm nay anh không còn nữa và do đó nó đang lặng lẽ yêu anh”.
Và sống là gì? Có phải vẫn luôn luôn là hoài niệm? The mission of man on earth is to remember. Sứ mạng của con người trên mặt đất này là hoài niệm. Henry Miller đã nói như thế. Mỗi khi ta bắt đầu hoài niệm thì mọi sự đều tiêu tan hết. Ta không biết đố ky, không còn hận thù, lòng thương yêu sẽ bắt đầu ngự trị. Bởi vì khi ấy ta sẽ nhận ra sự phù ảo của kiếp người trên trần gian này. Mọi sự rồi sẽ đi qua, ta bỗng muốn ghì ôm trong tay những mong manh phù ảo ấy, bao nhiêu là kỷ niệm thương yêu thuở nào chợt bay về trong trí nhớ: những người tình, những con đường ta đã đi qua, bây giờ “tâm hồn tôi chợt thấy âm u. Con đường kỷ niệm. Những thôn xóm yên lặng nằm hai bên đường như chưa bao giờ biết đến sự thay đổi. Mái nhà xám đen và vách đất cũng xám đen”.
Chuyện Trở về, Võ Hồng đã đưa ta vào những hoài niệm mênh mông của tháng ngày quá khứ ấy. Ai đã từng sống mà không có quá khứ. Cho dù quá khứ có thể im lìm hay xót xa đi nữa. Nhưng tất cả, tất cả sẽ làm ta ngậm ngùi. Thời gian vẫn là nỗi ám ảnh đen tối nhất của con người. Chúng ta sống bằng những khoảng thời gian. Sự sống được đánh dấu bằng những lần thay đổi, một nơi chốn mà ta vừa ra đi, bỏ lại những thành phố, những con đường, một người tình đã mất. Có nghĩa gì với khoảng đời trong năm hay mười năm là khoảng thời gian đủ để biến một đời nguời. “Từ ngày Bảo mất đi, tôi không muốn trở lại thành phố này. Những con đường, những đồi thông sẽ nhắc đến những ngày cũ”. Ðó là chuyến trở về của một người, về để làm gì? Trở về dể hoài niệm. Hoài niệm những tháng ngày quá khứ ấy. Những ngày mà người tình chưa mất. Sự trở về như thế, thật là êm đềm nhưng cũng thật là xót xa “bao nhiêu năm tháng đã trôi qua. Tôi muốn tìm lại một cái gương để soi bóng mình. Tôi muốn nhìn lại bóng dáng mình bước những bước cô đơn trên con đườnh heo hút này”…
Tôi liên tưởng đến chuyến trở về của Jérôme trong La porte étroite của André Gide. Trong phần cuối của cuốn truyện. Khi Alissa đã mất. Mười năm sau, Jérôme trở về thành phố Prevence, nơi em Alissa tức là Juliette đang sống với chồng con ở đấy. Jérôme trở về đến nơi khi (bóng chiều dâng lên bàng bạc, mọi vật trong phòng mờ dần, và trong bóng đêm như đương cùng nhau sống dậy và ngậm ngùi kể lại chuyện xưa. Tôi mơ màng thấy lại gian phòng Alissa”… (Khung cửa hẹp, bản dịch của Vân Mồng tr 182).
Thời gian với bao nhiêu là thay đổi, bao nhiêu bể dâu đã xảy ra và con người chợt nhìn lại mình, thấy mình đã già đi, nắng đã xế… và rồi thời gian đưa đến cái chết. Cái chết là đìều khủng khiếp nhất của kiếp người. Hình như trong đời sống thường nhật, ta đi lui đi tới, ngược xuôi lên xuống, tranh chấp mà quên đi cái chết, quên đi không nghĩ đến hay ta cố làm ngơ. Ta không dám đối mặt thẳng với nó.
Nhưng cuối cùng nó vẫn đến, nó đến sừng sững trước mặt ta. Nếu mỗi phút giây trong đời sống thường nhật, ta thường nghĩ đến cái chết, sống với cái chết, ăn ngủ với cái chết, thì chắc chắn mọi sự sẽ không tan hoang như ngày hôm nay. Bởi vì nghĩ đến cái chết, ta sẽ biết thương yêu nhau, thương yêu mọi thảm hoạ, mọi bi kịch trên trần gian này, ngay đến những gương mặt thù hận cũng sẽ không còn nữa. Ta thù hận. Bởi nhiều khi ta cứ ngỡ ta sống đời đời (làm như cuộc đời người dài hằng sáu trăm, bảy trăm lần khoảng thời gian đó”. Tất cả đều là cuộc chơi trong ván bài của sanh tử. Ðứng trước cái chết ta thấy gì “đứng trước cái chết, lòng tự ái không có tiếng nói nữa. Ðối với người giã từ cuộc sống để ra đi mãi mãi, giả từ hết mọi ghét thương, âu lo mừng giận, anh thấy lòng thương tràn đầy”. Mọi sự đều phải dừng trước cái chết, mọi tranh đấu khác đều không quan trọng, chỉ có một điều quan trọng duy nhất, đó là cuộc tranh đấu với cái chết. tranh đấu với cái chết là lúc ta lên đường đi đến sự thất bại lớn lao của cuộc đời “Phú thất bại trong cuộc tranh đấu lớn, cuộc tranh đấu cuối cùng, tranh đấu với cái chết”.
Truyện Dấu chân sa mạc trong Con suối mùa xuân. Võ Hồng ghi lại đời của một người đàn bà. Cô Ba. Người đàn bà ấy đã sống bằng tất cả hung hăng của cuộc đời mình chê bai, thù ghét, gieo rắc bực dọc, hành hạ người khác và tự hành hạ chính mình. Giàu sang nhưng bỏn sẻn. Nhưng vào những ngày cuối đời, khi da đã nhăn, tóc trên đầu đã bạc, thì mọi sự đi đến một cách tang thương, canh bạc đã kết thúc” Tôi thương xót cho cô Ba đang đóng vai người bại trận đó, bơ vơ lạc lõng hơn bất cứ người bại trận nào khác, bởi lẽ cô sống cô đơn. Không có ai để thở than sau đó. Không có ai để bàn tính cân nhắc trước đó. Trước mặt, sau lưng, bên phải,bên trái đều là sa mạc.”. Con người hung hăng ấy rồi ra cũng phải bại trận. Cuối cùng tìm về một ngôi chùa -điều mà khi còn xuân cô ầm ĩ chê bai- về đó, như một con gấu đã hết khí lực “như thế, cô bước đi giữa cuộc đời còn sót lại, lạc lõng mơ hồ như người đi trong giấc mộng. Tất cả đều chập chờn hư ảo. Chặng cuối cùng của người lực sĩ yếu sức”.
Con gấu ấy trở về để làm gì? “con gấu mò về cửa tam quan, cúi nhìn xuống thân phận mình và gối đầu lên cái chết”. Ðó là một trong những câu văn đã gây xúc động lớn cho tôi. ta sinh ra ở đời, sống với nhau, để rồi một ngày nào đó, sẽ cùng nhau rời bỏ trần gian hiu quạnh này.
Phải có một tấm lòng thật bao la tràn đầy tình thương thì mới viết được những câu chuyện như vậy. Ở đây, ta nên lưu ý đến một điều là, tình thương đối với Võ Hồng (cũng như những nghệ sĩ nhân bản khác) không phải xuất phát từ những luân lý. Vì một tình thương như vậy chỉ là hậu quả của tập quán xã hội. Tình thương ở đây vượt lên trên tất cả, nó nảy nở một cách tự nhiên từ trong trái tim của ta. Tự nhiên, đó là điều khó khăn nhất mà ta phải đạt đến. Nói như Khrishnamurti (tình yêu tự hiến dâng tràn đầy tựa như đóa hoa hiến dâng hương thơm).
Võ Hồng quê ở Phú Yên, xứ sở của núi non trùng điệp. Quê hương của những ngưới nông dân điền dã. Quanh năm lận đận với những mảnh khoai trên rừng, những thửa ruộng ngoài đồng. Bầu bạn với cây cuốc, cái cày. Lam lũ và cực nhọc vô cùng, nhưng đời sống vẫn bao hàm trong cái thơ mộng nguyên thủy của đồng quê. Chỉ có những ai đã sinh ra và lớn lên ở những nơi khô cằn miền Trung thì mới thấy được cái thơ mộng này: “ở đây tất cả đều trầm mặc, trang nghiêm. Rừng già màu xanh tối, đứng bao vây những sườn núi an phận. Rẫy lúa, rẫy bắp, đất thổ trồng đậu xanh đậu phụng. Con trâu, con bò. Suối nước chảy qua khe đá, con chim hót trên cành. Và linh hồn của cả cái cảnh hoang sơ này là sự yên lặng rộng lớn bao trùm từ khoảng cao đến miền xa”…
Có lẽ từ một quê hương như thế, Võ Hồng mới đủ chất liệu để viết những câu chuyện về quê hương một cách đặc sắc. Như truyện Tình yêu đất chẳng hạn. Ðọc Tình yêu đất ta thấy lại cái gì chất phác, điền dã của nông dân Việt Nam. Ðó vẫn là đìều khó khăn đối với những con người thành phố hôm nay, xung quanh chỉ thấy những tòa nhà đồ sộ những công viên, những quán cà phê đèn xanh đèn đỏ, mà quên đi đời sống kia. Ta có thể quả quyết rằng, đời sống nông dân Việt Nam đúng nghĩa, là đời sống vô cùng thơ mộng.
Còn gì thơ mộng hơn khi cuốc đất mà vẫn nghe được tiếng chim sơn ca rung rinh trên tầng cao, suối chảy róc rách quanh vườn. Lảo Túc trong Tình yêu đất đã tóm thâu tất cả những thơ mộng ấy. Mọi sự đều phản bội Lão, đứa con duy nhất cũng bỏ Lão mà đi, người vợ thì luôn luôn hiếp đáp Lão. Lão còn lại chỉ có mảnh đất. Lão sống với mảnh đất đó, bởi vậy “Lão thương đất như thương con, như thương chính da thịt mình”. Suốt đời lão chỉ còn có mảnh đất, bởi đất không gian dối như lòng người “đất không phản bội người, chỉ có người mới phản bội đất. Người giậm chân nguyền rủa rồi bỏ đi. Ðất vẫn ở lại; nhẫn nại trung thành. Khi người về, người cứ tưới mồ hôi xuống là đất lại nảy ra lá xanh, đơm hoa, kết quả”. Ðời sống của Lão Túc cũng được kết thúc trên mảnh đất của Lão. Một bữa đi ra đám đất, một con rắn từ trong bụi rậm trườn ra và cắn Lão chết. Cho đến khi chết mà Lão vẫn còn ám ảnh đất, miệng vẫn thì thào: “Miếng đất Gò Ðình”.
Tác phẩm của Võ Hồng thật nhiều và quá nhiều khía cạnh. Tôi chỉ nhìn thấy một khía cạnh nào đó thôi, như đã thấy ở trên.
Hồi còn ở Nha Trang, cũng như bây giờ mỗi khi có dịp về thành phố ấy, tôi thường ghé lại thăm ông. Ðời sống của ông lúc nào cũng hiu quạnh, nhưng ông bảo là có sống như thế, sáng tác mới là điều cần thiết, để làm vơi đi phần nào nỗi buồn trên. Ở đời mọi sự đều phù ảo, bởi vậy sáng tác cũng là một cách đùa rỡn với cái phù ảo ấy. Tôi đã có lần nghe ông nói như vậy. Và tôi tin chắc rằng ông vẫn còn tiếp tục đùa rỡn hơn nữa trong nỗi đời hiu quạnh còn lại của ông.
(Tạp chí văn, số đặc biệt về Võ Hồng / 74)

III
Khi còn sanh tiền, mỗi lần gặp tôi Võ Hồng thường nói: “Quê ông cách quê tôi 50 cây số. Mình là dân nhà quê với nhau cả mà”.
Võ Hồng quê ở làng Ngân Sơn, huyện Tuy An, Nằm phía bắc tỉnh Phú Yên. Từ Tuy An đi đến đỉnh đèo Cù Mông là tỉnh Bình Định, quê của tôi. Đúng là khoảng chừng năm mươi cây số.
Hầu hết, người dân của hai tỉnh này đều sống bằng nghề nông, nên hồi nhỏ ngày nào tôi cũng đi giữa ruộng đồng, nương rẫy. Khi lớn lên rời bỏ quê hương ra sống nơi các thành phố lớn, mỗi lần có dịp ra khỏi thành phố mà bất ngờ thấy được dòng sông, đồng lúa xanh là tôi cũng mơ ước như Võ Hồng đã mơ ước trong truyện ngắn Trầm mặc cây rừng của ông: “Bỏ tôi giữa cảnh ấy, tôi sẽ tìm lại quá khứ êm đềm của những ngày thơ ấu, cũng bờ ruộng cỏ ướt sương đêm, cũng dòng nước chảy róc rách”.
Những năm đầu thập niên của thế kỷ 20, những làng quê nghèo như làng Ngân Sơn của Võ Hồng thì tấm lịch và cái đồng hồ dường như vẫn rất còn xa lạ. Nhưng chính vì không biết đến cái đồng hồ và tờ lịch nên những đứa trẻ ở vùng quê này ngồi trông đợi cái Tết đến vô cùng thơ mộng dưới cái nhìn của Võ Hồng trong Ngày xuân êm đềm:
Đối với tâm hồn ngây thơ của nó, cảnh và vật nói nhiều hơn tháng ngày. Nghe con Tu Hú kêu nó nghĩ đén những cái vú dẻ chin vàng ngọt lịm và nó nghĩ “tháng Ba mùa gặt tới”.
Nhìn bà hàng xóm gánh đôi thúng xếp đầy những trái bắp nếp luộc hơi nóng lên ngun ngút, nó cảm nghe mùi ngọt thơm của hột bắp dẻo nghiền tan dưới răng và nó nói thầm “tháng Tám rồi sắp mưa lụt”. Còn ngày Tết thì luôn luôn được báo bằng những dãy cúc, vạn thọ”.
Người dân quê chuẩn bị đón tết rất sớm, Trong ngày xuân êm đềm Võ Hồng cho biết “manh nha từ đầu tháng mười một với những cơn mưa nhẹ, mưa gieo cải, cái Tết thấp thoáng mơ hồ với những rò cãi, ngò, xà lách, tàn ô nằm vuông vắn ở hầu hết mọi sân nhà, cái Tết lớn dần lên với những bụi hoa vạn thọ, cúc đại đóa, thược dược phát chồi sum xuê và bắt đầu ra nụ”.
Đó là việc của người lớn. Còn trẻ con thì niềm vui duy nhất là xin tiền mẹ để đi mua cho được con gà cồ làm bằng đất nung, có khoét cái lỗ ngang hông, khi thổi thì phát ra tiếng gáy như con gà cồ thật.
Nhưng bây giờ đời sống đô thị đã tràn ngập khắp nơi, tất nhiên những con gà cồ đất cũng không còn nữa, nên tác giả ngày xuân êm đềm chỉ còn biết “ngậm ngùi nhìn cái di tích của thời ấu thơ êm đềm không còn nữa, có còn chăng cũng chỉ trong ký ức bề bộn của chàng mà thôi”.
Nhưng có một cái mà đời sống đô thị không thể nào xóa bỏ được, đó là nắng xuân. Trong một truyện ngắn khác có tên là lễ cúng trường Võ Hồng đã ghi lại cái nắng của một buổi sáng cuối năm nơi làng quê Ngân Sơn của ông. Tôi nghĩ rằng, bất cứ làng quê nào, vào cuối năm cũng đều có một buổi sáng nắng rất đẹp chẳng khác nào làng quê của Võ Hồng như thế này: “Thật là đẹp những ngày nắng đầu mùa. Nắng vàng nhẹ, không khí trong suốt khiến cảnh vật sáng tưng bừng. Đứng ở bến đò Thiện Đức có thể nhìn thấy rõ bầy bò lội qua bến đò gạch cách đó hai cây số. Bờ tre ở Phú Hội, rặng dương ở Mằng Lăng hiện lên thành một dải xanh ngăn ngắt và dãy núi cát ở mũi Vũng Lắm màu vàng nhạt, sáng óng ánh mặt trời”.
Trong thi ca hiện đại cũng có nhiều câu thơ nói về nắng, ví dụ như trong Lửa Thiêng của Huy cận: “ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung”, hay trong tập Mưa Nguồn của Bùi Giáng” một buổi trưa nắng vàng in trên tóc.”
 Dùng nắng để diễn tả tâm trạng vui buồn, hay cái đẹp trên mái tóc người con gái thì ta thường bắt gặp. Nhưng dùng nắng để diễn tả giọng nói của người con gái thì, nếu tối không lầm chỉ có Võ Hồng. Trong truyện ngắn Hoa Khế Lưng Đồi ông viết: “giọng nói ấy như có chứa ánh nắng trên đồng lúa chín màu vàng, là hơi thở của những chùm hoa màu đỏ”.
Vậy là đúng như Võ Hồng đã phát biểu trong tác phẩm Trầm Tư của ông: “nghệ thuật là thấy được cái nhỏ nhất chưa ai thấy, nghe được cái nhẹ nhất chưa ai nghe và diễn tả bằng ngôn ngữ chưa ai dùng. Là tránh xa những vết cũ”.
Ở đây, trên đồi cao vắng vẻ vào những buổi sáng hay buổi chiều cuối năm, tôi vẫn thường ngồi nhìn những vạt nắng nơi các rặng núi bên kia đồi, rồi tự nói lê thê với chính mình rằng, mai này “đi lìa xa xứ sở của mặt trời” thì có lẽ cái mà tôi luyến tiếc nhất hông gì khác hơn là một chút nắng đẹp của những buổi chiều cuối năm nơi một làng quê của tuổi thơ mà bây giờ đã quá xa xôi.
IV
Tôi vốn được sanh ra và lớn lên nơi một vùng quê có nhiều núi non. Lớn lên, đọc được Võ Hồng thì tôi mới thấy quê của ông sao mà giống quê tôi quá chừng! Cũng những sườn núi, cũng những con suối chảy róc rách qua khe đá. Nhưng đặc biệt nhất là sự im lặng của núi rừng cô tịch. Sự im lặng mà tuổi thơ tôi đã cảm nhận được trong những buổi trưa hè ngồi dưới gốc cây trước chùa, nhìn những đám mây trắng bay la đà đỉnh núi cao sau chùa. Võ Hồng viết: “Ở đây, tất cả đều trầm lặng nghiêm trang. Rừng già màu xanh tối đứng bao quanh những sườn núi an phận. Rẫy lúa, rẫy bắp, đất thổ trồng đậu xanh đậu phụng. Con trâu, con bò. Suối nước chảy qua khe đá. Con chim đứng hót trên cành. Và linh hồn của cái khung cảnh hoang sơ này là một sự im lặng rộng lớn bao trùm từ khoảng cao đến tận miền xa…”
Hầu hết người dân quê của hai tỉnh này đều là những nông dân chân lấm tay bùn. Cứ từ tháng Mười Một Âm Lịch, tức là sau mùa lụt thì họ đều túa ra đồng cày cấy. Đến tháng Tám sau khi gặt xong vụ Hè Thu, thì họ lại vào núi để làm đất thổ trồng bắp, sắn nước,đậu xanh,đậu phụng,… Võ Hồng đã chia sẻ nỗi cực nhọc của người dân quê ông bằng một nhân vật vô cùng độc đáo có tên là Lão Túc, có thể nói là độc đáo nhất trong những truyện ngắn viết về người nông dân Việt Nam,”… có khác gì cuộc đời của Lão đâu? Hội hè đình đám, Tết nhất, giỗ chạp, giọng cười bên ấm trà, câu chuyện vui trong khói thuốc… Tất cả chỉ là những món trang điểm nhất thời. Lầm lì, chịu đựng, cán cuốc bóng nhẵn trong bàn tay, ánh nắng rung rinh đốt nóng trong mắt, đó mới là cuộc đời thực sự của Lão…”
Nhưng để bù lại những gian lao vất vả mà người dân quê phải gánh chịu, thì họ lại có nơi chốn để trở về, đó là ngôi chùa. Dường như bất cứ làng quê nào của Việt Nam cũng đều có chùa. Làng quê của Võ Hồng cũng không nằm ngoại lệ. Ông cho biết con đường đi vào ngôi chùa của làng ông như thế này: “Chùa Châu Lâm ở cách biệt nơi chân núi, xa xóm cỡ cây số rưỡi nhưng đối với tuổi thơ của tôi như vậy là xa hun hút. Bởi vì muốn đi tới chùa, chúng tôi phải đi bọc vòng chân núi, đi theo một con đường quanh co có nhiều bụi gai bàn chải mọc đầy. Cảnh vật khác hẳn cảnh vật trên xóm, bụi cây âm u rất nhiều. Chim hót tứ phía”.
Ngôi chùa của làng quê Võ Hồng cũng như bao nhiêu chùa làng quê khác đều giống ở chỗ là rất nghèo: “Ấp tôi ít dân lại nghèo nên chùa không thể nào giàu được. Hình như tài sản của chùa chỉ có hai miếng đất thổ, và để có lúa ăn, nhà chùa phải làm rẽ bảy giạ giống ruộng”. Nhưng chính cái nghèo này mà ngôi chùa mới gần gũi, gắn bó với người dân quê chân lấm tay bùn: “Chùa nằm ở chân núi thì người đi đường ghé chân nghỉ mệt, người lỡ đường có thể nghỉ qua đêm. Nhà chùa nằm ở cánh đồng thì anh đi cày, chị đi cấy, kẻ chăn bò ghé xin nước uống, mượn chỗ nằm nghỉ lưng ở hiên sau, ở chái liêu. Cửa Tam Quan suốt ngày không đóng”.
Nhưng vì sao hầu hết những ngôi chùa của Phật Giáo đều được xây cất ở trên núi, nếu ở dưới đồng bằng thì lại tránh xa xóm làng. Có lẽ không ai lí giải điều này hay và thơ mộng hơn Võ Hồng: “Thành đường nhiều Tôn giáo thường đi theo sát tập thể quần chúng, nhằm hoàn thành công tác mục vụ. Chùa chiền Phật giáo thì không. Như cố ý xa lánh, như cố gắng tìm một thâm sơn, xít gần lại với thiên nhiên, núi rừng, nên khi người tìm đến thì đồng thời cũng là dịp người gắn với thiên nhiên. Cùng với tiếng chuông, tiếng mõ tụng niệm, màu xanh của lá cây, sự tĩnh mịch của đá,của đất, sự bao dung của khoảng trời cao cũng góp phần giải khổ, cũng nhẹ thổi đến niềm an vui, niềm hi vọng, niềm tin…”
Bởi vậy, theo Võ Hồng thông điệp của những ngôi chùa ở thôn quê muốn gởi đến cho người nông dân cũng rất giản dị: “Bà con nông dân gần gũi với chùa, thương kính ông Phật, không phải vì hiểu giáo lý Phật giáo. Những tiếng Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Nhị Nhân Duyên đa số đều không biết, không hiểu, mà chỉ biết theo các thầy làm lành lánh dữ, cố gắng theo gương các thầy mà bớt phạm sát sanh. Triết lý vốn sáng mà lạnh. Rất hay nói, rất êm để nghe, mà phàm nói hay thì ít làm.”
Rồi lớn lên rời bỏ quê hương, rời bỏ ngôi chùa xưa, đi vào sống những thành phố tranh sống ồn ào nhưng lúc nào theo Võ Hồng, Đạo Phật cũng “hiện diện êm đềm” quanh ông: “Đạo Phật hiện diện êm đềm quanh ta. Trong một thời gian dài, cứ chừng năm giờ sáng là nằm trong giường tôi nghe được tiếng gõ mõ tụng kinh của ông láng giếng ở sau nhà. Bốn giờ sáng, bà con khu Hồng Bàng – Xóm Mới nghe tiếng chuông chùa Linh Thứu. Bà con xón Mã Vòng – Phường Củi nghe tiếng chuông chùa Long Sơn. Bà con đường Đồng Nai nghe tiếng chuông chùa Hải Đức. Những bà con phải sống xa quê hương, ngoài nỗi nhớ cô bác họ hàng, ngôi nhà tổ tiên, khu vườn cây lá, ắt có lúc chợt nhớ những hương thơm của hoa bưởi, hoa cau, tiếng con trâu, con nghé ọ kêu mẹ, tiếng mái chèo khua nước trên sông, tiếng gà gáy vang lại từ thôn xóm xa… và tiếng chuông chùa.”
Và sau cùng, xin được trích ra đây lời tâm sự của Võ Hồng, một nhà văn lớn hiện đại đã phát biểu về Đạo Phật một cách cảm động như thế này:
“Tôi không phải là Phật tử. Không biết tụng kinh. Nhưng tôi lại dễ xao xuyến dạt dào mỗi lần nghe tiếng kinh tiếng mõ. Những lúc đó tôi tự nhiên trút bỏ mọi ảo vọng ở đời mà cuối xuống nhìn thân phận yếu đuối nhỏ mọn của mình. Chỉ một hơi thở thôi, cuộc đời chỉ là một hơi thở mà thôi, rất nhẹ và rất mong manh, chỉ cần hơi thở ngừng lại nửa phút là rũ bỏ tất cả”.
Tết năm nay, tôi có đi thăm viếng một số chùa ở Nha Trang. Đi đến chùa nào cũng thấy đông đảo Phật tử đi lễ Phật đầu năm. Tôi bồi hồi xúc động và nghĩ rằng, chính những ngôi chùa trầm mặc đã nuôi dưỡng sức sống mãnh liệt cho dân tộc từ hai ngàn năm nay.Đúng như hai câu thơ mà trong những năm gần đây bỗng được mọi người nhắc đến rất nhiều:
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
(Huyền Không)
V
Võ Hồng vẫn thường nhắc đi nhắc lại lý do mà ông theo đuổi sự nghiệp văn chương:
“Tôi đền ơn cho quê hương, tôi trả hiếu cho quê hương bằng cách suốt những năm dài nhẫn nại tay cầm bút”.
Nhưng Võ Hồng “báo hiếu” hay “đền ơn” cho cái quê hương nghèo khổ của ông như thế nào?
Tất nhiên Võ Hồng cũng chẳng có phép lạ nào để làm cho những kẻ suốt đời “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” này sung sướng hơn lên cho được. Nhưng trong tư cách một người cầm bút ông chỉ có một cách duy nhất là, nói cho những người đồng hương biết rằng, dù đời sống cần lao khổ cực, nghèo khổ, nhưng họ có một giàu sang khác mà những người dân ở thành phố không thể có được. Trong truyện ngắn Mẹ và Em Võ Hồng đã để cho một thanh niên trí thức hiện đang sống và làm việc tại thành phố nhưng vốn cũng xuất thân từ nhà quê nghèo khổ đã tự so sánh về hai đời sống mà anh đã trải qua:
“Dĩ vãng nào của anh cũng được đặt vào một nền khung cảnh có cây cối làm nền. Anh dễ tưởng tượng ra một khuôn mặt thân yêu, dễ sống lại một tâm trạng êm đềm hay xót xa khi mắt anh bắt gặp một khung cảnh quen thuộc. Một bờ ao, một ngôi chùa, một hàng dậu bìm leo hoa nở hình chuông. Một dòng sông. Ký ức của anh trái lại, rất ít bén nhạy khi anh nhìn một dãy phố, một công thự, một kiểu ô tô. Có lẽ vì văn minh không lặp lại còn thiên nhiên thì không đổi thay, cho anh đắm tâm hồn vào sự trầm lặng lớn lao kia cho vơi bớt đi những ưu tư phiền muộn từng dày vò khối óc muốn vỡ tung của anh. Người mẹ màu xanh, thiên nhiên trầm tĩnh dịu dàng, anh biết chỉ ở giữa thiên nhiên anh mới cởi bỏ được những xáo trộn của tâm tư mà hòa mình theo nhịp sống thanh thản vô tư của cây cỏ”.
Có lẽ chính vì thế mà trong tác phẩm của Võ Hồng ta mới thấy một bà mẹ nhà quê suốt đời ngồi trông ngóng người con đi làm thuê làm mướn nơi xứ lạ quê người vô cùng thơ mộng:
“Cây xoan trước cửa nở hoa nó ra đi bây giờ lại nở hoa, phải một kỳ nữa thì nó mới trở về. Con Tu Hú báo hiệu mùa múi giẻ chín. Phải một kỳ Tu Hú kêu nữa thì nó về. Cây ổi xá lị nó xin giống ở Đồng Tròn về trồng năm kia, năm nay đã ra được hai trái. Sang năm nó về ổi sẽ chín đầy cành”.
Nếu từ cái làng quê Ngân Sơn nghèo khổ thì Võ Hồng mới sáng tạo ra được những nhân vật như Lão Túc trong truyện Tình Yêu Đất mà quanh năm suốt tháng lúc nào cũng: “lầm lỳ, chịu đựng, cán cuốc bóng nhẵn trong gang bàn tay, ánh nắng rung rinh đốt nóng tròng mắt” hay bà Xự trong đập đồng cháy khi chiến tranh ùa tới mọi người đều ra đi nhưng riêng bà Xự thì “ngồi yên trên ngạch cửa, hai dòng nước mắt lặng lẽ chảy trên gò má. Bỏ nhà của mà đi, bỏ ruộng nương, bỏ vườn tược, bỏ khúc sông và cái bến nhỏ này mà đi. Không, tôi không muốn đi đâu hết. Năm mươi tuổi đời rồi, tôi muốn ngồi yên một chỗ, nằm yên một chỗ mà chết cũng được. Chết là gì? nhắm hai con mắt lại, nhẹ nhàng buông xuôi hai tay” thì chỉ mới nói lên được lòng kiên nhẫn sắt son của con người đối với đất đai làng mạc quê hương. Nhưng phải đợi đến truyện ngắn Niềm Tin Chưa Mất thì theo tôi mới là tâm sự mà Võ Hồng, người con của Ngân Sơn Phú Yên muốn gửi đến cho thời đại mà chúng ta đang sống, một thời đại mà Võ Hồng đã cho là “một xã hội nhiễm độc mà dối trá đã trở thành điển – lệ, mà thù hằn đã trở thành khí giới phổ thông”.
Câu chuyện giản dị như thế này, tác giả người xưng “tôi” trong câu chuyện cùng học chung một lớp ở trường làng Ngân Sơn với người bạn tên Tộc. Tộc tướng mạo xấu xí lại còn học dở nhưng lại rất tốt bụng, sống rất tự nhiên, không hề biết che giấu cái xấu của mình, Võ Hồng nhận xét đầy xúc động: “Tôi có cảm tưởng tâm hồn anh hiền lành như cây xanh, cây ổi, cây bàng nào đó đang sức lớn. Đâm chồi, ra lá, nứt hoa. Cây cứ bình tĩnh làm nhiệm vụ của mình, không cần nhìn xem những phản ứng của các cây héo, giấu giếm những cây gãy, mà cũng không thấy nó hãnh diện vì chồi xanh non mướt hay nở đầy cành”.
Vì học quá dở nên Tộc không lấy nổi bằng yếu lược, phải nghỉ học. Mấy năm sau, lúc đang học trường huyện về thăm nhà thì dân làng Ngân Sơn kể lại Tộc mất tích và xóm trên đầu làng cô Lành con của ông Câu Hò cũng mất tích vào đúng đêm đó. Người làng đồn rằng Tộc và cô Lành rủ nhau bỏ đi hoang nhưng không biết đi đâu?
Mấy chục năm sau, khi tác giả đang dạy học tại Nha Trang bỗng nhận được thư của Tộc từ Ban Mê Thuột gửi xuống. Trong thư Tộc cho biết có đọc được “mấy truyện của anh viết về những ngày thơ ấu của chúng ta còn học ở trường Ngân Sơn”. Đặc biệt Tộc cho biết hiện nay anh rất khá giả có Vila ở Đà Lạt và có cả xe ô tô nữa”.
Đọc xong thư Tộc, tác giả cho biết: “niềm vui khi đọc thư Tộc, tôi giữ cho đến suốt ngày. Tôi cảm thấy bớt đơn chiếc và cuộc đời dễ sống hơn. Tộc đại diện cho một nhân cách miễn nhiễm, không tà khí. Lúc nào cũng nghĩ tốt cho người, không ác ý, không đối phó, không bị lôi cuốn, và sẵn sàng làm điều tốt cho người, không mưu tính, không mặc cả. Tôi tin chắc rằng sự làm giàu của Tộc rất trong sạch”.
Sau cùng, tác giả phải công nhận rằng, chính người bạn mà ngày trước ở trường làng Ngân Sơn ai cũng xem thường và thường đem ra bỡn cợt thì cũng chính người bạn đó nay lại giúp tác giả tin cậy vào cuộc đời này hơn:
“Tâm hồn tộc như cái phòng trống trơn, không có xó kẹt, không có bóng tối. Tộc làm những điều mình nói và có thể nói cả những điều mình làm, và có thể nói vả những điều mình nghĩ nữa. Trong một xã hội nhiễm độc mà dối trá đã trở thành điển lệ, mà thù hằn đa trở thành khí giới phổ thông quả tình nhân cách của Tộc vươn lên nhưng chồi cây mạnh giúp tôi tin cậy ở cuộc đời”.
Phạm Công Thiện, một người bạn vong niên của Võ Hồng đồng thời cũng là một người đầy thẩm quyền về tư tưởng triết lý Tây Phương của Miền Nam trước 75 khi đọc Niềm tin chưa mất đã không ngần ngại so sánh Tộc với các nhân vật trong tiểu thuyết của các tác giả Tây Phương:
“Đó là Tộc của Võ Hồng, là Dilsey của Faulkner, là lão già đánh cá của Hemingway. Đó là hình ảnh thực sự của con người trần gian này. Con người ấy không phải là Vua là Chúa là kẻ thông minh xuất chúng. Người ấy chỉ là một con người rất tầm thường, rất Conformister, có thể rất là Idiot nữa. Chính những con người ngu si như vậy sẽ cứu lấy trần gian ra khỏi hố sâu, chính những con người tầm thường như Tộc, như Dilsey như lão già đánh cá của Hemingway. Chính những con người tầm thường này sẽ gầy dựng lại một thế giới mới giữa trần gian đỗ vỡ này”.
Và để kết thúc những tản mạn về Võ Hồng, tôi xin được trích một đoạn nữa trong lá thư của Phạm Công Thiện gửi Võ Hồng, thư đề ngày 18 tháng 01 năn 1963, xem như Phạm Công Thiện đã nói lên được toàn thể văn nghiệp của Võ Hồng trong một câu ngắn gọn, súc tích:
“… Nhưng đọc anh, tôi mới sực nhớ rằng, mỗi người đều mang nặng một bi kịch đau thương của cuộc đời và trong những gì tầm thường nhất cũng đều chứa đựng một cái gì cao quý thiêng liêng nhất, một cái gì mà thiếu nó thì cuộc đời này không đáng sống nữa”.

Monday, March 30, 2020

Thích Từ Lực: Ai Là Tâm Minh Của Thế Kỷ 21?

Ai Là Tâm Minh Của Thế Kỷ 21?
Thích Từ Lực
(Trích Phổ Hương Tình Thầy, Tủ sách Phổ Hòa sắp xuất bản nhân mùa tưởng niệm Cư Sĩ Tâm Minh Lê Ðình Thám.
Tựa: Thị Nghĩa 
Trần Trung Đạo, bạt: Tâm Nghĩa Ngô Văn Quy (Calvin Ngo), Bodhi Media chủ trương và thực hiện.)
Giữa khung cảnh an tĩnh của lúc đầu Xuân, kẻ hậu học xin cúi đầu tưởng niệm bậc tiền bối hữu công: cụ Tâm Minh Lê Ðình Thám. Chắc bạn rõ, không phải là sự ngẫu nhiên mà tôi ngồi đây, trong căn chái nhỏ, để viết về con người và sự đóng góp của cụ đối với Phật giáo nói chung và đối với tổ chức Gia đình Phật tử nói riêng. Thật là một con người đầy đạo tâm và sức sống. Lắm lúc, vì hơi ốm yếu, tôi đã mong ước mình có được phần nào tâm chí vững mạnh và đầy lý tưởng của cụ.
Một câu chuyện xưa: Tôi xin phép được bắt đầu với bạn bằng một câu chuyện xưa. Lúc tôi mới vào chùa, làm điệu, có tham dự những buổi học tập kinh điển và giới luật hàng tuần. Có khi vào buổi tối, sau giờ đi học ở trường, mà cũng có khi vào ngày cuối tuần. Tôi còn nhớ, hôm đó, thầy Tịnh Từ, hiện nay là Viện trưởng tu viện Kim Sơn, dạy chúng tôi về bản văn “Ðại thừa Kim Cang Kinh luận” do hòa thượng VIên Giác của tòng lâm Giác Hải ở Vạn Giả, Nha Trang dịch giải. Thầy thường tìm cách lồng vào bài học là các câu chuyện ở chùa để gián tiếp dạy bảo anh em chúng tôi.
Thầy kể lại rằng, cụ Tâm Minh lúc đó rất lưu tâm đến việc đào tạo Tăng tài để gánh vác công việc Phật sự mai sau. Và vì nhờ am hiểu cả hai nền tân học và cựu học, tức là Hán văn và Tây học cho nên cụ được quý Ôn mời dạy cho quý Thầy tại Phật học đường Báo Quốc. Chúng ta đừng quên, cụ vừa là một Phật tử thuần thành gần gũi với giới bình dân và cũng là một bác sĩ y khoa của hàng trí thức khoa bảng. Bản chất của cụ là một con người thông minh, ham học nhưng đồng thời cũng rất khiêm nhượng, tôn kính chư Tăng. Do đó, mà trước khi bước lên bục hay ngồi vào bàn để giảng dạy, cụ đều đảnh lễ chư Tăng, mà lúc đó là học trò của cụ trên nguyên tắc, và chắc chắn có thầy tuổi còn kém hơn cụ rất nhiều.
Ðã gần hai mươi năm trôi qua, vậy mà tôi vẫn chưa quên sự xúc động của tôi lúc đó. Hẳn nhiên, tôi đã biết gì đến hạn khiêm cung của bồ tát Thường Bất Khinh trong kinh Pháp Hoa đâu. Tôi chỉ hình dung ra một con người, có đôi mắt sáng, đầy sự cương quyết trong lòng, và đặc biệt hơn hết, có cả trái tim của một vị Bồ Tát sống đúng với Chánh pháp. Tôi nghĩ, chưa kể đến những điều hiểu biết mà cụ trao truyền cho các học tăng, chỉ cần thái độ khiêm cung đó cũng đủ chất liệu cho một bài học vô giá rồi. Trong chúng ta, ai cũng có một bản ngã rất lớn lao mả qua bao đời kiếp ta đã tìm đủ mọi cách để củng cố, để tô bồi thêm. Khó khăn hơn nữa là khi có quyền hạn trong tay, ở vào một địa vị cao hơn người khác một chút, là ta đã để cho cái “bản ngã vị kỷ” đó tự tung tự tác, không kể gì đến sự tương kính, nhường nhịn. Khó thay cho chúng ta mà cũng đáng phục thay thái độ sống của một người cư sĩ Phật tử biết trọng Phật, kỉnh Tăng với hiểu biết của trí óc và chân thành của con tim.
Con người lý tưởng: Năm tháng trôi qua, xúc động của hôm đó và hình ảnh cụ Tâm Minh tiếp tục ở lại trong lòng, sáng bước với cuộc đời tu hành của tôi. Tôi thường quan niệm, con đường Phật giáo là con đường hài hòa giữa mình với ta. Phật đã ché định giới luật và chỉ bày cách sống cho cả hai giới tại gia và xuất gia. Trên hết, trên con đường phụng sự lý tưởng giác ngộ, Tăng Ni và tín đồn cần có sự tương kính, hỗ trợ lẫn nhau, làm đẹp cho nhau. Do đó, tôi thường tìm cơ hội để tần gũi, tìm hiểu, học hỏi ở những vị cư sĩ đạo tâm, chuộng đời sống bình dị để có thể tích cực tu tập Chánh pháp. Nhân duyên đưa đẩy, tôi lại chọn con đường sinh hoạt với tuổi trẻ, mà trong đó có hình ảnh của Gia đình Phật tử, của chiếc áo lam thân yêu đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi từ lúc còn bé.
Lại thêm một lần không ngờ, đầy thích thú, khi tôi phát giác ra cụ Tâm Minh cũng là một trong những người đầu đàn thành lập và nuôi dưỡng tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam. Thì ra, cụ không chỉ là một người gần gũi với chư Tăng mà cũng là một con người đầy lý tưởng, muốn tạo một sức sống cho những người trẻ tuổi biết đạo đức, biết tôn quý những giá trị tinh thần. Chúng ta hãy độc lại mục đích của tổ chức áo Lam: “Ðào tạo những thanh thiếu niên trở thành những công dân tốt của xã hội, sống theo tinh thần Phật pháp”. Thật là một việc làm rất ý nghĩa và đem lại lợi ích lớn lao cho gia đình và xã hội. Dĩ nhiên, chính các nhân của các huynh trưởng và đoàn sinh Gia đình Phật tử đã được thánh hóa, chuyển hóa khi theo đúng đường lối này.
Càng tìm hiểu thêm về con người của cụ, chúng ta càng kính phục sự hoạt động bền bỉ, đầy hăng sau của cụ. Một trong những nhân chứng sống mà tôi được tận tai nghe là hòa thượng Mãn Giác. Với giọng bình dân của người miền Trung, hòa thượng kể cho một số anh em tăng sinh trẻ tuổi nghe về cụ Tâm Minh và các hoạt động của Gia đình Phật tử lúc đó. Thầy nói: “Cụ Tâm Minh hăng hái lắm. Ra khỏi phòng mạch là đi thẳng về chùa, rồi hội họp với lớp trẻ lúc đó, như Võ Ðình Cường, chị Hoàng Thị Kim Cúc, có cả thầy Minh Châu nữa, lúc đó chưa xuất gia. Bộ tướng thì nhỏ người mà răng làm việc quá sức hăng say. Các thầy, ai cũng thương cụ”. Ðã hơn 50 năm trôi qua, cho đến hôm nay hình ảnh con người đầy nhiệt huyết của cụ vẫn có thể làm mẫu mực cho chúng ta.
Nuôi dưỡng tuổi trẻ: Có một câu hỏi hơi thừa nhưng chắc chắn là không vô ích mà chúng ta có thể đặt ra ở đây: tại sao cụ tâm Minh và những người tiên phong lúc đó lại đặt nặng vấn đề nuôi dưỡng và giáo dục tuổi trẻ? Có người hy hiến cả đời mình cho tuổi trẻ không biết nhọc mệt, không than van gì cả. Trải qua 20 năm sống ở xã hội Tây Phương, chắc chắn đa số chúng ta đã thấy tuổi trẻ ở quốc gia nào mà bị băng hoại thì sẽ kéo theo một sự đổ vỡ lớn lao và lâu dài trong các sinh hoạt tại quốc gia đó. Ðối với cộng đồng Việt Nam chúng ta cũng vậy, có nuôi dưỡng thanh thiếu niên giữ được những nét truyền thống văn hóa thì chúng ta mới có hy vọng ở một tương lai tốt đẹp hơn. Hơn nữa, giáo lý nhà Phật lại có nền tảng hợp với sức sống của tuổi trẻ và tinh thần khoa học hiện đại thì chúng ta lại có nhiều triển vọng hơn và, dĩ nhiên, rất an tâm, đầy tin tưởng khi chọn con đường giáp dục tuổi trẻ. Vả lại, con đường mà Gia đình Phật tử Việt nam đã trải qua suốt nửa thế kỷ nay đã để lại nhiều chứng tích tốt đẹp và chứng nghiệm hùng hồn không ai chối cải được.
Nhìn lại đội thiếu niên hay một chúng thiếu nữ quây quần bên nhau trong một lớp Việt ngữ, hay trong một khóa Phật pháp, chúng ta có cảm tưởng gì? Có hy vọng không? Rằng mai đây, các em lớn lên sẽ có thể đóng góp gì cho xã hội các em đang sống? Phải nói là chúng ta tràn trề hy vọng chứ. Tương quan nhân quả cho phép chúng ta nhận định như vậy. Bây giờ, các em đến với những sinh hoạt đạo đức tâm linh và học hỏi được những điều hay lẽ phải thì mai đây các em sẽ đem ra áp dụng trong đời sống và có thể làm đẹp cuộc đời, làm tốt cho con người. Vì vậy, bao nhiêu công trình mà người trước, và ngay cả bây giờ, quý anh, chị huynh trưởng các cấp đang đầu tư vào công cuộc nuôi dưỡng và giáo dục tuổi trẻ sẽ không vô ích chút nào; trái lại, hướng dẫn được tuổi trẻ theo con đường chơn chánh thì chúng ta vẫn còn có nhiều triển vọng cho một tương lai tốt đẹp hơn.
Hoài niệm người xưa mong mỏi cho hôm nay: Cả hai, bạn à. Chúng ta sắp sữa bước vào thế kỷ 21 với những tiến bộ quá mau của kỹ thuật, khoa học, trong khi đó, giá trị của đạo đức tâm linh lại theo đà xuống dốc thảm hại. Theo luật chung của cuộc đời thì phải vậy, Hơi có nhiều tiền một chút thì mình lại ham chơi, quên ngồi thiền, xao lãng việc tìm hiểu về đời sống tâm linh. Nhưng ai kia thì có thể như vậy, chứ chẳng lẽ mình lại nhắm mắt, bỏ đàn em đang trông chờ sự thương yêu dẫn dắt của chúng ta!
Tôi thiết tha nhắc lại hình ảnh của cụ Tâm Minh là để chúng ta, trước hết học hỏi ở một con người lý tưởng, ham phụng sự, sau nữa, chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa trong việc tìm kiếm một hướng đi thích hợp với tuổi trẻ. Chúng ta cần học hạnh khiêm nhường của cụ và học cách nhường nhịn lẫn nhau. Theo tôi, hơn lúc nào hết, bây giờ chúng ta cần có những con người biết hy sinh cho lợi ích chung và có thể dung hòa cho cả hai thế hệ vốn dĩ luôn luôn có sự xung đột, khác biệt. Họ đang ở đâu? làm gì? Nếu có thể đốt nến mà tìm ra được những con người đó thì bạn có chịu đi với tôi để cầu thỉnh, để gần gũi mà học hỏi những đức tính tốt của họ không?
Thật là may mắn nếu ở trong một tập thể mà có được hình ảnh những Phật tử biết uyển chuyển để có thể chấp nhận những ý kiến bất đồng. Rồi cũng trong chiều hướng vị tha, phóng xả, cố đem hết sức mình dâng hiến cho tổ chức mà họ sẵn sàng ngồi lại để cùng làm việc với nhau thì đó là những viên ngọc vô giá. Ðầu năm, đốt nén tâm hương, tưởng niệm cụ Tâm Minh như là một lời cần nguyện chân thành: xin anh linh của Cụ soi đường cho đàn hậu tấn, cho màu Lam vững bước tiến trên đường dẫn dắt tuổi trẻ, thương yêu tuổi trẻ.