Sunday, June 7, 2020

Nguyên Giác: Hạnh Bồ Tát và Kinh Kim Cương

Hạnh Bồ Tát và Kinh Kim Cương
Nguyên Giác

Bài này sẽ trình bày về đề tài Hạnh Bồ Tát và Kinh Kim Cương. Người viết không có thẩm quyền nào, do vậy phần chính sẽ dựa vào kinh luận.
Bài này cũng được viết với tinh thần không nắm giữ một kiến chấp nào, như lời dạy trong Kinh Tập Sn 4.3, nằm trong nhóm kinh nhật tụng của chư tăng trong các năm đầu khi Đức Phật hoằng pháp: “Bài kệ 787: Làm sao, và về những gì, những kẻ dính vào tranh cãi về các giáo thuyết có thể tranh cãi với người không dính mắc gì? Không nắm giữ bất cứ gì, và không bác bỏ bất cứ gì, người ấy rũ bỏ bất kỳ cái nhìn nào nơi đây.” (1)
Đức Phật dạy Hạnh Bồ Tát
Hạnh Bồ Tát là gì? Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không. Theo nghĩa đơn giản này, Hòa Thượng Thích Minh Châu (người đã dịch Tam Tạng Pali sang tiếng Việt) và tất cả quý tăng ni, cư sĩ đã thiết lập Đại Học Vạn Hạnh đều là các vị Bồ Tát. Trong nghĩa đầy đủ, Bồ Tát là người giữ hạnh cứu độ chúng sanh, hồi hướng phước đức mình có cho tất cả hữu tình, luyện tâm Bồ đề, tu Sáu Ba La Mật, giữ Bồ Tát hạnh nguyện, và là vị Phật tương lai.
Nhìn qua sử Việt, Hạnh Bồ Tát đã gắn liền với đời sống dân tộc Việt từ khi Phật Giáo vào Việt Nam thời Hùng Vương, và đã đào tạo nhiều thế hệ Phật tử tu theo châm ngôn "bi trí song tu." Theo nghiên cứu của GS Lê Mạnh Thát, tác phẩm Lục Độ Tập Kinh bản gốc từ tiếng Việt cổ, về sau được Khương Tăng Hội (?--280) dịch sang tiếng Hán.
Đó cũng là lý do cho thấy ảnh hưởng rộng lớn của Phật Giáo trong dân tộc: cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (năm 39- 43) đã có nhiều sư cô trở thành các nữ tướng chiêu mộ dân làng gia nhập nghĩa quân chống quân nhà Hán, và sau đó nhiều làng Bắc Việt đã lập đền thờ các sư cô như Thiều Hoa, Phương Dung, Thục Nương, Bát Nàn, Vĩnh Huy, Nguyệt Thai, Nguyệt Độ, Chiêu Dung, Hương Thảo... Như thế, hẳn là Đạo Phật đã vào VN nhiều thập niên (hay nhiều thế kỷ?) trước Tây Lịch mới đào tạo được các sư cô có tiếng nói thuyết phục được dân làng cùng nổi dậy thời Bắc thuộc lần đầu.
Trong Kinh Trung Bộ MN 83, Đức Phật dạy ngài Anan rằng Chánh pháp cần duy trì, chớ nên đứt đoạn Chánh pháp. Lời dạy này có thể hiểu là hãy bước vào cõi nhân gian để hoằng pháp khi có thể, và khi thấy Chánh pháp cơ nguy đứt đoạn thì đừng vào riêng một góc núi ngồi an hưởng thiền định. Không rõ có thể hiểu lời dạy này là nên giữ hạnh tái sinh đời đời kiếp kiếp như các vị tulku PG Tây Tạng để duy trì Chánh pháp hay không? Bản dịch của Thầy Minh Châu trích như sau: 
Chính là Thánh đạo Tám ngành này, tức là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Này Ānanda, đây là truyền thống tốt đẹp được Ta thiết lập, và truyền thống ấy đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này Ānanda, về vấn đề này, Ta nói như sau: “Truyền thống tốt đẹp này do Ta thiết lập, hãy tiếp tục duy trì. Các Ông chớ có thành người tối hậu sau Ta”. Này Ānanda, khi hai người còn tồn tại, và có sự đứt đoạn của truyền thống này, thời người nào làm cho đứt đoạn, người ấy là người tối hậu. Vậy này Ānanda, Ta nói với Ông: “Truyền thống tốt đẹp này do Ta thiết lập, các Ông hãy tiếp tục duy trì. Các Ông chớ có thành người tối hậu sau Ta”…” (2)
Trong Kinh Trung A Hàm MA 67, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ có văn phong rất minh bạch là chớ để “Phật chủng đứt đoạn.” Hình như văn phong này về sau được hình thành rõ hơn qua các luận sư Đại Thừa và Kim Cang Thừa, vì hàm nghĩa là sẽ thành Phật. Kinh này viết, trích:
Này A-nan, thế nào là pháp kế thừa mà nay Ta chuyển trao cho ông và bảo ông cũng phải chuyển trao lại pháp kế thừa ấy, chớ để cho Phật pháp dứt đoạn? Đó chính là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định là tám. Này A-nan, đó chính là pháp kế thừa mà nay Ta đã chuyển trao cho ông, và ông cũng phải chuyển trao lại pháp kế thừa ấy, chớ để cho Phật chủng đứt đoạn.” (3)
Một kinh khác trong Tăng Nhất A Hàm, Kinh EA 35.2, ghi lời Đức Phật nói rằng ngài muốn làm cho người chưa phát ý Bồ Tát khởi được Tâm Bồ Tát và ngài cũng sẽ thọ ký cho Phật tương lai. Có nghĩa là Đức Phật khuyến tấn tu hạnh Bồ Tát. Kinh này do hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng dịch:
Một thời, đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: Như Lai xuất hiện ở đời tất sẽ vì năm việc. Sao gọi là năm? Một sẽ chuyển Pháp luân, hai sẽ độ cha mẹ, ba người không tin kiến lập lòng tin, bốn là người chưa phát ý Bồ-tát khuyến phát tâm Bồ-tát, năm sẽ thọ ký cho Phật tương lai. Nếu Như Lai xuất hiện ở đời thì sẽ làm năm việc này. Cho nên, các Tỳ-kheo hãy khởi tâm từ đối với Như Lai. Các Tỳ-kheo, hãy học điều này như vậy.(4)
Tương tự, Kinh Tăng Nhất A Hàm EA 24.5 trong bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng cũng ghi lời dạy đó:
Thế Tôn bảo: Như Lai ở đời cần làm năm việc. Sao gọi là năm? Một là chuyển pháp luân; hai là thuyết pháp cho cha; ba là thuyết pháp cho mẹ; bốn là dẫn dắt phàm phu lập hạnh Bồ-tát; năm là thọ ký riêng cho Bồ-tát. Này Ca-diếp, đó gọi là Như Lai xuất hiện ở đời cần làm năm việc như vậy.” (5)
Vị Vua Trời cũng nhắc tới năm nhân duyên trên, trong đó có lời Đức Phật khuyến tấn tu hạnh Bồ Tát. Kinh EA 36.5 bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng viết:
Thích Đề-hoàn Nhân bạch Thế Tôn: Như Lai cũng nói, phàm Như Lai xuất thế tất sẽ vì năm việc. Những gì là năm? Chuyển Pháp luân; độ cha mẹ; người không tin dựng lòng tin; chưa phát tâm Bồ-tát khuyến phát ý Bồ-tát; thọ ký thành Phật trong khoảng thời gian đó. Như Lai xuất hiện tất sẽ vì năm nhân duyên này. Nay mẹ của Như Lai tại trời Tam thập tam muốn được nghe Pháp. Như Lai đang ở giữa chúng bốn bộ trong cõi Diêm-phù-lý, vua và nhân dân đều tập hợp lại. Lành thay, Thế Tôn, mong Ngài đến trời Tam thập tam mà thuyết Pháp cho mẹ.(6)
Trong khi nói về hạnh bố thí, Đức Phật dạy cụ thể rằng Bồ Tát phải bố thí như thế nào, qua Kinh EA 10.5, bản dịch hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng:
Thế Tôn bảo: Lành thay, lành thay, Gia chủ. Ông đã bằng tâm Bồ-tát, chuyên tinh nhất ý mà huệ thí rộng rãi. Thật vậy, chúng sanh nhờ ăn uống mà được cứu sống, không ăn uống thì liền chết. Này Gia chủ, Ông sẽ được quả lớn, được tiếng tăm nhiều; được quả báo lớn mà tiếng đồn thấu mười phương; được pháp vị cam lồ. Vì sao vậy? Vì hàng Bồ-tát thường đem tâm bình đẳng để bố thí, lúc nào cũng một lòng mà nhớ nghĩ đến các loài chúng sanh, nhờ ăn uống mà tồn tại, có ăn uống tức được cứu sống, không ăn uống tức chết. Này Gia chủ, đó là tâm Bồ-tát ở tại chỗ yên ổn mà bố thí rộng rãi.” (7)
Trong khi đó, cũng nên nhắc tới Kinh Trung Bộ MN 34 bản dịch của Thầy Minh Châu nói về Hạnh Bồ Tát, dạy về những cách để làm sao lùa được tất cả bò qua sông, kể cả “con bò còn nhỏ mới sanh, con bò này nhờ chạy theo con bò mẹ, vừa chạy, vừa kêu, sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, cũng qua bờ bên kia một cách an toàn”… nghe như lời Đức Phật dạy Phật Tử không nên bỏ rơi bò con, bò yếu nào cả, mà phải suy tính sao cho lùa hết qua sông. (8)
.
Ly Nhất Thiết Tướng
Điểm ghi nhớ, tu hạnh Bồ Tát cũng như tất cả các pháp tu đều phải giữ lấy pháp ấn vô ngã, không bao giờ để cho tâm vướng chút nào vào “tôi,  của tôi” (ngã, ngã sở). Nghĩa là tu mà vẫn thấy là vô tu. Do vậy, truyền thống Thiền Tông nói rằng trong khi tu hạnh Bồ Tát cần phải ngộ nhập Tánh Không, để không còn chấp vào có người tu và có pháp được chứng, không vướng vào tướng có người độ và có người được độ. Hai kinh quan trọng của Thiền Tông chỉ thẳng vào Tánh Không, tức Bản Tâm, là Kinh Kim Cang (còn gọi là Kinh Kim Cương, hay Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh, hay Phật thuyết năng đoạn kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh) và Tâm Kinh (hay Bát Nhã Tâm Kinh, hay Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh). Nội dung là ly tất cả các tướng, tức là hiển lộ đại định của Tánh Không, còn gọi là Vô Tướng Tam Muội.
Chúng ta có thể giải thích về nghĩa Không bằng một số hình ảnh trong Thiền sử. Thí dụ, một vị Thiền sư chỉ vào cái bình, và bảo học trò trả lời. Chỉ vào cái bình, tức là chỉ vào cái hữu thể (existence), tức là Sắc đang hiển lộ. Có người học trò bước tới, cầm cái bình để qua một bên. Có học trò bước tới, lấy chân khều ngã cái bình rớt sang chỗ khác. Có học trò lấy cây gậy đập bể cái bình. Cả ba nhà sư đều có ý trả lời (như Tâm Kinh) rằng Sắc tức là Không (cái bình dời đi, hay bị bể), nghĩa là có bình hay không-bình vẫn nằm trong ngôi nhà trống rỗng bao trùm cả sắc-không. Khi cái bình dời đi là cái Không (non-existence) hiển lộ. Nghĩa là, Hữu và Vô là đối nhau. Nhưng cả hai pháp đó (Có, Không; Hữu, Vô; existence, non-existence) đều nằm trong Tánh Không (Emptiness) vô cùng vô tận.
Có thể lấy thí dụ khác: khi một tiếng chim kêu khởi lên và biến mất, được nghe trong bầu trời tâm, thì cả tiếng và không-tiếng đều nằm trong tánh nghe chưa từng dao động và chưa từng biến mất. Tương tự, khi một niệm khởi (a thought appears) và rồi niệm này biến mất (disappears) thì cái niệm và cái không-niệm đó đều nằm trong Bản Tâm vốn rỗng lặng chưa từng dao động. Do vậy, chữ Không đối với Có vẫn là cái không của nhị nguyên- chứ chưa thực sự là cái Không Bao Trùm Rỗng Lặng, vốn xa lìa mọi nhị biên và xa tất cả các biên nào có thể có. 
Trong Thiền sử Việt Nam, có ngài Tông Diễn (1640-1711) từng dạy: “Hữu vô câu bất lập, nhật cảnh bổn đương bô” (có và không đều không lập, mặt trời trí tuệ sẽ lên cao). Vì các pháp duyên vào nhau để hiện ra nên gọi là có, nhưng cũng vì duyên vào nhau nên cũng gọi là không. Với người thấy rõ tánh duyên khởi hiển lộ trong các pháp, sẽ thấy không cần tranh cãi có/không, đúng/sai nữa.
Cũng như khi mình ngồi trong hí viện xem ca nhạc kịch, lúc đó có khoảng 500 người khách. Tất cả hình ảnh, màu sắc trên sân khấu hiện ra (và liên tục biến đi) trước mắt tất cả mọi người, tiếng đàn và tiếng ca hiển lộ qua tai (và liên tục trôi vào vô thường) của tất cả quan khách. Tức là Hữu (có hình, có tiếng) và Vô (hình, tiếng liên tục trôi đi) hiển lộ qua thấy nghe hay biết của tất cả mọi người, và cái tánh thấy nghe hay biết đó là cái Tánh Không bao trùm không phải riêng của khách nào, cũng không gọi được là chung của tất cả vì nhân duyên hiển lộ với mỗi người khác nhau (và cùng lúc là hiển lộ với 4 tỷ người ngoài sân khấu). Cũng như mặt trăng (Tánh Không, thường hằng, rỗng lặng, giúp thấy nghe hay biết) chỉ một, nhưng hiện ra cả 4 tỷ mặt trăng khác trên ao, hồ, sông, rạch, biển, thau chậu… Cho nên mới nói, người ngộ được Tánh Không này sẽ không còn chấp có ta hay chấp có người nữa, vì tất cả là như huyễn. Một thí dụ khác để chỉ bản tánh hay bản tâm là tánh sáng của gương, hiển lộ tất cả y hệt như mộng, như huyễn.
Khi nói về Tánh Không vĩnh hằng bao trùm cả Hữu và Vô, có thể chúng ta liên hệ (phần nào) tới Kinh Tạp A Hàm SA 273, bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng:
Này Tỳ-kheo, các hành như huyễn, như sóng nắng, trong khoảnh sát na, tàn lụi, không thật đến không thật đi. Cho nên Tỳ-kheo, đối với các hành vốn không, nên biết, nên hoan hỷ, nên suy niệm rằng, trống không là các hành thường tồn, vĩnh hằng, ổn trụ, pháp không biến dịch; trống không không có ngã, không có ngã sở. Ví như người mắt sáng tay cầm đèn sáng vào trong nhà trống, xem xét cái nhà trống ấy. Cũng vậy, Tỳ-kheo, đối với tất cả hành trống không, tâm quán sát, hoan hỷ, rằng trống không là các hành. Trống không, không ngã và ngã sở, là các pháp (được coi là) thường tồn, vĩnh hằng, ổn trụ, pháp không biến dịch. Cũng vậy, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và pháp làm nhân duyên sanh ra ý thức, ba sự hòa hợp thành xúc, xúc sanh ra thọ, tưởng, tư. Các pháp này vô ngã, vô thường, chi tiết cho đến không, vô ngã và ngã sở.” (9)
Và từ nơi đây, chúng ta sẽ khảo sát về lời Đức Phật dạy Bồ Tát trong Kinh Kim Cang. Bản dùng trích dẫn nơi đây là tác phẩm Kinh Kim Cang Giảng Giải của Hòa Thượng Thích Thanh Từ. (10)
Kinh Kim Cương dạy người tu hạnh Bồ Tát khi độ tất cả chúng sanh phải thấy được tất cả pháp đều là vô tướng, phải lìa tất cả các tướng có thể được thấy nghe hay biết như là có ta thật, như là có người thật, như là có chúng sanh thật, như là có tương tục thọ mạng. (Trích: Phật bảo Tu-bồ-đề : Các vị Bồ-tát lớn nên như thế mà hàng phục tâm kia. Có tất cả các loài chúng sanh hoặc loài sanh bằng trứng, hoặc loài sanh bằng thai, hoặc sanh chỗ ẩm ướt, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng có tưởng chẳng không tưởng, ta đều khiến vào vô dư Niết-bàn mà được diệt độ đó. Diệt độ như thế vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh mà thật không có chúng sanh được diệt độ. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức chẳng phải là Bồ-tát.). 
Cụ thể vô tướng có nghĩa là, không trụ vào sắc thanh hương vị xúc pháp (Trích: Lại nữa Tu-bồ-đề, Bồ-tát đối với pháp nên không có chỗ trụ mà làm việc bố thí, gọi là chẳng trụ nơi sắc để bố thí, chẳng trụ thanh hương vị xúc pháp để bố thí. Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát nên như thế mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng.). 
Bởi vì, như trường hợp cái bình, muốn thấy pháp vô trụ tướng thì phải lìa cả hai tướng “có bình” và “không bình” mới thấy ngôi nhà trống bao trùm hai tướng này (Trích: Phật bảo Tu-bồ-đề: Phàm những gì có tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai.).
Tương tự, như trường hợp niệm khởi và diệt, phải lìa cả hai tướng “niệm khởi” và “niệm diệt” mới nhận ra bầu trời Bản Tâm (vốn là vô tướng) bao trùm cả hai tướng niệm khởi và niệm diệt (Trích: Nếu còn chấp tướng pháp tức còn chấp ngã nhân chúng sanh thọ giả. Vì cớ sao? Nếu còn chấp tướng phi pháp tức còn chấp ngã nhân chúng sanh thọ giả. Thế nên không nên chấp pháp, không nên chấp phi pháp. Bởi do nghĩa ấy, Như Lai thường nói: Tỳ-kheo các ông nên biết, ta nói pháp ví dụ như chiếc bè, pháp còn nên bỏ, huống là phi pháp.).
Pháp này cũng có thể gọi là vô niệm, hay tâm vô trụ. Khi thấy Bản Tâm vốn rỗng lặng như thế mới thấy là không có gì để tu, vì không nương vào tướng niệm để tu, như thế mới đúng là trang nghiêm cõi Phật (Trích: Trang nghiêm cõi Phật tức không phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm… các Bồ-tát lớn nên như thế mà sanh tâm thanh tịnh, không nên trụ nơi sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia.).
Do vậy, khi Bồ Tát ra sức độ tất cả chúng sanh vẫn không thấy có người độ và người được độ (Trích:  Phật bảo Tu-bồ-đề: Người thiện nam, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên sanh tâm như thế này: Ta nên diệt độ tất cả chúng sanh, diệt độ tất cả chúng sanh rồi mà không có một chúng sanh thật diệt độ. Vì cớ sao? Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả ắt không phải là Bồ-tát. Vì cớ sao? Tu-bồ-đề, thật không có pháp phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.). 
Tới đây Đức Phật chỉ vào Bản Tâm, nơi không hề có một tướng nào để tâm ba thời vin vào, vì thực tướng vốn vô tướng, và vì đó là Cái Không Bất Động bao trùm cả Hữu và Vô (Trích: Phật bảo Tu-bồ-đề: Trong các cõi nước đầy dẫy như thế, có tất cả chúng sanh có bao nhiêu thứ tâm, Như Lai thảy đều biết. Vì cớ sao? Như Lai nói các tâm đều không phải tâm, ấy gọi là tâm. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được.).
Câu hỏi có thể nêu lên, rằng nên quán các pháp thế nào? Đức Phật trong Kinh Kim Cang nói lên bài kệ: 
Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng, huyễn, bọt, bóng,
Như sương cũng như điện,
Nên khởi quán như thế.

Đó là tóm lược vài ý từ Kinh Kim Cang. Và khi tóm lược, hiển nhiên là không đầy đủ. Chúng ta có thể nhắc rằng nhà thơ Nguyễn Du đã từng tụng cả ngàn lần Kinh Kim Cang, vẫn thấy lời dạy của Đức Phật ảo diệu khó hiểu, cho tới khi tới thăm Phân Kinh Thạch Đài mới đột nhiên hiểu ý “kinh không chữ mới là kinh chân thật…” 
Cần ghi nhận rằng, Kinh Kim Cang và Tâm Kinh không chỉ là cốt tủy của Thiền Tông, mà còn là của Phật giáo Bắc tông. Truyền thống Phật giáo Nam tông không thọ trì hai kinh này, vì là kinh hậu tác (sau thời Đức Phật vài trăm năm). Nhưng thực ra, tinh thần nội dung hai kinh này là thuần túy nằm trong các lời Đức Phật dạy trong các năm đầu tiên ngài hoằng pháp.
Nhà sư Nam Tông Bhikkhu Sujato, Trưởng Ban Biên Tập SuttaCentral (trang web Phật học nhiều ngôn ngữ nhất và lớn nhất hiện nay) và cũng là một vị sư dịch Tam Tạng Pali sang tiếng Anh, nhận định rằng hai kinh này do một số vị sư soạn ra cho Tạng Sanskrit để phá một số kiến chấp của các vị sư A Tỳ Đàm. Chúng ta có thể đoán rằng trong thời phân chia bộ phái, vài trăm năm sau thời truyền khẩu mới chép vào chữ Pali, Sanskrit, Kharosthi (dùng cho Tạng Gandhari), và rồi Tạng Sankrit được dịch sang tiếng Tây Tạng, tiếng Trung Hoa… tinh thần bộ phái có thể làm các sư gạt bỏ một số kinh này, kinh kia.
Ngài Sujato nói rằng Kinh Kim Cang và Tâm Kinh tuy hậu tác nhưng mang đúng tinh thần lời Phật dạy trong các năm đầu hoằng pháp, đó là vô-ngã, là như huyễn, là không có gì để nắm giữ hay trụ vào, và pháp chỉ là chiếc bè qua sông. Nơi đây, xin phép trích dịch một vài câu từ bài nhận định dài của Bhikkhu Sujato:
Kinh Kim Cang là một phần trong hệ văn học Bát Nhã Ba La Mật, một thể loại Kinh Đại Thừa sáng tác khoảng 500 năm sau Đức Phật. Trong khi phần nhiều Bát Nhã Ba La Mật rất dài và rườm rà, Kinh Kim Cang và Tâm Kinh lại ngắn, chiếu sáng cốt tủy triết lý Bát Nhã Ba La Mật vào một hình thức ngắn và dễ đón nhận, do vậy được ưa chuộng. Một cách lịch sử, hệ Bát Nhã Ba La Mật khởi dậy như đáp ứng đối với và phê bình đối với hệ A Tỳ Đàm (Abhidharma). Theo nhận định này, các luận sư A Tỳ Đàm (phần chủ yếu là phái Sarvastivada, tức Nhất Thiết Hữu Bộ) đã lạc mất Chánh pháp, tự mạn đưa vào kiến thức phân tích và nông cạn của họ, trong khi bỏ mất đạo vị chân thực của giải thoát và trí tuệ sâu thẳm. Chủ đề chính của Bát Nhã Ba La Mật là vô-ngã. Họ lý luận rằng các luận sư A Tỳ Đàm đã biến Chánh pháp thành cái được chấp giữ và có cái gì để tự thấy mình đồng hóa vào, chứ không nhìn như chiếc bè để qua bờ kia.” (The Vajracchedika (Diamond Sutra) is part of the Prajnaparamita literature, a class of Mahayana Sutra that was composed around 500 years after the Buddha. While much of the Prajnaparamita is extremely long and verbose, the Diamond and Heart Sutras are quite short, crystallizing the essence of the Prajnaparamita philosophy into a brief and palatable form, hence their popularity. Historically, the Prajnaparamita arose as response to and critique of the Abhidharma. According to this critique, the Abhidharma theorists (primarily of the Sarvastivada school) had lost the point of the Dhamma, priding themselves on their shallow and analytical knowledge, while missing the true taste of deep wisdom and freedom. The key theme of the Prajnaparamita is not-self. They argued that the Abhidharma theorists had turned the Dharma itself into something to be attached to and identified with, rather than as a raft for crossing over.) (11)
Nơi đây, chúng ta thảo luận về Hạnh Bồ Tát nhưng không mang tinh thần bộ phái. Chủ yếu chỉ khảo sát từ kho tàng Phật học mênh mông để tìm một số lời dạy thực dụng để tu học cho đúng Chánh pháp. Trong đó, tận cùng vẫn là lời Đức Phật dạy rằng chớ nên nắm giữ một quan kiến nào, như trong Kinh Tập Sn 4.3 đã dẫn ở đầu bài, nằm trong nhóm kinh nhật tụng của chư tăng trong các năm đầu khi Đức Phật hoằng pháp: “Bài kệ 787: Làm sao, và về những gì, những kẻ dính vào tranh cãi về các giáo thuyết có thể tranh cãi với người không dính mắc gì? Không nắm giữ bất cứ gì, và không bác bỏ bất cứ gì, người ấy rũ bỏ bất kỳ cái nhìn nào nơi đây.” Cũng có nghĩa là hoàn toàn không thấy một tướng nào khởi lên trong tâm để nắm giữ lấy.
GHI CHÚ:






Hành Trình đến Đỉnh Whitney - Journey to Whitney


Adventure Program / Chương Trình Dã Ngoại  
Walk With Me Mindfully (III) 
 Đồng Hành Trong Chánh Niệm (III)
Hành Trình đến Đỉnh Whitney 


Walk With Me Mindfully (III)
Promoting outdoor activities / hiking / backpacking / meditation for the our youths and GĐPT

What: Applying Buddhism and GĐPT principles and activities into the real life. 
Where: High Sierra Trail 
When: July 31-August 5, 2020
Why: For the love of outdoor, GĐPT, mindfulness, and Buddhism. 
Coordinators: Hiep Nguyen and Phe Bach 
(Htr. Tâm Định và Tâm Thường Định)
Participants: All three of us and maybe you (Htr. or ngành Thanh).
Space is very limited to 4: First come first serve by July 15th, 2020.
Cost: Free of charge, but must have an open heart and mind, smile and kindness along with the ability to walk and breathe. 
Contact: @ScottieNguyen, @PheBach


"Tôi có một ý tưởng! Tôi muốn đem lá cờ này, tôi muốn đem màu Lam này đến những nơi mà tôi muốn đến! Chinh phục những ngọn núi cao, thiên nhiên hùng vỹ. Để màu Lam này được trải khắp mọi nơi! Để tiếp nối thế hệ trước, để màu Lam này được trường tồn mãi mãi! Bây giờ chuyến đi của tôi lại thêm một ý nghĩa cao cả. Công sức bỏ ra thật xứng đáng. Nhìn xa xa đó chính là Half Dome. Niềm ao ước được chinh phục. Cơ mà bây giờ chưa được, kỹ năng, sức khỏe còn yếu. Nhưng một ngày nào đó lá cờ này sẽ được cắm trên đỉnh đó!" @TienZomby Tran - Location: Tunnel View, Yosemite

The Trail Overview:

The 71-mile High Sierra Trail traverses the Sierra Nevada from Crescent Meadow in Sequoia National Park to Mt. Whitney and Whitney Portal on the eastern slope. This famous hike crosses some of the most rugged country in the Sierra, following the Middle Fork of the Kaweah River to its headwaters at Kaweah Gap and then dropping into the Kern River Canyon before swinging east again toward Mt. Whitney. Plan to enjoy a dip in the Kern Hot Springs along the way. Some hikers make an early morning start on their last day in order to experience sunrise on Mt. Whitney.


Campsites are plentiful along the route, and bear boxes are available at most popular stopping spots.


Strenuous Itinerary - Trail Detail:

Day 1 - Crescent Meadow to Bearpaw Meadow, 11.4 miles
Day 2 - Bearpaw Meadow, over Kaweah Gap and down to Big Arroyo Junction, 11.1 miles
Day 3 - Big Arroyo Junction, climb 1000' and then descend into Kern River 13 miles
Day 4 - Kern River to Junction Meadow, 9 miles
Day 5 - Junction Meadow to John Muir Trail at Wallace Creek, 4.7 miles
Day 6 - Wallace Creek to above Guitar Lake, 8.5 miles
Day 7 - Above Guitar Lake to Mt. Whitney and then down to Whitney Portal, 14.9 miles

The most difficult days on the trail are crossing Kaweah Gap, ascending and then descending into the Kern River Canyon, and - of course - Mount Whitney.

High Sierra Trail - Key Facts

Location: Sequoia National Park
Trailhead: Crescent Meadow, elevation 6,687 feet
First pass: Kaweah Gap 10,700 feet
Lowest point (midway): Kern River Canyon 6,705 feet
Highest point: Mt. Whitney, 14,508 feet
Whitney Portal: 8,323 feet
Total elevation gain: ~15,000 feet
Total elevation loss: ~13,000 feet
Hiking Distance: 71 miles
Best seasons: Mid-summer through fall

Just getting to the trailhead is a journey in itself. The trail is fairly flat (there are a few hills to climb) but the terrain is challenging. Sections of the trail are completely impassable at high tide, making timing and tide chart knowledge essential. And the weather is highly unpredictable.


This 6-day trip with will have time to relax and have more time in the wilderness. We have more time to practice walking mindfully 

We'll do meditation multiple times of day. Đêm Tâm Tình Lam và chia sẻ kiến thức Phật Pháp. 


Transportation:
We will need 2 cars at both trailheads. I can drive my car if anyone has a high clearance car we can use it otherwise we should rent a high clearance car. 

Please refer to these articles for details:
http://www.highsierratrails.com/high_sierra_trail/trail.html


Essential Gear:
Sleeping System:
-Sleeping bag (compact is key)
-Sleeping pad (must have)
-Backpacking Tent ( please bring a 1 or 2 person tent only, please ask Mr. Hiep for gear borrowing. I have one person tent, I will lend it)

Clothing system:
-3x Base layer ( any quick dry clothes, NO cotton)
-1x Mid layer ( any down or synthetic jacket, lightweight jacket that keeps you warm)
-1x Shell (a rain jacket, a rain pant is recommended because we my hike in the water due to high tide)
- 2x hiking pants, quick-dry material 
-A hat ( we will hike directly under the sun, not much shade)
- An optional fleece pant to sleep at night
- At least 2 pair of hiking socks (such as SmartWool Mountaineering Socks, Darn Tough Mountaineering Sock. Good socks will prevent blister)
- Hiking shoes/Hiking boots (water shoes is optional if we must hike in the tide)

Cooking system:
- a bowl or a cup for food or drink tea.
- a water reservoir or water bottles that can carry at least 2L water (osprey hydraulic, Platypus® hydration packs or something like that)
- Cooking stove/ gas canister 
- A Bear Canister 
- Water filter system 

Food:
- Snacks for lunch (trail mix, Payday bar, Clif bar, PROBAR, dried fruits, turkey....)
- Some noodles for breakfast but you should keep it compact
-I will be buying backpacking food for you guys, its cheaper than REI!
- No Fruits

Other: 
- First aid kit
-Toiletries ( sunscreen, bug spray)
- Headlamp / flashlight (must have)
- a small knife (optional)
- hiking poles 
- some toilet paper

After sorting your gear, please weight it! you whole backpack (include food and water) should weigh under 40lbs, under 35lb is recommended, under 30lb is ideal. If your weight is over 40lbs, it will make your trip worse. please leave some unwanted. My philosophy is all about minimalism, the less you carry, the more freedom you will have.

Prepared by: @ScottieNguyen, @PheBach



High Sierra Trail entering from Sequoia and out at Whitney Portal.
7/31 - Travel and set up
8/1 - 9 mile creek
8/2 - Precipice Lake
8/3 - Kern Hot Springs
8/4 - Guitar Lake
8/5 - Whitney, descend. hotel
8/6 - Pick up vehicles, drive home

Training schedule
- Cucamonga Peak
- Mt Baldy
- Mt San Jacinto
- El Cajon Mountain
Northern Cal folks please do a whole lot of stairs, and walk with 30lbs bag.
CLOTHING
  • Check from head to toe, get yourself light weight stuff. You only need 2 sets of clothes and one more to be left in the car for changing after the hike.
  • Beanie/face cover/mosquito net/hat
  • Base Layer (2 pieces) - I use Under Armour, Ice Breaker
  • Mid Layer (1 piece) - I use Arc'Teryx Atom Hoody
  • Shell (1 piece) - I use Arcteryx Beta Shell
  • Underwear (2 pieces) - Exofficio or Ice Breaker
  • Short (2 pieces) - Prana Stretch Short
  • Legging (1 or 2 pieces) - Ice Breaker or Patagonia

  • Socks (2 pairs) - I use Darn Tough socks
  • Shoes - Lowa Regegade or Zephyr
  • Knee braces, compressions - Your liking

OTHERS
  • Multi-day Pack - Gregory or Osprey are excellent choices.
  • Lightweight, no more than 3lbs personal tent or Bivvy
  • Trekking Poles - Black Diamond Rock Shock
  • Sleeping Bag (3 season is suffice) - I use Western Moutaineering
  • Sleeping Mat (A MUST) - Learn to choose the right one here https://www.rei.com/learn/expert-advice/sleeping-pads.html
  • Headlamp - I use Fenix
  • GPS Watch - Garmin or Suunto or whatever you like
  • Water filtration system - MSR
  • Boiler - MSR or Jetboil (2 per person)
  • Fuel - 1 large fuel is enough for 5 days for 2
  • Sunglasses, sunscreen, tylenol, bandages, pepto, Toilet Paper, Wipes, etc.
  • DEETS, expect bugs especially low lying valleys and creeks

6/29/2020 - TRAINING SCHEDULE
  • Please do a lot of stairs and hill walking
  • If you can do a 10 miles hike from now until the trip once/week, that would be perfect
  • Focus on your diet
  • If you are lucky like us in Socal, please plan to have EVERY Saturday available from now until the trip, as we will go out and hike Cucamonga, Baldy, San Jacinto
  • Stairs, stairs, stairs or hills hills hills. Keep walking at your own pace. Then walk with a 30lbs bag.

Andrew Lâm: Văn hóa gia đình



Văn hóa gia đình


Buổi tiệc sinh nhật cậu tôi nhanh chóng biến thành một ngày chúng tôi cùng trị liệu tâm lý tập thể trong gia đình.
Có lần, đại gia đình tôi tụ tập từ khắp nơi trên nước Mÿ để ăn mừng sinh nhật người cậu tại nhà anh tôi ở Fremont, California. Đó là kỷ niệm tôi sẽ không bao giờ quên. Bởi vì thay quà tặng, cậu đưa ra yêu cầu khác thường: mọi người phải chọn và hát một vài bài trên máy karaoke.
Khi động tới những vấn đề tình cảm, chuyện tình yêu, các thành viên trong gia đình tôi gần như không thể diễn đạt. Một cái gì đó vô hình trong văn hóa của người Việt ngăn cản sự thân mật bằng lời nói. Là một đại gia đình di cư từ Việt Nam tới Mỹ, chúng tôi hiếm khi chia sė với nhau những gì chúng tôi thực sự cảm thấy, những mất mát, những nỗi buồn mỗi người từng ôm ấp riêng trong lòng mình.
Cậu tôi, người đi qua cuộc ly hôn đau buồn, đã không thể kể cho gia đình tổn thương sâu sắc của mình. Vẫn còn yêu vợ, nhưng cậu bị ám ảnh bởi những ký ức chiến tranh, dễ nổi cơn thịnh nộ và hưng cảm làm cô ấy không thể chịu đựng. Cậu che giấu vết thương lòng bằng những trò đùa. Có lần, ông nói trong lúc say, "đàn ông Việt Nam không khóc ra ngoài. Nước mắt nó chảy vào trong, chảy ngược vào tim".
Nhưng trong bữa tiệc hôm ấy, chúng tôi phát hiện ra rằng, những gì không thể nói ra lại có thể hát lên thành lời. Em họ tôi, cũng chất chứa nỗi niềm sau chia tay người vợ, hát bài "Delilah" với giọng đau lòng. Và cả gia đình cùng hát theo như thể chúng tôi chia sẻ nỗi đau của cậu ấy: "Tại sao, tại sao, tại sao Delilah? Delilah của anh!"
Một người cô khác, đang trong tình trạng suy giảm sức khỏe, đã cầm lấy micro hát ca khúc từ phim Bác sĩ Zhivago dành tặng cho tất cả mọi người. "Một nơi nào đó người tình của tôi ơi, sẽ có mùa xuân...", cô hát trong tiếng thì thầm khàn khàn và lạc điệu, "rót thêm tình tôi, cho đến khi người là của tôi một lần nữa". Tôi thấy trên mặt vài người những giọt nước mắt lặng lẽ khi nghe người phụ nữ gầy gò và ốm yếu hát đầy biểu cảm.
Sau một vài "ca sĩ" nữa, đến lượt cậu tôi. Cậu chọn bài hát tiếng Việt nổi tiếng có tựa đề "Niệm khúc cuối". Giọng cậu tuyệt vời. Nhưng nửa chừng, khi nhìn ba đứa con trong số khán giả đang lắng nghe, cậu nghẹn ngào. Người chị thân nhất của cậu nhanh chóng nắm lấy chiếc micro, đặt tay lên vai em mình và hoàn thành bài hát: "Tình ơi, dù sao đi nữa, tôi vẫn yêu em...". Khi đó, nước mắt của cậu tôi không còn chảy ngược vào tim nữa. Cậu đã khóc trước mặt mọi người. 
Chiều hôm đó, lắng nghe những người thân trút bầu tâm sự, tôi mới thực sự hiểu: phải thật can đảm mới dám bày tỏ tâm hồn. Chúng tôi từ lâu đều chất chứa quá nhiều nỗi đau trong những con tim rụt rè, chỉ có đêm hôm đó, lần đầu hé mở với những người thân yêu.
Trong thói quen văn hóa có phần bảo thủ của người Việt, sự thổ lộ tình cảm ít khi được khuyến khích. "Uất ức thì cắn răng mà chịu" là một câu mẹ tôi thường nói. Những uẩn ức đó dù không thể nói, nhưng cuối cùng có thể hát lên được, và thậm chí được hoan nghênh trong gia đình.
Khi tôi chứng kiến người thân thổ lộ cảm xúc, ký ức về những khoảnh khắc xa xưa ùa về. Tôi lại thấy ba rụt rè cố gắng nắm tay mẹ tôi vào một buổi tối nào. Cử chỉ của ông khiến bà bối rối nên rút tay ra khỏi tay ba. Mẹ không kịp thấy vẻ thoáng buồn trên khuôn mặt chồng mình. Tôi lại nhìn thấy bà nội tôi, vào một đêm khuya, bước vào phòng khách để đặt một phong bì vào giữa cuốn sách toán của anh tôi. Anh đã cố gắng tiết kiệm tiền để mua một chiếc xe cũ lái đi học. Trong phong bì là một nửa khoản an sinh xã hội của bà, với dòng chữ "Nội cho con". 
Và tôi thấy mình nói lắp vào tối hôm nào, một vài năm sau khi học đại học, không thể tạo thành từ tiếng Việt khi mẹ hỏi: "Có chuyện gì vậy con?". Mọi thứ đã hỏng. Tôi đã muốn nói với mẹ, rằng tình yêu của đời con đã rời đi và tim tôi đang chảy máu. Nhưng đó không phải là cách nói giữa mẹ và con. Tôi dường như thành kẻ bướng bỉnh, từ chối bày tỏ lời đau đớn của trái tim. Tôi chỉ có thể đáp lại bà: "Không có, con chỉ mệt thôi".
Nếu sự kiềm chế cảm xúc vẫn được coi là vẻ đẹp trong tư duy Nho giáo và sức chịu đựng mà không kêu ca được coi là một đức tính truyền thống, thì quan niệm đó, khi thực hành như một thói quen sẽ gây hại cho người đang sống trong xã hội phức tạp hiện đại. "Làm thôi, đừng nói" là thói quen được cổ vũ hàng nghìn năm của chúng ta. Nhưng nhiều khi, sự thiếu giao tiếp dịu dàng bằng lời nói khiến tôi cảm thấy như mất mát điều gì.
Tôi cũng hát nhiều bài trong tiệc sinh nhật của cậu. Những bài hát về kẻ thất tình, về sự hồn nhiên đã mất, về trái tim tan vỡ. Nhưng bài hát tôi dành tặng cho tất cả thành viên trong gia đình mình là "Anh có một người bạn" của Carol King. "Khi anh buồn và gặp đầy khó khăn. Khi anh cần một bàn tay nâng đỡ. Khi anh lạc hướng, hãy nhắm mắt lại và kêu tên em. Em sẽ chạy đến bên anh". Đó là cảm xúc thật từ đáy lòng, và trước mặt những người thân yêu, tôi cũng hát lên với một giọng đầy biểu cảm. Và tôi hát thật to.
Chúng ta không thể bắt mọi gia đình Việt, nơi các thành viên vốn sống khép kín về cảm xúc riêng tư, thổ lộ hết mọi điều. Nhưng chúng ta có tình yêu thương, và đừng quên cất lời yêu thương ấy khi có dịp, với những người thân thiết. Bởi chẳng ai đủ mạnh mẽ để một mình chống chọi mãi với những nỗi buồn đã đi qua đời mình.
Andrew Lâm
Nguồn: https://vnexpress.net/van-hoa-gia-dinh-4111640.html

In Celebration of the Karaoke, Vietnamese Style

This post was published on the now-closed HuffPost Contributor platform. Contributors control their own work and posted freely to our site. If you need to flag this entry as abusive, send us an email.
Below is an excerpt from my book, East Eats West: Writing in Two Hemispheres, published in 2010. Sadness and joy and yearnings and stories of broken hearts all found expression through this interactive entertainment contraption, For many Vietnamese it's a godsend.
SAN FRANCISCO--On the recent occasion of my uncle's birthday, my clan gathered from all over the country to celebrate. Instead of gifts, however, he had an unusual birthday wish: Everyone was asked to pick and sing a song on the karaoke.
What began as an amusing exercise in merriment turned quickly into something I can only now describe as our first and only session in family group therapy.
When it comes to matters close to the heart, my family is notoriously inexpressive. Something within our taciturn culture discourages verbal intimacy. Immigrants and refugees from Vietnam, we rarely ever communicate to one another what we really feel, and our losses and sorrows we often digest differently and alone.
My uncle, who was going through a painful divorce, had not been able to convey to the family his profound sadness. He was still in love with his wife, but, haunted by memories of the war in which he took part and prone to bouts of rage and mania, she had had it with him. He masked this with jokes, and once said while drunk, "Vietnamese men don't cry outward. Our tears flow inward, back into the heart."
But at the birthday bash we all discovered that what we could not talk about, some of us could at least sing out loud.
Thus the cousin whose wife took off and left him high and dry sang "Delilah" with a heartbreaking voice. And we managed to tell him that we were sorry for his troubles by signing along with every refrain, "Why, why, why Delilah? My, my, my Delilah!"
Another aunt, who was now in declining health, took the mike to sing the theme song from Doctor Zhivago, dedicating it to the rest of us. "Till then, my sweet, think of me now and then," she sang in a hoarse whisper and out of tune. "God, speed my love, 'til you are mine again." A few of us cried quiet tears as we listened to that thin and frail woman sing gamely on.
2013-01-11-getdata.asp.html.jpeg2013-01-11-getdata1.asp.html.jpeg

The author's family in Vietnam @1965
After a few more singers, it was Uncle's turn. He chose a well-known Vietnamese song titled, "Come What May, I Will Always Love You." His was a beautiful voice, but halfway through, as he looked at his three grown children, he choked. Another aunt, his closest sister and confidante, quickly grabbed his mike, put her hand on his shoulder and finished the song. Meanwhile, my uncle's tears were flowing outward, finally, in front of his entire clan.
That afternoon I watched and listened in amazement as my relatives laid bare their hearts before me. It was as if words when sung or turned poetic become acceptable and even welcomed in an Asian immigrant culture, where love and resentment often flow subterraneously.
As I witnessed their sadness, memories of moments with my own immediate family rushed up before me.
I saw again how timidly my father tried to hold my mother's hand in front of us one evening, and how she, embarrassed, pulled her hand from his grasp and failed to see the subsequent hurt look on his face.
I saw again my long dead grandmother late one night tiptoeing into the living room to put an envelope between the pages of my older brother's math book. He had been trying to save enough money to buy a used car so he could drive to college. On the envelope in which she put half of her social security income, she wrote succinctly: "Noi cho con" (For my grandson).
And I saw myself stuttering that evening long ago, a few years after college, unable to form Vietnamese words when my mother asked, "What's wrong?" Everything was wrong, I had wanted to tell her. The love of my life had left and I was bleeding inside. But that was not our way, and my Vietnamese is unruly, refusing to give lyrics to the murmurs and pangs of the heart. All I managed to say was, "Nothing, mom, I'm just tired."
2014-09-23-377355_10151171920373118_14965930_n.jpg

The author and his mother singing on her 80th birthday.

"Hugging, kissing, some loving words should be simple but in my parents' world they don't exist," complains a Chinese American friend whose parents came from Shanghai. "I don't think my parents ever said 'I love you,'" noted another whose parents come from Taipei. Affection, he observes, comes in strange ways within his family. "They might say vaguely: 'how can parents not love their children?' as an indirect way to express love, but to say 'I love you' is jut too difficult."
If emotional restraint is still considered the utmost beauty in some Confucian mindsets, and endurance without complaints a virtue, these ideals, when practiced blindly, fail many of us who now live in the complex, modern world called the West. "Show, don't tell" is our millennia-old ethos. But despite my mother's subtle way of saying "I love you" in the impeccable dishes she serves whenever I visit, the lack of verbal communication leaves me wanting.
What song did I sing at my Uncle's birthday party? I sang many. Songs about broken hearts, about lost innocence. But the one I dedicated to my entire clan was Carol King's "You've Got a Friend."
You know the lyrics: "When you're down and troubled and you need a helping hand, and nothing, nothing is going right. Close your eyes and think of me. And soon I will be there." It was the sentiment I felt, and in front of my family I, too, sang my heart out.

Andrew Lam is an editor with New America Media and author of "Perfume Dreams: Reflections on the Vietnamese Diaspora," and "East Eats West: Writing in Two Hemispheres." His latest book is "Birds of Paradise Lost," a short story collection, was published in 2013 and won a Pen/Josephine Miles Literary Award in 2014.

Source: