Tuesday, February 7, 2023

Richard L. Kimball | Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Hòa Thượng Hsing Yun: Quan Niệm về Phật giáo Nhân Văn (P.1)

 

Mục đích của bài viết này cho thấy Phật giáo Nhân văn đã phát triển như thế nào hơn 2500 năm trước và đã “tái xuất hiện” trong thế giới ngày nay một phần nhờ vào những nỗ lực kiên định của Đại sư Hsing Yun, thuộc Dòng Phật giáo Phật Quang Sơn, ngôi đền chính ở miền nam Đài Loan.

Từ sự khởi đầu ở miền bắc Ấn Độ bởi Thích Ca Mâu Ni Gautama cho đến thời kỳ phục hưng hiện tại, Phật giáo đã trải qua nhiều biến đổi và phát triển. Đại sư Hsing Yun đã cố gắng nắm bắt tinh túy nguyên thủy từ những lời dạy của Đức Phật, đặc biệt là những điều liên quan đến ứng dụng trong thế giới ngày nay, cũng như phát triển những cách giải thích mới phù hợp với nhu cầu hiện tại. Ông đã xây dựng niềm tin cũng như hành động của mình không chỉ dựa trên giáo lý nguyên thủy của Đức Phật mà còn dựa trên kinh nghiệm và hiểu biết sâu sắc của các bậc thầy trước đó như Tổ sư thứ 6 của Thiền tông, Ven. Huệ Năng, và Ven. Tài Xiu.

Đức Phật đã dạy cách vượt qua khổ đau trần gian cũng như cách đối phó với những vấn đề hàng ngày trong cuộc đời này. Ngài ủng hộ sự bình đẳng của mọi người, sự liên kết của tất cả chúng sinh, sự thiêng liêng của cuộc sống và tạo ra các nguyên tắc liên quan đến việc phát triển lối sống tích cực. Dựa trên những lý tưởng nhân văn này, Grand Master thúc đẩy việc tích hợp những lời dạy của Đức Phật về lòng tốt, lòng từ bi, niềm vui và sự bình đẳng vào cuộc sống hàng ngày vì lợi ích của cả bản thân và người khác. Ông đã tạo ra một mạng lưới các ngôi chùa và phân hội trên toàn thế giới hoạt động để mang Phật giáo đến mọi nơi trên hành tinh này. Ông hy vọng rằng thông qua quá trình này, một Cõi Tịnh độ có thể được phát triển ở đây để tất cả chúng sinh có thể sống cuộc sống của họ một cách tích cực hầu tiến lên những cấp độ cao hơn của sự tồn tại như Bồ tát, Phật quả và Niết bàn.

Bài viết này cho thấy làm thế nào mà Đại sư đã hiện diện giữa sự hỗn loạn của Trung Quốc những năm 1940 để tạo ra hệ thống Phật Quang Sơn đang ảnh hưởng đáng kể đến nhiều nền văn hóa, thông qua các bài viết, giáo lý và hành động xã hội của ông. Cuối cùng, tương lai của Phật giáo Nhân văn được khám phá thông qua nghiên cứu cấu trúc hiện tại của Fo Guang Shan và thu thập quan điểm từ nhiều thành viên trong đó bao gồm cả chính Grand Master.

DẪN NHẬP

Chúng ta đang sống trong thời hiện đại. Phật giáo phải thay đổi cách thức truyền thống của mình bằng cách ra khỏi cánh rừng và đi vào xã hội. Chúng ta phải mở rộng chức năng của các ngôi chùa để phục vụ cộng đồng thông qua sự tham gia của các gia đình, quốc gia và thế giới … v.v. nhằm thúc đẩy sự hòa hợp, hiểu biết và tình bạn giữa tất cả mọi người.  – Đại sư Tinh Vân.

Trọng tâm của bài viết này là về Phật giáo Nhân văn, cố gắng mô tả và giải thích cốt lõi các ý tưởng, giáo lý và thực hành của Đại sư Hsing Yun. Bởi vì không ai có thể giải thích đầy đủ hoặc chính xác niềm tin của người khác, và do Phật giáo Nhân văn liên tục “tái hình thành” trong thế giới ngày nay, phần trình bày này chỉ hạn chế dựa trên các bài thuyết pháp mở rộng, kinh nghiệm trực tiếp, các cuộc phỏng vấn và thực hành cá nhân của tôi trong vài năm qua. Ngoài ra, tài liệu bằng văn bản có liên quan đến chủ đề trên đã được đưa vào bài diễn văn này như là bằng chứng hỗ trợ. Tôi sẽ cung cấp cho người đọc quan điểm của Grand Master được thể hiện trong các tham số mà tôi đã và đang làm việc.[1]

Theo Fernando, “cái gì” (nội dung) của Phật giáo Nhân văn sẽ tạo thành công việc cốt lõi của bài viết này, nhưng cả “làm thế nào” và “tại sao” cũng được đưa vào bởi vì; “tại sao” và “như thế nào” xác định “cái gì” (xem Antony Fernando, trang 127). Không có “làm thế nào” và “tại sao”, “cái gì” không thể được hiểu đầy đủ. Tôi tin rằng để giải quyết một chủ đề đa dạng và sâu sắc như Phật giáo Nhân văn, chúng ta cần có một tầm nhìn rộng hơn là chỉ có được từ những thông tin cơ bản. Do đó, bài viết này sẽ minh họa nội dung những lời dạy của Đại sư Hsing Yun một cách đầy đủ nhất có thể, cũng như nguồn gốc và quá trình được sử dụng trong sự phát triển của chúng. Kết quả của những ý tưởng/niềm tin/giáo lý được đưa vào thực tế trong thế giới ngày nay cũng sẽ được trình bày. Bằng cách này, người đọc có thể cảm nhận, ở một mức độ sâu sắc hơn, ý nghĩa của những lời của Grand Master trong bối cảnh của Phật giáo Nhân văn. Cả hai đóng góp lịch sử và hiện tại của Grand Master Hsing Yun sẽ được cung cấp. Trong chừng mực có thể, Phật giáo Nhân văn cũng sẽ liên hệ với giáo lý nguyên thủy của Phật giáo bằng các minh họa, tài liệu tham khảo, trích dẫn và giải thích.

Do đó, mục đích chính của bài viết này là “làm sống lại Ông” cho cộng đồng nói tiếng Anh, để nhiều người có thể hiểu rõ hơn về những đóng góp, lai lịch, lịch sử và ứng dụng của Đại sư Hsing Yun trong thế giới ngày nay.

SƠ LƯỢC VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO NHÂN VĂN

Đạo sư Hsing Yun đã chứng minh rằng chủ nghĩa thực dụng thâm căn cố đế của Phật giáo làm cho nó trở thành một tôn giáo có giá trị ngày nay và mãi mãi. Thêm vào đó, ông chỉ cho chúng ta cách áp dụng những lời dạy của Đức Phật vào cuộc sống hàng ngày của mình… [Đó là]

Phật giáo tham gia phục vụ những người khác và đặt nền tảng trong các cộng đồng tự viện cũng như các tổ chức tại gia dành riêng cho việc giảng dạy và thực hành Phật giáo. Ông tin chắc rằng Phật giáo Nhân văn, trong ý nghĩa thực tiễn của nó, tượng trưng cho mục tiêu của tất cả các trường phái và tông phái Phật giáo trên thế giới, và do đó, phục vụ như một khái niệm thống nhất cho việc xác định lại và giải thích giáo lý Phật giáo vì lợi ích của nhân loại. Hôm nay. (Tiến sĩ Ananda WP Guruge)

Những sự kiện quan trọng trong cuộc đời của Grand Master liên quan đến việc “Trở thành” của ông – Những điều kiện khi bắt đầu

“Phật giáo Nhân văn là đóa sen mới vươn lên khỏi bùn và vươn ra thế giới.” (Đại sư Hsing Yun)

Những năm đầu ở Trung Quốc đại lục

Ông sinh ra trong một gia đình nông dân trung lưu ở vùng nông thôn Giang Đô, tỉnh Giang Tô, miền Đông Trung Quốc vào năm 1927, lúc đó đang xảy ra tình trạng hỗn loạn chính trị / xã hội lớn và bị căng thẳng nặng nề. Nghèo đói và nội chiến tràn lan ở vùng nông thôn nơi cuộc sống mới của ông bắt đầu. Bà của Hsing Yun là một Phật tử thuần thành từ khi bà mười bảy tuổi. Bà ấy là một hình mẫu quan trọng đối với ông ấy, đặc biệt là sự cần cù, tiết kiệm, tốt bụng và khả năng đối phó với những điều kiện mà họ buộc phải sinh tồn. Dưới ảnh hưởng của bà, ông bắt đầu ăn chay khi mới bốn tuổi. Một thời gian sau, ông theo học ở một trường tiểu học địa phương, nơi được coi là một học sinh xuất sắc.

“Mẹ ơi, con sẽ là niềm tự hào của mẹ!”, Hsing Yun nói khi lên 10 tuổi.

“Kinh tế trong nước lúc bấy giờ còn kém phát triển, bắt buộc chúng tôi phải băng qua kênh bằng thuyền để sang bên kia mua hàng. Trong chiến tranh Trung-Nhật, không ai mạo hiểm chèo thuyền qua sông dù chỉ với mười hay hai mươi xu. Khi nhìn thấy điều này, tôi, khi đó mới mười tuổi, đã tình nguyện phục vụ. Tôi đã cởi trần đến thắt lưng, buộc áo sơ mi quanh trán và lao thẳng vào dòng nước đang chảy. Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ trở lại với mọi thứ mà mọi người mong muốn. Những người dân làng giơ ngón tay cái lên cho tôi và nói, ‘Anh hai nhà họ Lý đó chắc chắn là một cái gì đó!’ Nhận ra niềm tự hào không thể nhầm lẫn này trong nụ cười của mẹ tôi đã trấn an tôi và tôi thậm chí còn thề: ‘Con sẽ còn tốt hơn nữa!’” (tr. 6, Balley)

Một năm sau, trong Chiến tranh Trung-Nhật, ông hộ tống người mẹ yếu ớt của mình đi tìm cha mình, người đã rời nhà đi buôn bán nhưng không bao giờ quay trở lại. Trên đường họ đi ngang qua chùa và tu viện Qixia Shan gần Nam Kinh. Vì lý do nào đó, ông ta đã hứa với trụ trì Zhi Kai rằng mình sẽ chịu cắt tóc và từ bỏ cuộc sống trần tục. Mẹ ông đã không cầm được nước mắt khi nhìn thấy quyết tâm của con mình. Bà trở về Jiangdu một mình. Anh lại khẽ nói: “Mẹ, đừng lo lắng. Con sẽ là niềm tự hào của Mẹ!”

Hsing Yun trở thành một `sraama.nera (tu sĩ mới), thọ giới cụ túc ở tuổi 14 (tuổi thông thường là 18) và bắt đầu được giáo dục đạo đức tại trường Qixia Vinaya cũng như trường Cao đẳng Phật giáo Jiao Shan, nơi được chú ý về sự kết hợp thực hành Thiền tông và đức tin Tịnh độ.

Việc giảng dạy trong chùa truyền thống là bằng kỷ luật và khiển trách chứ không hướng dẫn và khuyến khích. Việc cấm các tập sinh trở về nhà dựa trên nỗi sợ hãi rằng việc tiếp xúc với những ảnh hưởng bên ngoài có thể khiến họ mất tập trung và họ sẽ quên đi việc tìm kiếm sự thật. Quá trình đào tạo nghiêm ngặt được cho là để dạy các nhà sư chiến thắng với tinh thần dũng cảm. Nó kéo theo sự chịu đựng đau đớn và nghèo đói. Cuối cùng họ học cách buông bỏ đời sống vật chất.

Hsing Yun áp dụng một hình thức kỷ luật truyền thống không cản trở các trách nhiệm hàng ngày. Ông ăn một bữa trước buổi trưa, chép kinh, thực hành lễ lạy vào ban đêm, thực hành thiền định, giữ im lặng trong thời gian dài, tập trung vào giáo lý của Đức Phật và thực hiện một số khóa nhập thất. Ông không bao giờ sống ẩn dật một mình trong thời gian dài. Những bài tập này không mang lại cho ông ta giác ngộ ngay lập tức, nhưng củng cố khát vọng và niềm tin của mình vào Phật giáo.

Nhiều năm rèn luyện tính cách bằng việc giáo dục khá cứng nhắc và kỷ luật trong khung cảnh tự viện rộng lớn đã giúp ông không chỉ mỉm cười trước những nghịch cảnh của cuộc đời mà còn vui thích tuân theo những người khác. Ông được đặt tên là Wu Che (Pháp danh, nội bộ – “Hoàn toàn thông thái”) và Jin Jue (Tên sử dụng hàng ngày, bên ngoài – “Ngày nay giác ngộ”).

Tuổi trưởng thành ở Trung Quốc đại lục

Trung Quốc, đặc biệt là sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, là một vùng đất rộng lớn nghèo đói. Ngay cả trong các ngôi chùa, thường không có đủ lương thực để cung cấp thức ăn cho tất cả các nhà sư. Họ sống sót với rất ít. Họ ít mặc nên thường run cầm cập trong cái lạnh mùa đông. Những mảnh vải vụn mà những người khác vứt đi đã được biến thành những chiếc tất. Hsing Yun không có tiền. Ông ấy thậm chí không thể gửi bất kỳ bức thư nào cho mẹ mình.

Được nhận vào Cao đẳng Phật giáo Jiao Shan năm 1945, ông thích đọc sách, báo và các thông tin khác. Vào thời điểm ông rời Jiao Shan năm 1947, Hsing Yun đã tu học trong hệ thống tự viện gần mười năm. Ông đã hoàn thành khóa đào tạo về kỷ luật, giảng dạy và giáo lý Phật giáo. Ông cũng đã trải nghiệm sự trọn vẹn trong tinh thần Đại thừa về tầm quan trọng của cả thực hành và hiểu biết. Sau đó, với nhiệt huyết tuổi trẻ, ông bước chân vào một xã hội đầy tai ương và thấy mình bị cuốn vào sự tồn vong của cả quốc gia và đức tin của mình.

Ông sống trong một thời kỳ đầy khó khăn – sự hiếu chiến của các lãnh chúa, sự xâm lược của người Nhật, sự xung đột giữa những người theo chủ nghĩa Quốc gia và những người Cộng sản, sự xâm nhập của các tư tưởng phương Tây và sự đau khổ của người dân thường. Ông hứa sẽ “chấn hưng” Phật giáo để thiết lập hòa bình và an lạc. Ông không thể ngừng suy nghĩ: “Đừng hỏi đạo Phật có thể cho tôi điều gì. Hãy hỏi tôi có thể cho đạo Phật điều gì!” (tr. 50, Fu)

Năm 1947, ông đến chùa Da Jue để trở thành trụ trì và hiệu trưởng trường tiểu học Chùa Trắng. Ở đó, ông đã thành lập một tờ báo hàng tháng và đã bị bắt một vài lần bởi một nhóm “thổ phỉ” (hoặc, theo một số phe đảng, chính phủ Cộng sản hoặc Quốc dân đảng). Ông trở thành viện chủ của chùa Hua Zang ở Nam Kinh vào năm 1948 và biên tập phần bổ sung Ánh sáng huy hoàng cho tờ Xu Bao. Trong một số bài thuyết giảng mở rộng của mình, ông đã xem một cuốn sách khoa học về vũ trụ giải thích vai trò của tinh vân trong việc tạo ra các vì sao. Ông rất ấn tượng nên đã tự chọn tên Hsing Yun (Star Cloud) và thay đổi một trong những thẻ căn cước của mình. Sau đó, trong thời gian luôn phải di chuyển khắp nơi, ông đã làm mất các giấy tờ tùy thân khác và từ đó lấy tên Hsing Yun làm tên chính thức của mình.

Những người theo chủ nghĩa Mao đã tiếp quản hầu hết Trung Quốc vào năm 1949. Hsing Yun mất liên lạc với người mẹ góa của mình trong cuộc Nội chiến này. Ngoài ra, người thầy và người cố vấn vĩ đại của ông là Zhi Kai đã qua đời. Nỗi đau chia lìa hai người quan trọng này càng khiến ông quyết tâm hơn trong việc hoằng pháp. Để được ở một nơi ít hỗn loạn hơn hầu có thể xem xét lại ý định của cuộc đời mình, Hsing Yun và một số nhà sư khác đã tham gia một phái đoàn cứu trợ y tế từ Thượng Hải đến cảng Keelung ở Đài Loan.

Trong nhiều năm ở Đài Loan, Ông cũng phải chịu đựng rất nhiều gian khổ. Ông đến đây mà không có một xu trong mình. Gần như không thể tìm thấy thức ăn và nơi trú ẩn. Những người mới đến từ đất liền bị nghi ngờ. Ông sớm bị bắt cùng những người khác với cáo buộc hoạt động lật đổ vì họ đến từ Trung Quốc đại lục. Bầu không khí chính trị lúc bấy giờ vô cùng hoang tưởng. Cuối cùng, sau khi được trả tự do và nhiều tuần lang thang, ngôi chùa Yuan Kuang ở Chungli đã đón nhận ông. Để tỏ lòng biết ơn, ông bắt đầu phục vụ người khác bằng cách đảm nhận những công việc tầm thường như kéo xe, mua thức ăn, lấy nước, dọn dẹp nhà vệ sinh và đốn củi.

Vào thời điểm đó, Đài Loan được coi là một phần Phật giáo chống Trung Quốc (họ thiên về truyền thống Thiền tông Nhật Bản hơn) và có rất ít chùa, hầu hết đều ở “núi và rừng”. Bất chấp tất cả những vấn đề này, ông coi Đài Loan là “thế giới mới dũng cảm” đối với Phật giáo. Ông chuyển từ những công việc nặng nhọc để tham gia vào rất nhiều công việc giảng dạy (kể cả trong tù), viết lách và xuất bản cũng như thành lập một trường mẫu giáo. Tại chùa Yuan Kuang, dưới thời Master Miao Kuo, ông là tác giả đầu tiên của cuốn sách Hát trong im lặng.

Các tự viện Phật giáo ở Đài Loan không giống như các cơ sở sở hữu đất đai, tự túc của Trung Quốc. Quyên góp từ những người sùng đạo và đóng góp cho các tu sĩ là nguồn nuôi sống chính của họ. Trong những ngày đầu này, Đài Loan đang trong tình trạng khó khăn về kinh tế và hầu bao eo hẹp. Do đó, trong một thời gian dài, cộng đồng Phật giáo loay hoay để cố gắng tồn tại. Phật giáo chủ yếu dành cho các nghi lễ tang tế. Trí thức nhìn Tây, ảnh hưởng của Thiên chúa giáo và Tin lành gia tăng từ cấp lãnh đạo trở xuống.

Nhưng, Hsing Yun đã làm việc siêng năng với thái độ cởi mở, kiên trì, hoàn toàn sẵn sàng và khiêm tốn. Những ấn phẩm ban đầu của ông chủ trương cải cách, mở cửa và cứu vãn Phật giáo ở Trung Quốc và Đài Loan. Theo nhiều cách, những ý tưởng này cực kỳ mạo hiểm vào thời điểm đó. Nhưng càng bị ngăn cản, ông càng mạnh dạn và quyết tâm hơn. Ông luôn tỏ ra là một nhà cách mạng, ủng hộ những thay đổi tích cực và những bước phát triển mới để thay đổi cuộc sống và xã hội. Mục tiêu của ông là quảng bá Phật giáo, chăm sóc và phục vụ người khác. Ông hoàn toàn sẵn sàng cống hiến mọi thứ, thậm chí cả mạng sống của mình, cho sự nghiệp này.

Thường thì ông ấy sẽ “đi ngược dòng” với nền văn hóa lâu đời. Vào thời điểm đó, hầu hết “những người thờ cúng” đều có mối liên hệ với các ngôi đền gia đình, Đạo giáo, Nho giáo hoặc Mật Tổ. Thanh niên có thể bị thu hút bởi Phật giáo nhưng sau khi bắt buộc thực hiện nghĩa vụ quân sự, họ đã mất hứng thú và sa vào những cám dỗ của xã hội. Bất chấp những thử thách và gian khổ đó, ông đã viết bài vào ban đêm sau những ngày dài lao động chân tay. Ngay cả khi phải đi khất thực, ông nguyện sẽ làm việc cho giáo dục và truyền bá giáo lý của Đức Phật.

Hsing Yun được một cư sĩ Phật tử yêu cầu dạy Phật giáo ở Ilan vào năm 1952 tại chùa Lôi Âm, được xây dựng từ thời nhà Thanh. Các điều kiện ở đó rất cơ bản và hướng nội. Đài Loan vẫn quay cuồng với gần một thế kỷ dưới sự cai trị áp bức của Nhật Bản, tỷ lệ giáo dục thấp trong người dân và nỗi sợ hãi của người ngoài. Việc “vươn tay” của ông thường bị coi là đe dọa, nhưng ông vẫn kiên trì. Đây là cơ hội đầu tiên để ông thực sự thực hành quan niệm của mình về một hình thức Phật giáo Nhân văn. Ông thuyết pháp thường xuyên, chủ trì các buổi lễ tụng kinh, thành lập một dàn hợp xướng thanh niên Phật giáo để biểu diễn trước công chúng, viết cho tạp chí Awakening the World và Đạo Phật ngày nay, giúp đỡ các dự án xây dựng và giáo dục thanh thiếu niên cũng như quảng bá nghệ thuật. Cuối cùng ông đã có thể tạo ấn tượng tích cực với người dân Đài Loan.

________________________

[1] Thường thì thế giới phương Tây chưa phát triển vốn từ vựng để diễn đạt nhiều điều minh định của Phật giáo. Ngay cả những từ tiếng Anh phù hợp nhất của chúng ta cũng chưa có độ liên kết sâu cần thiết để truyền đạt ý nghĩa đầy đủ của các thuật ngữ truyền thống. Khi viết bài nghiên cứu này, tôi thường diễn giải, tổng hợp và/hoặc tóm tắt các bài viết của Grand Master (từ bản dịch tiếng Anh). Ngoài ra, một số câu nói thích hợp của ông tôi xin trích dẫn trực tiếp kèm theo những dẫn chứng phù hợp (nếu có) để bạn đọc tiện theo dõi.

Tôi đã cố gắng tránh xa việc sử dụng các từ đối ngẫu mang tính phán đoán nhất mà chúng ta có trong tiếng Anh, chẳng hạn như “good”/ “bad”, “right”/ “wrong”. Tôi đã chọn sử dụng các thuật ngữ thay thế như “tích cực”/”tiêu cực” và “đúng”/”không chính xác” vẫn còn mang tính nhị nguyên nhưng không hoàn toàn mang tính phán xét và, theo kinh nghiệm của tôi, xác thực hơn với giáo lý Phật giáo Nhân văn.

Nghiên cứu này không xuất phát từ ngôn ngữ gốc của Phật giáo như tiếng Pali và tiếng Phạn hay các tác phẩm Phật giáo Nhân văn bằng tiếng Trung Quốc (ngoại trừ các bài phỏng vấn). Tất cả các tài liệu nghiên cứu bằng văn bản đều bằng tiếng Anh, do đó độ chính xác của nó đối với mục đích ban đầu có thể không đầy đủ. Đối với các thuật ngữ Phật giáo truyền thống, tôi sử dụng cách đánh vần tiếng Phạn.

Còn tiếp

Humanistic Buddhism as Conceived and Interpreted by
Grand Master Hsing Yun of Fo Guang Shan

By Richard L. Kimball

Hsi Lai Journal of Humanistic Buddhism
V. 1 (2000) – pp. 1-52

ABSTRACT

The intention of this paper is to show how Humanistic Buddhism developed over 2500 years ago and has “re-become” in today’s world due in part to the determined and steadfast efforts of Grand Master Hsing Yun of the Fo Guang Shan Buddhist Order which has its main temple in southern Taiwan. From its beginnings in northern India by Sakyamuni Gautama to its current renaissance, Buddhism has gone through many transformations and developments. Grand Master Hsing Yun has attempted to capture the original essence of the Buddha’s teachings, especially those related to applications in today’s world, as well as to developing new interpretations appropriate to current needs. He has built his beliefs as well as actions not only on the original teachings of the Buddha but also on the experiences and insights of previous masters such as the 6th Patriarch of Ch’an, Ven. Hui Neng, and Ven. Tai Xu.

The Buddha taught ways for transcending earthly suffering as well as how to deal with day-to-day issues in this lifetime. He advocated equality of every human, the interconnectedness of all sentient beings, the sanctity of life and created principles related to developing positive living. In building upon these humanistic ideals, the Grand Master promotes integrating the Buddha’s teachings of kindness, compassion, joyfulness and equanimity into daily life for the benefit of both self and others. He has created a world-wide network of temples and chapters which work to bring Buddhism to every corner of this planet. It is his hope that through this process a Pure Land can be developed here so that all sentient beings can positively live their lives in order to move on to the higher levels of existence such as Bodhisattvahood, Buddhahood and Nirvana.
This paper shows how the Grand Master emerged out of the chaos of 1940s China to create the system of Fo Guang Shan which is substantially influencing many cultures through his writings, teachings and social actions. Finally, the future of Humanistic Buddhism is explored through studying the current structure of Fo Guang Shan and obtaining viewpoints from many members within it including the Grand Master himself.

INTRODUCTION

We are living in a modern era. Buddhism must change its traditional ways by coming out of the forest and entering into society. We must expand the functions of temples to serve the community through involvement in families, nations and the world … [i]n order to promote harmony, understanding and friendship among all humans. (Grand Master Hsing Yun)

Focus of this Paper

This paper on Humanistic Buddhism (hereafter written as HB), attempts to describe and explain the essence of Grand Master Hsing Yun’s ideas, teachings and practices. Because no one can fully or accurately interpret another’s beliefs, and because of the continuous “re-forming” of HB in today’s world, this presentation is a limited exposition based on my extensive readings, first-hand experiences, interviews and personal practice over the past several years. In addition, relevant written material related to the above topic has been incorporated in this discourse as supportive testimony. I will provide the reader the Grand Master’s perspective expressed within these parameters in which I have been working. [*]

The “what” (content) of HB will make up the core work of this paper, but also the “how” and the “why” are included as well because, according to Fernando; the “why” and “how” determine the “what” (see Antony Fernando, p. 127). Without the “how” and “why”, the “what” cannot be adequately understood. I believe that to deal with a topic as diverse and profound as HB, we need a broader vision than that obtained from basic information only. Therefore, this paper will illustrate the content of Grand Master Hsing Yun’s teachings as completely as possible, but also their origin and the process used in their development. The results of those ideas/beliefs/teachings put into practice in today’s world will also be presented. In this way the reader can sense, at a deeper level, the meaning of the Grand Master’s words in the context of HB. Both the historical and current contributions of Grand Master Hsing Yun will be offered. As far as possible, HB will also be related to the original Buddhist teachings by illustrations, references, quotes and explanations.

The main purpose of this paper, then, is to “bring him to life” for the English speaking community, so that more people can better understand Grand Master Hsing Yun’s contributions, their background, history and application in today’s world.

A BRIEF BACKGROUND OF THE DEVELOPMENT OF HUMANISTIC BUDDHISM

Master Hsing Yun has demonstrated that the deep-rooted pragmatism of Buddhism makes it a religion valid today and for all times. In addition to this, he shows us how to apply the teachings of the Buddha to our daily lives… [It is]

Significant Events in the Grand Master’s Life Relevant to His “Becoming” – Conditions at the Beginning

“HB is a new lotus blossom rising out of the mud and opening up to the world. ” (Grand Master Hsing Yun)

Early Years in Mainland China
He was born into a mid-level, peasant family in rural Jiangdu, Jiangsu Province of Eastern China in 1927 which was at the time in great social/political turmoil and under tremendous stress. Both poverty and civil war were rampant in the countryside where his new life began. Hsing Yun’s grandmother had been a devout Buddhist since she was seventeen. She was an important role model for him, especially her industriousness, frugality, kindness and ability to cope with the conditions in which they were forced to live. Under her influence, he began a vegetarian diet when he was only four years old. Somewhat later he attended a local primary school where he was considered a brilliant student.

“Mother I will be your pride!”, said Hsing Yun, when he was reportedly only 10 years old.

The economy at home, as underdeveloped as it was then, required that we cross a canal by boat to make purchases on the other side. During the Sino-Japanese war, no one would risk boating across even for ten or twenty cents. On seeing this, I, then but ten, volunteered my service. I would strip to my waist, tie my shirt around my forehead, and plunge right into the moving stream. In no time I would return with everything everybody had wanted. The villagers, giving me the thumbs-up, would say, ‘That second brother from the Li family sure is something!’ Realization of this unmistakable pride in my mother’s smile reassured me and I even vowed, ‘I’m going to be better still!’ (p. 6, Balley)

The following year, during the Sino-Japanese War, he escorted his fragile mother on a quest to find his father who had left home to do some business, but never returned. On the way they passed Qixia Shan temple and monastery near Nanjing. For some reason he gave the abbot Zhi Kai his word that he would receive the tonsure and renounce worldly life. His mother, held back her tears upon seeing his determination. She returned to Jiangdu alone. Again he said quietly, “Mother, don’t
worry. I will be your pride!”

Hsing Yun became a `sraama.nera (novice monk), was fully ordained at the age of 14 (the usual age was 18) and began receiving his moral education at Qixia Vinaya school and Jiao Shan Buddhist College which was noted for its hall dedicated to the combined practice of Ch’an meditation and Pure Land devotion.

The traditional temple teaching was by disciplining and reprimanding and not guiding and encouraging. Barring novices from returning home was based on the fear that exposure to outside influences might be distracting, and they would forget their quest for truth. Rigorous training was supposed to teach monks to prevail with mental fortitude. It entailed the endurance of pain and poverty. In the end they learned to let go of material life.

Hsing Yun adopted a traditional form of discipline that would not interfere with daily responsibilities. He ate one meal before noon, copied the sutras, carried out the prostrations drill late at night, practiced meditation, remained in silence for long periods of time, concentrated on Buddha’s teachings and did some retreats. He never went into lone seclusion for long periods of time. These exercises did not bring him immediate enlightenment, but bolstered his aspiration for and faith in Buddhism.

Many years of character building by way of a rather rigid and disciplined education in a large monastery setting enabled him not only to just smile at life’s adversities but also to delight in complying with others. He was given the names of Wu Che (Dharma name, inside – “Completely Wise”) and Jin Jue (Daily use name, outside-“Enlightened Today”).

Adult Years in Mainland China

China, especially after World War II was finally over, was a vast land of destitution. Even in temples, there often were not enough provisions to feed all the monks. They survived on very little. They had little to wear so were often shivering in the winter cold. Rags others threw away were converted into socks. Hsing Yun had no money. He couldn’t even mail any letters to his mother.

Admitted to Jiao Shan Buddhist College in 1945, he enjoyed reading books, newspapers and other information. By the time he left Jiao Shan in 1947, Hsing Yun had studied in the monastic system for close to ten years. He completed his training in Buddhist discipline, teaching and doctrine. He also experienced an immersion in the Mahayana spirit of the importance of both practice and understanding. Afterwards, with youthful ardor, he stepped into a gravely afflicted society and found himself embroiled in the survival of both the nation and his faith.

He lived in a struggling time — the belligerence of the warlords, the aggression of the Japanese, the strife between the Nationalists and Communists, the incursion of Western ideas and the suffering of the common folk. He promised to “revitalize” Buddhism in order to establish peace and tranquility. He could not stop thinking, “Don’t ask what Buddhism can give me. Ask what I can give Buddhism!” (p. 50, Fu)

In 1947 he arrived at Da Jue temple in order to become abbot and principal of White Pagoda Elementary School. There he founded a monthly newspaper and was arrested a couple of times by either a “bandit” group (or, by some accounts, the Communists or Nationalist government). He became director of Hua Zang temple in Nanjing in 1948 and edited the Splendid Light supplement to the newspaper Xu Bao. In some of his extensive readings he came across a science book on the universe which explained the role of nebulae in creating stars. He was so impressed he created the name Hsing Yun (Star Cloud) and put it on one of his ID cards. Later, in his time of always having to move around, he lost his other ID papers and thus took the name Hsing Yun as his official name.

The Maoists took over most of China by 1949. Hsing Yun lost contact with his widowed mother during this Civil War. Also, his great teacher and mentor Zhi Kai died. The pain of separation from these two important people made him more determined in his resolve to spread the Dharma. In order to be in a place with less turmoil so he could re-examine his life’s intentions, Hsing Yun and several other monks joined a medical relief mission and arrived from Shanghai at the port of Keelung in Taiwan.

Moving to Taiwan

For many years in Taiwan, he also endured great hardships. He arrived without a cent to his name. It was almost impossible to find food and shelter. Newcomers from the mainland were viewed with suspicion. He was soon arrested with others on allegations of subversive activities since they were from mainland China. The political atmosphere was extremely paranoid at that time. Finally, after his release and weeks of wandering, the Yuan Kuang temple in Chungli took him in. Out of gratitude, he began serving others by undertaking the menial tasks of pulling carts, buying food, fetching water, cleaning latrines and cutting wood.

At that time Taiwan was seen as somewhat anti-Chinese Buddhist (they were more into the Japanese Zen tradition) and had few temples, most of which were in the “mountains and forests.” In spite of all these problems he saw Taiwan as the “brave new world” for Buddhism. He moved on from the menial tasks and became involved in a lot of teaching (including in prisons), writing and publishing as well as founding a kindergarten. At Yuan Kuang temple, under Master Miao Kuo, he authored his first book, Singing in Silence.

The Buddhist monasteries in Taiwan were unlike the land-owning, self-sufficient establishments of China. Donations from devotees and contributions to the monastics were their main sources of sustenance. In these early days Taiwan was in economic plight, and purse strings were tight. Hence, for the longest time, the Buddhist community was busy just trying to survive. Progress had to wait. Buddhism was mostly for funeral ceremonies. Intellectuals looked West. Catholic and Protestant Christian influences increased from the presidential level on down.

But, Hsing Yun worked diligently with an open-minded, persistent, perfectly willing and humble attitude. His early publications advocated the reforming, opening and saving of Buddhism in China and Taiwan. In many ways these ideas were extremely dangerous to have at the time. But the more he was deterred, the bolder and more determined he became. He always seemed to be a revolutionary, advocating positive change and new developments in order to transform lives and society. His goal was to promote Buddhism and care for and serve others. He was perfectly willing to dedicate everything, even his life, to this cause.

Often he would be “going against the tide” of established culture. At that time most “worshipers” were connected to family, Daoist, Confucian, or Matsu Temples. Youths might be attracted to Buddhism but after compulsory military service, they lost interest and gave into the temptations of society. In spite of these trials and tribulations, he wrote articles at night after long days of manual labor. Even if left to beg, he vowed he would work for education and spreading the teachings of the Buddha.

Hsing Yun was asked by a lay Buddhist to teach Buddhism in Ilan in 1952 at the Lei Yin temple, which had been built during the Qing Dynasty. The conditions there were very basic and inward looking. Taiwan was still reeling from almost a century of Japanese oppressive rule, a low education rate among the people and fear of outsiders. His “reaching out” was often seen as threatening, but he was persistent. This was his first opportunity to really try out practicing his concept of a humanistic form of Buddhism. He gave regular lectures, officiated at chanting ceremonies, set up a Buddhist youth choir to perform publicly, wrote for Awakening the World magazine and Buddhism Today, helped with youth education and construction projects and promoted art. He finally was able to make a positive impression on the people of Taiwan.

________________________

[1] Often the Western world has not yet developed the vocabulary to express many of the insists of Buddhism. Even our most suitable English words do not yet have the depth of associations needed to convey the full meaning of the traditional terms. In writing this research paper I often paraphrase, synthesize, and/or summarize the Grand Master’s writings (from English translations). Also, certain pertinent statements by him I do quote directly with suitable references (if available) for the reader.

I have tried to stay away from the use of the most judgmental dualities we have in English such as “good”/ “bad”, “right”/ “wrong”. I have chosen to use alternative terms such as “positive”/ “negative” and “correct” /”incorrect” that are still dualistic but not quite as judgmental and, in my experience, more authentic to Humanistic Buddhist teachings.

This research does not come from the original language of Buddhism such as Pali and Sanskrit or Humanistic Buddhist writings in Chinese (except interviews). All written research material was in English, therefore its accuracy as to the original intention may not be complete. For traditional Buddhist terms, I use the Sanskrit spelling.

Buddhism engaged in service to others and grounded in monastic communities and lay organizations dedicated to Buddhist teaching and practices. It is his conviction that Humanistic Buddhism, in its practical implications, symbolizes the goals of all schools and sects of Buddhism in the world, and therefore, serves as a unifying concept for the redefinition and interpretation of the teaching of Buddhism for the benefit of humanity today. (Dr. Ananda W.P. Guruge)

Thursday, January 19, 2023

Daniel Scharpenburg | Tâm Quảng Nhuận lược thuật: Martin Luther King Jr. & Đạo Phật | Martin Luther King Jr. & Buddhism

 

“Trong thế giới này, sự căm ghét chưa bao giờ xua tan được sự căm ghét. Chỉ có tình yêu mới xua tan được hận thù. Đây là chân lý muôn đời” | ~ Đức Phật

“Bóng tối không thể xua đuổi được bóng tối; chỉ có ánh sáng mới có thể làm được điều đó. Hận thù không thể xua đuổi hận thù; chỉ có tình yêu mới làm được điều đó ”. | Martin Luther King Jr.

Martin Luther King Jr. không phải là một Phật tử. Tuy nhiên, trong hoạt động bất bạo động của mình, rõ ràng là ông đã được truyền cảm hứng từ phong trào phản kháng bất bạo động của Gandhi. Ông cũng được truyền cảm hứng từ các bậc thầy Phật giáo. Tinh thần đấu tranh bất bạo động của ông là điều cần truyền cảm hứng cho tất cả chúng ta.

Hòa bình, bình đẳng, và tình yêu — đây không phải là các giá trị riêng của Cơ đốc giáo hay các giá trị Phật giáo. Đây là những giá trị nhân văn mà chúng ta nên vun đắp vì hạnh phúc của mọi người.

Mọi người đều biết về hoạt động tích cực của Tiến sĩ King trong cuộc đấu tranh vì bình đẳng chủng tộc. Ông cũng là một nhà hoạt động vì hòa bình. Ông ấy phản đối mạnh mẽ cuộc chiến ở Việt Nam — một trong những bài phát biểu “Beyond Vietnam” của ông ấy là truyền cảm hứng nhất.

Ông kết bạn với một thiền sư trẻ tuổi sống lưu vong từ Việt Nam và tham gia hoạt động vì hòa bình. Ngài tên là Thích Nhất Hạnh. Thực sự chúng ta không biết chính xác hai vị này đã học được bao nhiêu điều từ nhau, nhưng chúng ta biết rằng họ đã dành một khoảng thời gian bên nhau và họ đã đưa ra lời khuyên cho nhau.

Tiến sĩ King đã viết một lá thư cho Ủy ban Nobel kêu gọi họ trao giải Nobel Hòa bình cho Thiền sư Thích Nhất Hạnh vì những nỗ lực của ngài trong hoạt động hòa bình.

Ảnh: Internet

Nguyên văn như sau:

Thưa quý ông:

Với tư cách là người từng đoạt giải Nobel Hòa bình năm 1964, bây giờ tôi hân hạnh được đề xuất một người bạn của tôi là Tỳ kheo Thích Nhất Hạnh cho giải thưởng đó năm 1967. Cá nhân tôi không biết có ai xứng đáng với giải Nobel Hòa bình hơn nhà sư Phật giáo Việt Nam hiền lành này.

Đây sẽ là một năm tốt lành đáng chú ý để trao Giải thưởng của mình cho thầy Nhất Hạnh. Đây là một sứ giả của hòa bình và bất bạo động, bị lưu đày một cách tàn nhẫn khiến cách ly khỏi dân tộc của mình đang trong hoàn cảnh bức bách bởi một cuộc chiến tàn khốc đang leo thang và tạo sự bất an cho toàn thế giới.

Bởi vì không có vinh dự nào được tôn trọng hơn Giải Nobel Hòa bình, việc trao tặng Giải thưởng cho thầy Nhất Hạnh tự nó sẽ là một hành động hòa bình ý nghĩa nhất. Nó sẽ nhắc nhở tất cả các quốc gia rằng những người có thiện chí sẵn sàng chuyển hóa các phần tử tham chiến thoát khỏi vực thẳm của hận thù và hủy diệt. Nó sẽ thức tỉnh những người chiến binh về lời dạy của vẻ đẹp và tình yêu được tìm thấy trong hòa bình. Nó sẽ giúp làm sống lại hy vọng về một trật tự công lý và hòa hợp mới.

Tôi biết thầy Thích Nhất Hạnh, và tôi rất hân hạnh được gọi ông là bạn của tôi. Bay giờ hãy cho phép tôi được chia sẻ với bạn một số điều tôi biết về Thầy ấy.

Bạn sẽ tìm thấy trong con người độc đáo này một loạt các khả năng và ý nguyện tuyệt vời.

Tượng kỷ niệm tình bạn của Thích Nhất Hạnh và Tiến sĩ Martin Luther King
tại Nhất Hạnh’s Magnolia Grove Monastery ở Mississippi. | Ảnh: Paul Davis

Thầy ấy là một người thánh thiện, vì khiêm tốn và tín tâm. Thầy là một học giả có trí lực vô biên. Tác giả của mười tập truyện đã xuất bản, Thầy cũng là một nhà thơ của sự trong sáng và lòng nhân ái tuyệt vời. Ngành học của Thầy là Triết học Tôn giáo, từng là Giáo sư tại đại học Vạn Hạnh, một trường Đại học Phật giáo mà thầy đã góp một phần tâm huyết để thành lập ở Sài Gòn. Thầy đảm trách Viện Nghiên cứu Xã hội tại Đại học này. Vị Sư tuyệt vời này cũng là biên tập viên của báo Thiện Mỹ, một ấn phẩm hàng tuần về Phật giáo có ảnh hưởng quần chúng. Đồng thời, thầy còn là Giám đốc Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, một tổ chức của đào tạo những người trẻ tuổi mang tâm nguyện tái lập nền hòa bình cho đất nước của họ.

Thầy Nhất Hạnh bây giờ hầu như vô gia cư và không quốc tịch. Nhưng nếu quay trở lại Việt Nam, tuy là điều mà Thầy hằng mong mỏi, thì cuộc sống của Thầy sẽ rất nguy hiểm. Cho nên Thầy là nạn nhân của một cuộc lưu đày chỉ vì dám mạnh mẽ đề xuất thực hiện chủ trương hòa bình cho dân tộc của mình. Đây là một hoàn cảnh bi thảm hiện tại của Việt Nam và những người gây ra nó.

Lịch sử Việt Nam chứa đầy những trang bóc lột của các thế lực ngoại bang và những kẻ tham tài, cho đến tận bây giờ người Việt Nam vẫn bị cai trị hà khắc, đói kém, nghèo khổ, và gánh nặng bởi tất cả những khó khăn và kinh hoàng của chiến tranh hiện đại.

Thầy Nhất Hạnh đưa ra một giải pháp thoát khỏi cơn ác mộng này, một giải pháp được các nhà lãnh đạo duy lý chấp nhận. Ông đã đi khắp thế giới, tư vấn cho các chính khách, các nhà lãnh đạo tôn giáo, các học giả và nhà văn, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của họ. Những ý tưởng của ông về hòa bình, nếu được áp dụng, sẽ xây dựng một tượng đài cho chủ nghĩa đại kết, cho tình anh em thế giới, cho nhân loại.

Tôi trân trọng đề nghị Hội đồng lưu tâm cho sự nghiệp của Thầy ấy bằng sự thừa nhận của Giải Nobel Hòa bình năm 1967. Thầy Thích Nhất Hạnh sẽ nhận vinh dự này một cách ân cần và khiêm tốn.

Trân trọng,

Martin Luther King, Jr.

Mặc dù bấy giờ Thiền sư Thích Nhất Hạnh không nhận được giải Nobel  — nhưng kể từ đó, Thầy là một nhà hoạt động không mệt mỏi để truyền bá hòa bình và tình yêu.

Thầy vẫn làm việc đó cho đến ngày hôm nay. Không nghi ngờ gì, Thầy Thích Nhất Hạnh và Tiến sĩ King là những Bồ tát giữa cõi đời này.

Chúng ta có thể học hỏi rất nhiều điều từ những hoạt động của họ.

Photo by Paul Davis

Martin Luther King Jr. & Buddhism.

Daniel Scharpenburg | Elephant Journal

“In this world
Hate never yet dispelled hate.
Only love dispels hate.
This is the law,
Ancient and inexhaustible.”
the Buddha

“Darkness cannot drive out darkness; only light can do that. Hate cannot drive out hate; only love can do that.”
Martin Luther King Jr.

I don’t think Martin Luther King Jr. was a Buddhist.

However, in his nonviolent activism, it was clear that he was inspired by Gandhi’s nonviolent resistance movement. He was also inspired by Buddhist teachers. His commitment to nonviolence is something that should be inspirational to all of us.

Peace, equality, love—these aren’t just Christian values or Buddhist values. These are human values that we should all cultivate for the well-being of everyone.

Everyone knows about Dr. King’s activism in the struggle for racial equality. He was also a peace activist. He strongly opposed the war in Vietnam—one of his speeches “Beyond Vietnam” is, to me, the most inspiring.

He befriended a young Zen monk who had been exiled from Vietnam and was involved in peace activism. His name was Thich Nhat Hanh. It isn’t really known exactly how much these two learned from each other, but we know that they spent some time together and they gave each other advice.

Dr. King wrote a letter to the Nobel Committee urging them to award the Nobel Peace Prize to Thich Nhat Hanh for his efforts at peace activism.

Here it is:

  1. “Gentlemen:
  2. As the Nobel Peace Prize Laureate of 1964, I now have the pleasure of proposing to you the name of Thich Nhat Hanh for that award in 1967. I do not personally know of anyone more worthy of the Nobel Peace Prize than this gentle Buddhist monk from Vietnam.
  3. “I hated Journaling until I tried this.” Take the 90-Day Journey, you will not be disappointed. (Get 20% off with code EJ20) >>
  4. This would be a notably auspicious year for you to bestow your Prize on the Venerable Nhat Hanh. Here is an apostle of peace and non-violence, cruelly separated from his own people while they are oppressed by a vicious war which has grown to threaten the sanity and security of the entire world.
  5. Because no honor is more respected than the Nobel Peace Prize, conferring the Prize on Nhat Hanh would itself be a most generous act of peace. It would remind all nations that men of good will stand ready to lead warring elements out of an abyss of hatred and destruction. It would re-awaken men to the teaching of beauty and love found in peace. It would help to revive hopes for a new order of justice and harmony.
  6. I know Thich Nhat Hanh, and am privileged to call him my friend. Let me share with you some things I know about him.
  7. You will find in this single human being an awesome range of abilities and interests.
  8. He is a holy man, for he is humble and devout. He is a scholar of immense intellectual capacity. The author of ten published volumes, he is also a poet of superb clarity and human compassion. His academic discipline is the Philosophy of Religion, of which he is Professor at Van Hanh, the Buddhist University he helped found in Saigon. He directs the Institute for Social Studies at this University. This amazing man also is editor of Thien My, an influential Buddhist weekly publication. And he is Director of Youth for Social Service, a Vietnamese institution which trains young people for the peaceable rehabilitation of their country.
  9. Thich Nhat Hanh today is virtually homeless and stateless. If he were to return to Vietnam, which he passionately wishes to do, his life would be in great peril. He is the victim of a particularly brutal exile because he proposes to carry his advocacy of peace to his own people. What a tragic commentary this is on the existing situation in Vietnam and those who perpetuate it.
  10. The history of Vietnam is filled with chapters of exploitation by outside powers and corrupted men of wealth, until even now the Vietnamese are harshly ruled, ill-fed, poorly housed, and burdened by all the hardships and terrors of modern warfare.
  11. Thich Nhat Hanh offers a way out of this nightmare, a solution acceptable to rational leaders. He has traveled the world, counseling statesmen, religious leaders, scholars and writers, and enlisting their support. His ideas for peace, if applied, would build a monument to ecumenism, to world brotherhood, to humanity.
  12. I respectfully recommend to you that you invest his cause with the acknowledged grandeur of the Nobel Peace Prize of 1967. Thich Nhat Hanh would bear this honor with grace and humility.
  13. Sincerely,
  14. Martin Luther King, Jr.

Thich Nhat Hanh didn’t win the Nobel Prize that year—but, he’s been a tireless activist for spreading peace and love ever since.

He’s still doing it today.

There is no doubt in my mind that Thich Nhat Hanh and Dr. King were Bodhisattvas.

We can learn a lot from their examples.

Sunday, January 15, 2023

Kinrei Bassis | Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Không cần thiết, nhưng hữu ích

 

(trích Tạp chí của Tu viện Shasta, tháng 7-tháng 9 năm 1984)

Đại sư Tendo Nyojo nói, “Học thiền là buông bỏ thân và tâm. Không nhất thiết phải thắp hương, lạy Phật, niệm Phật, sám hối, tụng kinh. Nếu bạn tập trung vào thiền định, mục đích chính của bạn sẽ đạt được”.[1] Hiểu được điều “không cần thiết” trong đoạn trích dẫn này là điều cần thiết nếu một người muốn hiểu được mối quan hệ giữa tất cả các hình thức tôn giáo được sử dụng trong thực hành Phật giáo và chân tâm của Đạo Phật.

Nhiều người trong chúng ta ở phương Tây được nuôi dưỡng trong các tôn giáo dường như thay thế các giáo lý và nghi lễ cứng nhắc để thực hành và trải nghiệm tâm linh thực sự. Do đó, thái độ “không cần thiết” trong Phật giáo, mang giọng điệu bài trừ hình tướng, hấp dẫn người phương Tây, hứa hẹn một trải nghiệm trực tiếp về Chân lý, thay vì tuân thủ nghiêm ngặt các hình thức rỗng tuếch. Tuy nhiên, nhiều người quan tâm đến thánh điển Phật giáo thường thất vọng khi họ đối mặt với thực tế thực hành của tôn giáo.

Khi tôi bắt đầu nghiên cứu về Phật giáo, tôi đã tìm thấy một phương pháp thực hành mà Tendo Nyojo nói là “không cần thiết”. Cuộc sống trong tu viện bao gồm những buổi tụng kinh dài lê thê, nhiều nghi lễ, vô số lạy, và một lịch trình dày đặc. Lúc đầu, tôi bối rối vì tôi đã nghe theo lời khuyên của những bậc thầy như Tendo Nyojo theo đúng nghĩa đen. Tôi không hiểu tại sao lại có những hoạt động khác thay vì chỉ đơn giản là “tập trung vào thiền định”. Tôi tự hỏi tại sao chúng tôi lại dành quá nhiều thời gian cho công việc, nghi lễ tôn giáo, đọc sách, v.v., thay vì chỉ ngồi thiền theo nghi thức. Tôi thậm chí đã gặp những người đánh đồng việc đào tạo chuyên sâu với thời gian dành cho thiền định chính thức. Tuy nhiên, có điều gì đó không ổn, bởi vì nếu bạn nhìn vào cuộc sống thực tế của những bậc thầy như Tendo Nyojo, bạn sẽ thấy rằng họ luôn thực hành, giảng dạy và trao truyền các hình thức lễ lạy, dâng hương, sám hối và trì tụng kinh điển hàng ngày. Vậy tại sao Tendo Nyojo lại dạy rằng chỉ cần bạn tập trung vào thiền định là đủ?

Một trong những vấn đề mà nhiều người gặp phải với Phật giáo là hiểu cách thức linh hoạt trong đó nhiều thuật ngữ chính được sử dụng. Những từ như Pháp, Phật và thiền định có thể có ý nghĩa khác nhau trong các ngữ cảnh khác nhau. Thiền định có thể đề cập đến thực hành chính thức của thiền ngồi, và nó có thể đề cập đến thiền định theo nghĩa rộng hơn nhiều. Trừ khi người ta có thể thấy Phật tánh xuyên suốt mọi hoạt động trần tục của cuộc sống hàng ngày, người ta vẫn còn bị ràng buộc; có sự thực hành thiền định c và sau đó là cuộc sống của ai đó, hai điều riêng biệt. Tuy nhiên, thiền định thực sự của Tendo Nyojo không chỉ là một kỹ thuật biệt lập khác, mà là sự chuyển đổi trọng tâm cuộc sống. “Tập trung thiền định” là không để những vấn đề thế gian hay những vấn đề cá nhân lấn át mục đích tâm linh chân chính của đời sống, nỗ lực tìm kiếm và hợp nhất với Phật Tâm, Bồ đề tâm. Thiền định trong cuộc sống hàng ngày là nỗ lực duy trì sự tĩnh lặng và nhận thức bên trong để một người luôn nuôi dưỡng khả năng tìm thấy mục đích và ý nghĩa tâm linh sâu sắc hơn trong bất cứ điều gì chúng ta đang làm. Đó là cảm nhận những gì thực sự cần thiết và làm điều đó để chúng ta không cản trở Phật Tánh của mình. Thiền định đích thực không chỉ giới hạn ở việc quay mặt vào tường; tuy nhiên, điều này không có nghĩa là thiền định là không quan trọng, vì ở đó người ta ấn định thời gian và địa điểm với mục đích duy nhất là đào sâu việc thực hành Đạo của mình. Thông qua thực hành thiền định, chúng ta có thể học được thái độ của tâm trí mà chúng ta nên trau dồi vào mọi lúc để nó thấm nhuần toàn bộ cuộc sống của chúng ta. Trong “Quy tắc hành thiền”, Đại sư Dogen hướng dẫn rất chi tiết về cách thực hành thiền định vì đó là thực hành chính yếu trong Thiền tông. Tuy nhiên, Đạo Nguyên nói trong những hướng dẫn này, “mọi hoạt động đều thấm nhuần thiền định thuần túy – phương tiện rèn luyện có hàng nghìn lần nhưng thiền định thuần túy phải được thực hiện”. Những hoạt động bất tận của cuộc sống hàng ngày là phương tiện rèn luyện và là nơi thực hiện thiền định thanh tịnh. Vì tâm Phật có thể tìm thấy ở mọi nơi, mọi lúc, và trong mọi tình huống, không có chỗ nào ngoài tâm thiền.

Những mô tả về thiền định thâm sâu mà các Bậc thầy vĩ đại đưa ra cho chúng ta nghe có vẻ tuyệt vời và hấp dẫn, nhưng câu hỏi thực sự đối với hầu hết chúng ta là làm thế nào để chúng ta tự mình trải nghiệm “thiền định thuần túy” này? Mục đích của Phật giáo là giúp chúng ta biến thiền định thuần túy thành một trải nghiệm sống động. Tất cả vô số giáo lý và thực hành của Phật giáo có thể được coi là công cụ hướng chúng ta ra khỏi mê lầm. Mặc dù con đường tìm đến trái tim của Đức Phật không bị ràng buộc vào bất kỳ thực hành hay giáo lý nào, điều đó không có nghĩa là chúng ta nên coi thường giá trị to lớn của việc tuân theo một giáo lý và thực hành tâm linh? Nếu tất cả chúng ta đều có thể “chuyên tâm tu thiền” không chùn bước thì đạo Phật là không cần thiết, nhưng nếu chúng ta thấy cần phải tìm đến đạo Phật, nghĩa là chúng ta thấy mình cần có sự giúp đỡ và hướng dẫn.

Nhiều lễ lạy mà mọi người thực hiện trong một tu viện Phật giáo là một ví dụ về cách các hình thức huấn luyện giúp hướng chúng ta đến tâm thiền định. Một thiền sư vĩ đại đã nói: “Chừng nào lễ lạy còn kéo dài. Đạo Phật sẽ trường tồn…Khi việc lễ lạy chấm dứt. Phật giáo sẽ bị tiêu diệt”. Cúi đầu thực sự là sự mở ra và dâng hiến cái tôi cho cái Vô biên. Cơ thể và tâm trí là một, và rèn luyện cơ thể để thể hiện sự tôn trọng, tôn kính và biết ơn cũng giúp hướng trái tim và khối óc nhận ra những phẩm chất đó. Một khi chúng ta nhận ra giá trị thực sự của việc lễ lạy trong tâm mình, sự phản kháng đối với việc lễ lạy của cơ thể sẽ biến mất. Quỳ xuống và cúi đầu hoàn toàn sẽ giúp phá vỡ các rào cản tinh thần, mang lại niềm vui và sự xác nhận bên trong rằng chúng ta đang thực sự đi trên Con đường.

Cúi đầu (xá, lạy) là một nét đặc trưng chưa từng có trong nghi lễ Đại thừa bởi vì nó cũng tượng trưng cho sự sẵn sàng cống hiến bản thân để phục vụ tất cả chúng sinh. Vì lòng kính trọng và biết ơn Trái tim Phật, chúng ta tìm thấy thiện chí sâu xa để chia sẻ công đức tu tập của chúng ta với người khác. Đây là trọng tâm của tất cả các nghi lễ Phật giáo Đại thừa, hướng chúng ta đến sự thật rằng tất cả chúng ta đều gắn bó với nhau về mặt tinh thần và rằng khi giúp đỡ người khác, mọi người đều được lợi ích, kể cả chính chúng ta.

Kinh điển Phật giáo và các giáo lý bằng văn bản thường bị lạm dụng bởi những người chỉ cố gắng đạt được sự hiểu biết tri thức về giáo lý nhà Phật thay vì chuyển hóa bản thân bằng cách sống cuộc sống của họ phù hợp với Pháp. Tuy nhiên, việc nghiên cứu kinh điển Phật giáo là vô cùng giá trị, vì chúng được viết bởi các Đạo sư vĩ đại, những người đã đạt đến đỉnh cao của đời sống tâm linh. Kinh điển Phật giáo có thể được coi là bản đồ con đường tìm đến Phật quả. Bản đồ không thể leo lên ngọn núi, nhưng nó có thể đưa ra phương hướng để đi theo. Bản đồ không phải là thứ cần thiết khi leo núi; tuy nhiên, đã là con người, chúng ta dễ lạc lối, nản lòng khi gặp phải những trở ngại không lường trước. Tại sao lại khiến một nhiệm vụ khó thậm chí còn khó hơn bằng cách leo lên một vùng đất xa lạ mà không sử dụng bản đồ tốt nhất mà chúng ta có thể tìm thấy?

Một yếu tố đào tạo bị hiểu lầm và thường được coi là không cần thiết khác là hành vi kỷ luật và trật tự trong các ngôi chùa Phật giáo. Tuy nhiên, như lời trích dẫn sau đây của Đạo Nguyên minh họa, ông nhận thấy thực hành này là trọng tâm của sự rèn luyện Phật giáo: Khi, bằng cách sắp xếp đúng thứ tự cuộc sống hàng ngày của chúng ta, chúng ta thể hiện trái tim của Phật giáo, chúng ta thoát khỏi thân và tâm mê lầm. Như vậy, cuộc sống có kỷ luật của người thực tập là hiện thân của cả giác ngộ và thực hành, thuần khiết và không tì vết từ trước khi thời gian bắt đầu.”[2]

Tuy nhiên, nhiều người mới khi tu tập trong tu viện hay chùa chiền có thể thấy thời khóa biểu, sự im lặng và các luật lệ thật đáng sợ và khó hiểu. Một trong những lý do khiến họ bị Phật giáo thu hút là lời hứa về sự tự do hoàn toàn như được mô tả trong các tác phẩm của nhiều Chân sư. Chẳng hạn, Đại sư Keizan đã viết, “Vứt bỏ trời, đất, thánh, quan niệm, chủ thể và đối tượng; bất cứ nơi nào bạn đi, bạn không nên bị quấy rầy bởi bất cứ điều gì, hoàn toàn tự do”.[3] Có vẻ như là một mâu thuẫn khi cho rằng cần phải rèn luyện bản thân để được tự do.

Tự do thường được cho là khả năng có một số lựa chọn hoặc kiểm soát hoàn cảnh bên ngoài của chúng ta. Tuy nhiên, quyền tự do này có một phạm vi rất hạn chế bởi vì, như Phật giáo dạy, “vũ trụ không thể đáp ứng được ý chí cá nhân của chúng ta”.[4] Chúng ta có thể làm việc vì hòa bình, và chiến tranh vẫn xảy ra; hoặc dành nhiều năm xây dựng một doanh nghiệp thành công, và suy thoái kinh tế buộc chúng ta phải phá sản; hoặc tập thể dục và ăn uống lành mạnh mà vẫn bị ung thư. Tất cả chúng ta đều thừa hưởng một dòng nghiệp lực và mặc dù chúng ta có thể tịnh hóa và thay đổi hướng của nó, nhưng chúng ta không thoát khỏi những nghiệp quả của những hành động trong quá khứ của mình. Những hành động tốt trong quá khứ của chúng ta sẽ mang lại hạnh phúc và những hành động sai trái sẽ mang lại đau khổ. Tu tập Phật giáo không dẫn đến hạnh phúc và phúc lạc ngay lập tức; đúng hơn, nó làm trong sạch trái tim của chúng ta, thanh lọc lòng ham muốn của chúng ta đối với Đạo, và cuối cùng mở rộng trái tim của chúng ta với cuộc sống vô biên của Đức Phật. Cuộc sống chứa đầy những nhị nguyên trần tục: niềm vui và đau khổ, sức khỏe và bệnh tật, sự sống và cái chết. Mặt khác, tự do thực sự không phải là bị ép buộc quan tâm đến những vấn đề thế gian này bởi vì chúng ta biết rằng chúng ta ở với Phật Tánh Bất sinh của mình cho dù chúng ta thấy mình ở đâu.

Đời sống kỷ luật của sự tu tập Phật giáo không nuông chiều tất cả những sở thích cá nhân của chúng ta và do đó hướng chúng ta đến tự do thực sự bằng cách buộc chúng ta hướng nội. Điều thực sự quan trọng, và điều mà quá trình rèn luyện đang cố gắng đánh thức, chính là thứ mà tất cả chúng ta đều chia sẻ, Trái tim Phật. Cuộc sống cá nhân của mỗi chúng ta không có ý nghĩa sâu sắc, ngoại trừ đối với chính chúng ta. Khi chúng ta ngừng coi sinh vật tầm thường nhỏ bé này là trung tâm của vũ trụ, như khi chúng ta quan tâm quá mức đến những điều mình thích và không thích, mong muốn và sợ hãi, thì lúc đó chúng ta có thể nhận ra bản chất thực sự của mình là một phần của thân vô lượng của Đức Phật. Nghe điều này, đôi khi người ta sợ hãi, sợ rằng môn tu luyện sẽ tước đi cá tính của họ. Mối quan tâm này là không chính đáng bởi vì sự tu tập Phật giáo không loại bỏ sự khác biệt giữa con người với nhau. Mỗi người chúng ta là người thừa kế của một dòng nghiệp độc nhất và khi chúng ta rèn luyện và chuyển hóa nghiệp của mình, ánh sáng của Đức Phật sẽ trở nên rõ ràng trong cơ thể và tâm trí cá nhân này. Sau đó, sự khác biệt của chúng ta không còn chia rẽ chúng ta nữa, bởi vì mỗi người có thể được xem như một viên ngọc độc nhất vô nhị của Pháp. Một bài học quan trọng mà đạo Phật dạy là không nên phán xét bản thân hay người khác vì sự phán xét đó sẽ làm sai lệch tầm nhìn của chúng ta và ngăn cản việc trải nghiệm ánh sáng của Đức Phật thấm nhuần vạn vật.

Cũng rất hữu ích khi thấy rằng trật tự đúng đắn của cuộc sống hàng ngày là sự phản ánh của Tâm Phật, Pháp thân, và bằng cách cố gắng đối xử với tất cả những hành động thông thường của cuộc sống hàng ngày với thái độ tôn kính và biết ơn, chúng ta đang giúp nhắc nhở chính mình rằng có một mục đích và ý nghĩa thuộc linh trong mọi việc chúng ta làm.

Lời dạy “không cần thiết” thể hiện phẩm chất giải thoát thực sự của giáo lý nhà Phật. Không có một hình thức thực hành nào là hoàn toàn thiết yếu để chúng ta tìm thấy sự giải thoát. Thiền định thuần túy là điều cần thiết duy nhất và theo nghĩa sâu hơn, không có hình thức. Đó là giải thoát bởi vì nó nói rằng các hình thức giảng dạy và thực hành Phật giáo chỉ đưa chúng ta đến Chân lý. Những sự thật tâm linh sâu sắc nhất vượt qua Phật giáo. Tuy nhiên, không nên bỏ qua tất cả các giáo lý và thực hành của Phật giáo vì chúng đều là những phương tiện thiện xảo sâu sắc để đưa con người ra khỏi mê lầm. Nếu trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta không nhìn thấy hình tướng vô tướng của Đức Phật, thì tại sao lại từ chối bất cứ thứ gì có thể giúp chúng ta loại bỏ sự biến dạng khỏi tầm nhìn của chúng ta? Tâm thiền dạy chúng ta không lãng phí bất cứ thứ gì, đặc biệt những thứ có thể chứng minh là chìa khóa để chúng ta tìm thấy sự giải thoát không thể lay chuyển và niềm vui sâu sắc nhất.

_______________________________

[1] Xem Đại sư Đạo Nguyên, Shobogenzo: Con mắt và Kho tàng của Pháp chân chính, bốn tập (Tokyo: Nakayama Shobo, 1983) tập 3, tr. 40.
[2] “Bendoho” (Cách rèn luyện trong Phật giáo”), trong Zen Is Eternal Life, dịch. của Rev. Roshi Jiyu-Kennett (Emeryville, CA: Dharma Publishing, 1976), tr. 113.
[3] Denkoroku, sđd, tr. 221.
[4] Xem Từ điển của Jiyu-Kennett, Zen is Eternal Life, s.v. “Năm định luật của vũ trụ”.

Ảnh (Feature image): Hồng Sơn

Not Necessary, but Useful

 (Reprinted from The Journal of Shasta Abbey, July-September,1984. Parts of the article have been rewritten.)

Great Master Tendo Nyojo said, “Learning meditation is to cast off body and mind. It is not necessary to burn incense, prostrate oneself recite the name of the Buddha, perform repentance, or chant sutras. If you concentrate on meditation, your main purpose will be attained”.1 To understand the “not necessary” in this quotation is essential if one is to comprehend the relationship between all the religious forms that are used in Buddhist practice and the true heart of Buddhism.

Many of us in the West were brought up in religions that seemed to substitute rigid doctrines and rituals for true spiritual practice and experience. The attitude of “not necessary” within Buddhism, having an iconoclastic tone, is therefore appealing to Westerners, promising a direct experience of the Truth, rather than strict adherence to hollow forms. Yet many people who have been interested in the literature of Buddhism are often disenchanted when they confront the actual practice of the religion.

When I came to study Buddhism, I found a practice filled with what Tendo Nyojo said to be “not necessary”. The life in the monastery involved long dally scripture recitations, many ceremonies, innumerable bows, and a heavily-structured schedule. At first I was confused because I took the advice of such masters as Tendo Nyojo literally. I did not understand why there were these other activities instead of simply “concentrating on meditation”. I wondered why we spent so much time on work, religious services, reading, and the like, instead of just doing formal sitting meditation. I have even met people who have equated depth of training with the time spent in formal meditation. Yet something is amiss, because if you look at the actual life of such masters as Tendo Nyojo, you see that they always practiced, taught, and transmitted the forms of bowing, incense offering, repentance, and daily recitations of the scriptures. So why did Tendo Nyojo teach that it is enough if you concentrate on meditation?

One of the problems that many people have with Buddhism is understanding the fluid manner in which many of the key terms are used. Words such as Dharma, Buddha, and meditation can have different meanings in different contexts. Meditation can refer to the formal practice of seated meditation, and it can refer to meditation in a much broader sense. Unless one can see the Buddha nature throughout all the mundane activities of daily life, one is still bound; there is one’s meditation practice and then there is one’s life, two separate things. The true meditation of Tendo Nyojo, however, is not just another isolated technique, but the transformation of the focus of one’s life. “To concentrate on meditation” is not to allow worldly matters or personal problems to take precedence over the true spiritual purpose of life, the effort to be find and be one with the Buddha Heart, the Bodhicitta. Meditation in daily life is the effort to maintain an inward stillness and awareness so that one is always nurturing the ability to find a deeper spiritual purpose and meaning in whatever we are doing. It is sensing what is truly needed and doing that so we do not get in the way of our Buddha Nature. True meditation is not limited to facing the wall; yet this is not to say that formal meditation is not important, for it is there that one sets a time and place where the only purpose is to deepen one’s practice of the Way. It is through the formal practice of meditation that we can learn the attitude of mind that we should cultivate at all other times so that it permeates our whole life. In “Rules for Meditation”, Great Master Dogen gives very detailed instructions on how to do formal meditation because it is the key practice in Zen Buddhism. Yet Dogen says within these instructions, “all activity is permeated with pure meditation – the means of training are thousandfold but pure meditation must be done”. The endless activities of daily life are a means of training and the place where pure meditation is done. Since the heart of Buddha can be found in all places, and at all times, and in all situations, there is no place outside of the mind of meditation.

Descriptions of deep meditation given to us by the great Masters may sound wonderful and enticing, but the real question for most of us is how do we experience this “pure meditation” for ourselves? The purpose of Buddhism is to help us make pure meditation a living experience. All the myriad teachings and practices of Buddhism can be seen as tools that direct us out of delusion. Although the path to the finding the heart of Buddha is not bound to any single practice or teaching, that does not mean we should disregard the immense value of following a spiritual teaching and practice? If we were all able to “concentrate on meditation” without faltering, then Buddhism would be unnecessary, but if we feel the need to seek out Buddhism, it means we seeing the need for us to have help and direction.

The many bows that everyone does in a Buddhist monastery are an example of how the forms of training help orient the us toward the mind of meditation. One great Zen Master said, “As long as bowing lasts. Buddhism will last…When bowing ceases. Buddhism will be destroyed”. The true bowing is the opening up and offering of the self to that which is Boundless. Body and mind are one, and disciplining the body to show respect, reverence, and gratitude helps direct the heart and mind to realize those qualities as well. Once we realize the true value of bowing in our hearts, the resistance to the bowing of the body disappears. To get down on our hands and knees and fully bow will help break down the mental barriers, bringing joy and the inner confirmation that we are truly on the Way.

Bowing is an ever present feature of Mahayana ceremonial because it also symbolizes the willingness to offer ourselves in service to all living things. Out of respect and gratitude to the Buddha Heart, we find the deep willingness to share the merit of our training with others. This is central to all Mahayana Buddhist ceremonial, directing us to the truth that we are all bound together spiritually and that in helping others, everyone benefits, including ourselves.

Buddhist scriptures and written teachings are often misused by people who just trying to gain an intellectual understanding of the Buddhist teaching instead using transforming themselves by living their life in accordance with the Dharma. Yet it is of immense value to study the Buddhist scripture, as they were written by great Masters who had reached the summit of spiritual life. The Buddhist scriptures can be seen as maps of the way to find Buddhahood. A map cannot climb the mountain, but it can give the direction to follow. A map is not a necessity in ascending the mountain; however, being human, we can easily become lost or disheartened when we encounter unanticipated obstacles. Why make a difficult task even harder by climbing into unfamiliar ground without using the best map we can find?

Another misunderstood, and often considered unnecessary element of training is the disciplined and ordered behavior within Buddhist temples. Yet as the following quotation of Dogen illustrates, he found this practice to be at the heart of Buddhist training: When, by the correct ordering of our daily life, we exhibit the heart of Buddhism, we are free from delusive body and mind. As this is so, the disciplined life of the trainee is the embodiment of both enlightenment and practice, pure and immaculate since before time began.”2

However, many newcomers when practicing in a monastery or temple, may find the schedule, the silence, and the rules intimidating and confusing. One of the reasons they were attracted to Buddhism was the promise of complete freedom as described in the writings of many of the Masters. For instance, Great Master Keizan wrote, “Throw away heaven, earth, the holy, the mean, subject and object; wherever you go you should be disturbed by nothing, completely free”.3 It seems to be a contradiction that it is necessary to discipline oneself in order to be free.

Freedom is usually thought to be the ability to have some choice in, or control over, our external circumstances. However, this freedom has a very limited sphere because, as Buddhism teaches, “the universe is not answerable to our personal will”.4 We may work for peace, and war still arises; or spend years building a successful business, and an economic depression forces us into bankruptcy; or exercise and eat health foods, and still be stricken with cancer. We all inherit a stream of karma and, although we can purify it and alter its direction, we are not free of the karmic consequences of our past actions. The good actions in our past will bring happiness and the wrong actions will bring suffering. Buddhist training does not lead to instant happiness and bliss; rather it cleanses our hearts, purifies our desire for the Way, and ultimately opens our hearts to the boundless life of Buddha. Life is filled with worldly dualities: joy and suffering, health and illness, life and death. True freedom, on the other hand, is not to be compulsively concerned with these worldly matters because we know that we are with our Unborn Buddha Nature no matter where we find ourselves.

The disciplined life of Buddhist training does not indulge all our personal preferences and thereby points us to true freedom by forcing us to look within. What truly matters, and what training is trying to awaken, is that which we all share, the Buddha Heart. Each of our individual lives does not have deep significance, except to ourselves. When we stop making this little insignificant being the center of the universe, as we do when we are overly concerned about our likes and dislikes, wants and fears, we can then realize our true nature as part of the boundless body of the Buddha. Hearing this, people are sometimes frightened, fearing that the practice will strip them of their individuality. This concern is unwarranted because Buddhist training does not eliminate the differences between people. Each of us is an heir to a unique stream of karma and, when we train and convert our karma, the light of the Buddha becomes apparent within this individual body and mind. Then our differences no longer divide us, because each person can be seen as a unique and singular jewel of the Dharma. An important lesson Buddhism teaches is not to judge ourselves or others because that judgment will distort our vision and prevent the experiencing the light of Buddha permeating all things.

It is also helpful to see that the correct ordering of daily life is a reflection of the Buddha Mind, the Dharmakaya, and by trying to treat all the commonplace actions of dally life with an attitude of reverence and gratitude, we are helping to remind ourselves that there is a spiritual purpose and meaning in everything we do.

The teaching of “not necessary” exhibits the true liberating quality of Buddhist teaching. There is no single form of practice that is absolutely essential in order for us to find liberation. Pure meditation is the only necessity and that, in the deeper sense, has no form. It is liberating because it is saying that the forms of Buddhist teaching and practice only point us to the Truth. The deepest spiritual truths transcends Buddhism. Yet all the teachings and practices of Buddhism should not be ignored for they are all deeply skillful means of leading humans out of delusion. If we, in our lives, are not seeing the formless form of the Buddha, then why discard anything that may help us in clearing the distortion from our vision? The mind of meditation teaches us to waste nothing, particularly that which may prove to be our key to finding unshakable liberation and the deepest joy.

_______________________________

1 See Great Master Dogen, Shobogenzo: The Eye and Treasury of the True Law, four volumes (Tokyo: Nakayama Shobo, 1983) volume 3, p. 40.
2 “Bendoho” (How to Train in Buddhism”), in Zen Is Eternal Life, trans. by Rev. Roshi Jiyu-Kennett (Emeryville, CA: Dharma Publishing, 1976), p. 113.
3 Denkoroku, ibid., p. 221.
4 See the Glossary of Jiyu-Kennett, Zen is Eternal Life, s.v. “Five Laws of the Universe”.