Friday, March 21, 2025

Vĩnh Hảo: NHỚ NGÀY TÀN XUÂN - REMEMBERING THE END OF SPRING



NHỚ NGÀY TÀN XUÂN

 

Ngày tàn xuân thuở xưa ấy, cách nay đã 50 năm. Một cuộc đổi mới dẫn đến loạn lạc xã hội, ly tán gia đình. Máu tiếp tục đổ sau chiến tranh. Lệ nóng trào tuôn, hòa thêm vị mặn trên đại dương thống khổ. Hàng trăm nghìn gia đình bị đẩy lên những vùng ma thiêng nước độc để canh tác mưu sinh lập đời mới. Hàng trăm nghìn sĩ quan, công chức chế độ cũ bị biệt giam hoặc bị cưỡng bức lao động khổ sai trong những trại tù biên địa. Và, từng đoàn người già trẻ dắt díu nhau băng rừng vượt biên, xuống thuyền vượt biển, tìm đến những vùng trời tự do. Lên rừng, xuống biển, có vẻ như lặp lại huyền sử mấy ngàn năm của tộc Việt (1). Nhưng cuộc chia tay trong lịch sử cận đại không chỉ có năm mươi con lên núi, năm mươi con xuống biển, mà là cả triệu con dân, hớt hãi tìm đường sống, âm thầm trong đêm, mẹ cha câm nín, con trẻ nén khóc, rón rén những bước chân hồi hộp, run sợ. Nỗi đau thương thống hận ngập tràn của ngần ấy con người, ngần ấy gia đình, không hề được ghi vào sử sách giáo khoa, mà chỉ được ngậm ngùi khơi dậy trong tâm khảm những người tị nạn năm xưa, đã là những cổ nhân hữu danh vô danh, hay đang là những người lão niên lặng lẽ đời mình ở những vùng trời phương ngoại.

Nghiệm lại chuyện xưa không phải để than trách hay khơi dậy oán hận. Cuộc sống của cá nhân, hay một cộng đồng nhỏ, cộng đồng lớn, đều diễn ra trong những điều kiện nhân duyên, thuận và nghịch. Thuận, có khi đưa ta đi lên rồi lại đi xuống; nghịch, có khi đưa ta đi xuống rồi lại đi lên.

Trong số hàng triệu người Việt rời nước ra đi từ thuở ấy, có những thầy Tăng áo vải nâu sồng tháp tùng trên những thuyền nan ọp ẹp; quán sinh tử vô thường trên chập chùng sóng cả, ban vô úy cho những người đồng hành yếu đuối; vượt trùng dương bão tố đến bờ an vui; hòa vào cuộc sống mới, cặm cụi “vá áo chép kinh đất khách” (2); mười năm, hai mươi năm, rồi năm mươi năm, dựng nên hàng trăm ngôi chùa Việt khắp bốn châu. Việc dựng xây cơ sở vật chất không phải là kỳ tích gì đáng kể, nhưng giữ được tín tâm cho bốn chúng đệ tử, duy trì được mạng mạch của Phật Pháp nơi xứ người suốt nửa thế kỷ qua không phải là điều đơn giản. Trong suốt cuộc hành trình năm mươi năm đó, đã nhiều thầy Tăng bỏ mình trong rừng già hay trên biển lớn, nhiều thầy Tăng hoàn tục chọn đời sống tại gia, và nhiều thầy Tăng nằm xuống sau những đóng góp kiên trì, bền bĩ cho sự vinh quang của đạo pháp.

Giờ này ngồi ôn lại con đường đã kinh qua của cộng đồng ly hương, những bi lụy một thời đã tàn phai theo năm tháng, chỉ còn một nỗi niềm tồn đọng, đó là niềm tin về sự chánh thiện.

Chỉ có sự chánh thiện mới mang lại an vui thực sự cho cuộc sống.

Chỉ có sự chánh thiện mới duy trì và phát triển được đạo mầu trên thế gian này.

50 năm là quãng thời gian khá dài, nhưng cũng chỉ là một chớp mắt trong chuỗi dài sinh tử, tử sinh bao kiếp luân hồi. Trong chớp mắt ấy, hãy sống như một người con Phật chánh thiện, hiền trí.

 

___________

 

(1)  Mượn ý của Thầy Tuệ Sỹ trong bài “Thuyền Ngược Bến Không” giới thiệu thi tập “Thủy Mộ Quan,” của nhà thơ Viên Linh (1938 – 2024): “Thời chiến tranh, một lớp bạn lên rừng. Thời hòa bình, một lớp bạn xuống biển. Dân tộc chợt quay trở lại với huyền thoại mở nước. Những người con theo Mẹ, đã có lúc khinh ghét anh em mình, bỏ lên rừng. Một thời gian sau, những người con theo Mẹ lên rừng nay quay trở về đô thị. Lại những người anh em khác sợ hãi, vội bỏ trốn theo, tìm về biển...”

(2)  Câu đối của Thầy Tuệ Sỹ viết tặng Tu viện Quảng Đức, Úc Đại Lợi (cả chữ Hán lẫn chữ Việt): “Quảng mạc thiên hoang cố lý, nhi phế hưng cạnh tẩu kinh đào, phiến diệp phù nang, quải nạp đằng la thử ngạn. | Đức hành thế khoát tham phương, tỉ triêu lộ hàm huy diệu cảnh, không hoa thủy nguyệt, huyền hà bích lạc thần châu.”

Dịch nghĩa: “Chốn cũ dặm dài man mác, bởi phế hưng xô dậy sóng cồn, chiếc lá thuyền nan, vá áo chép kinh đất khách | Đức tu mấy bước mù xa, tợ sương sớm nắng hồng đọng bóng, hoa trời trăng nước, ngân hà dằng dặc quê cha.”

“Vá áo chép kinh” ở đây có thể được hiểu là việc trì giới và hoằng pháp.

 Vĩnh Hảo


REMEMBERING THE END OF SPRING


The conclusion of spring at that time—now fifty years ago. The implementation of a reform resulted in the dispersal of families and social disorder. Bloodshed persisted subsequent to the conflict. The salty flavor of the hot tears was mingled with the ocean of suffering. To establish and cultivate a new existence, hundreds of thousands of families were forcibly relocated to remote and hazardous regions. In prison centers along the borders, hundreds of thousands of officers and civil servants of the former regime were either placed in isolated detention or compelled to perform harsh labor. And, groups of both young and old either led each other through forests to escape the country or boarded vessels to cross the oceans in quest of freedom.

The mythical history of the Vietnamese people (1) from thousands of years ago was echoed by the desire to visit the forests and navigate the oceans.  However, the separation in modern history was not merely fifty children being sent to the highlands and fifty to the oceans. Millions of individuals were feverishly attempting to survive, stealthily, in the darkness of the night. Parents were mute, children were stifling their sobs, and they were tiptoeing with nervous, apprehensive steps. The sorrow, anguish, and bitterness that so many individuals and families endured were never documented in official history books. However, they reside silently in the souls of former refugees, who have since become honored elderly, whether they are named or not, and are currently living out their lives in foreign countries.

Reflecting on the past is not intended to incite resentment or offer complaints. The lives of individuals, as well as small and large communities, are shaped by the conditions of karma and circumstance, whether they are favorable or unfavorable. Occasionally, favorable circumstances may elevate us, then depress us once more; conversely, adversity may reduce us to our knees, then elevate us again at a later time.

Among the millions of Vietnamese who departed the country at that time, there were monks in modest brown robes who embarked on fragile boats. They contemplated impermanence and the cycle of birth and death amidst the heaving waves, offering fearlessness to their vulnerable companions. They crossed stormy oceans to reach peaceful shores, merging into new lives, and quietly "mending robes and transcribing sutras in foreign lands." Hundreds of Vietnamese temples were constructed on all four continents over the course of ten, twenty, and fifty years. (2)

Maintaining the faith of the fourfold sangha and safeguarding the lifeline of the Dharma in a foreign nation for half a century is a complex endeavor, despite the fact that constructing tangible structures is not an especially difficult task. Numerous monks perished in deep forests or vast seas during that fifty-year voyage, while others transitioned from monastic life to the lay world. Additionally, numerous monks passed away after years of dedicated service to the Dharma's grandeur.

The laments of a bygone era have diminished with time as we contemplate the journey of the diaspora. The belief in righteousness is the sole enduring sentiment that remains.

True serenity and pleasure in life can only be achieved through righteousness.
The marvelous Dharma in this world can only be sustained and developed through righteousness.

Fifty years is a significant amount of time; however, it is merely a flicker in the infinite cycle of birth and death, life after life in the vast wheel of samsara. Let us live as virtuous and wise offspring of the Buddha in that fleeting instant.

Vĩnh Hảo
Translated by Phe Bach

(1) Utilizing the concept of Venerable Thích Tuệ Sỹ from the poem Thuyền Ngược Bến Không / (A boat flowing against the harbor of emptiness)***, which was composed as a preface to the poetry collection Thủy Mộ Quan by poet Viên Linh (1938–2024):

"A group of friends ventured into the forest during the war." Another group retreated to the sea during periods of calm. The nation abruptly reverted to its foundation myth. At one point, the children who followed the Mother began to harbor animosity toward their own siblings and fled to the mountains. After a period of time, the children who had accompanied the Mother into the forest returned to the cities. Subsequently, other brothers escaped in haste, seeking refuge at sea, out of dread.


(2) A parallel verse couplet composed by Venerable Thích Tuệ Sỹ and presented to Quảng Đức Monastery in Australia, inscribed in both Classical Chinese and Vietnamese:

"A leaf-like boat, patching robes and copying sutras in foreign lands, the old place, vast and desolate over countless miles, where rise and fall stirred up tidal waves."
Virtue and practice travel far into unknown paths, like the morning mist and crimson sunlight that cast their glow—celestial flora, moonlit waters, and the endless Milky Way of the ancestral homeland.

"Vá áo chép kinh" (patching robes and copying sutras) can be interpreted as the practice of sustaining precepts and disseminating the Dharma.


*** THUYỀN NGƯỢC BẾN KHÔNG
Thích Tuệ Sỹ

thuyen nguoc ben khong (2)Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước
Thả chiếc thuyền con ngược bến không

Thơ Viên Linh, Thủy mộ quan

Tôi sinh ra thì thế chiến II đang hồi kết thúc. Lớn lên chút nữa, khi biết nghe và hiểu, những chuyện vãn người lớn về việc đánh nhau đâu đó, lúc nào đó, bao giờ cũng hấp dẫn như chuyện cổ tích. Mà hình như đó lại là những chuyện mà tuổi con nít của tôi được nghe nhiều hơn là chuyện cổ tích. Trong gia đình tôi, thỉnh thoảng thấy vắng đi một người lớn. Rồi lại nghe những câu chuyện thì thầm. Mấy chú, mấy anh lớn, đã từng ẳm bồng tôi, bỗng chốc họ trở thành nhân vật trong truyện cổ tích. Cách mà người lớn kể chuyện, lại làm cho không khí của chuyện cổ tích ấy càng trở thành huyền bí.

Cho đến khi lai rai đọc được tiếng nước ngoài, chuyện kể về chiến tranh bỗng thành hoài niệm; hay chỉ hình như là hoài niệm thôi, vì đấy là quá khứ mà mình không thấy, không nghe. Có điều, hoài niệm ấy không làm sao mờ đi được. Vì nó đã trộn lẫn quá khứ với hiện tạiQuá khứ ấy, khi chợt biết, nó đã có quá nhiều mất mát. Vì những người đã đi, chưa thấy ai trở lại. Rồi cả những người cùng trang lứa cũng lần lượt ra đi. Mình thì may mắn được ở lại. Nhìn quanh, bảng đen, lớp học, sân trường. Sự sống vẫn băng băng lôi người đi tới, với những cạnh tranh vất vả.

Chiến tranh, thù hận, và đâu đó, từ sâu thẳm của khát khao, tình yêu và sự chết là nỗi ám ảnh, và như chất liệu cho ý thức sinh tồn. Có một cõi thi ca riêng biệt như vậy. Dành cho những tâm hồn nhạy cảm. Nhìn con chim giãy chết trong tranh mà ngơ ngẩnbàng hoàng. Nhưng ngôn ngữ của nó cũng biến hình. Tình yêu, thất vọngđam mê, như những con sóng nồng nhiệt trên mặt nước, mà dưới đáy sâu ai biết ẩn chứa những gì.

Nước xa cuồn cuộn ra khơi
Sâu trong tâm thể có đôi giọt gần

(Dư tập, Thủy mộ quan)

Những câu thơ như vậy thật hiếm hoi cho một đời bận rộn. Không bận rộn sao được, khi quanh mình những bạn bèn trang lứa lần lượt ra đi. Một số người vượt suối, vô rừng. Đi theo tiếng gọi của hận thù, máu lửa, trong trái tim đang bốc cháy bởi chủ nghĩa anh hùng. Để lại cho thành phố khúc hát “Người đã đi, đi trên non cao…” Một số khác ra đi, để lại tiếng khóc nghẹn ngào, điên loạn: “Ngày mai đi nhận xác chồng. Say đi để thấy mình không là mình.” Tình yêu, thù hận, bỗng trở thành mâu thuẫn biện chứng.

Mấy chục năm sau, một thế hệ đang lớn, như nắng trưa xích đạo che lu ánh đuốc quá khứ lập lòe của mình; thỉnh thoảng tôi đi tìm lại một vài câu thơ đâu đó, mà cũng không dễ gì tìm được, để cho hoài niệm quay lại một thời, trong đó mình đã sống, đã suy nghĩưu phiền, và cả đến những dại dột ngông cuồng của tuổi trẻ. Trong tình trạng mà người cũ lánh xa, vì hiểm nguy rình rập mơ hồ, thì chuyện biển rộng sông dài chỉ có trong tranh, và trong trí nhớ. Lại vẫn điệp khúc hoài niệm bâng quơ.

Tôi không đoán được bạn trẻ yêu thơ ngày nay, nếu tình cờ đọc được bốn câu thơ dưới đây sẽ gợi lên ấn tượng gì. Nhưng người đã sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, mà tình yêu và thù hận là những xung đột, khắc khoải trong lòng, những câu thơ ấy gợi nhớ một thời, hay đúng hơn là một ấn tượng, có thể thoáng qua chốc lát:

Chiều về trên một nhánh sông
Bên tôi con nước đỏ lòng quanh co
Nước loang dưới đáy trời dò
Buồn tôi thánh thót trên lò nhân sinh

(Một Nhánh Sông, Dư Tập, Thủy Mộ Quan)

Đó là một chút hơi thở tàn sinh, như bóng nắng là đà trên mặt nước, không có những trầm mặc thăm thẳm trong lòng đại dương. Một nhúm cỏ xanh nhởn nhơ trên cánh đồng khô cháy. Nhưng ai có thể phê bình nhúm cỏ vô tình? Ấn tượng của một người đọc thơ từ trong hủy diệt bạo tàn của chiến tranh là như thế.

Rồi đất nước hòa bình, dân tộc đang trở mình từ trong khói lửa, để cho hận thù hóa thân thành tình yêu. Và cũng là lúc bắt đầu một thế hệ cầm bút bị khước từ. Vì đã không thể nhận thức tình yêu theo định nghĩa của biện chứng. Trong đó, tình yêu chỉ có thể trưởng thành bằng hận thù và hủy diệt. “Máu của người đem lại tình thương.”

Ngồi trên đỉnh đồi Trại thủy, giữa thành phố Nha trang, nhìn xuống bên dưới, từ trong làng kéo ra một đoàn thiếu nhi Tiểu học, hô vang khẩu hiệu chào mừng cách mạng, đả đảo văn hóa giáo dục phản động, đồi trụy. Tôi biết mình đang bị chối bỏ. Và bị chối bỏ thật. Từ chỗ là thành phần ăn bám, rồi trở thành phần tử nguy hiểm, và được liệt xuống hàng cặn bã xã hội, tạm tha tội chết để được ân huệ khoan hồng sống hết kiếp sống thừa. Lại một lần nữa, những người cũ của tôi theo nhau lần lượt ra đi. Thời chiến tranh, một lớp bạn lên rừng. Thời hòa bình, một lớp bạn xuống biển. Dân tộc chợt quay trở lại với huyền thoại mở nước. Những người con theo Mẹ, đã có lúc khinh ghét anh em mình, bỏ lên rừng. Một thời gian sau, những người con theo Mẹ lên rừng nay quay trở về đô thị. Lại những người anh em khác sợ hãi, vội bỏ trốn theo, tìm về biển:

Vua gặp Âu Cơ lúc thủy du
Cùng nàng rung động nước thiên thu
Duyên tan nàng bắt con về núi
Những đứa theo cha khổ đến giờ

(Thủy Mộ Quan)

Ba chục năm, một nửa theo Cha, một nữa theo Mẹ. Nhưng huyền thoại của nhà thơ này vẫn còn quên một số anh em trở thành côi cút. Cha thì ở đâu không thấy, mà tự thân thì bị ruồng rẫy bởi chính anh em mình ngay trên đất Mẹ. Không Cha, cũng không Mẹ, ta đi tìm dấu tích Trường sơn, “Quê người trên đỉnh Trường sơn. Cho ta gởi một nỗi hờn thiên thu.”(Thơ Tuệ Sỹ).

Tôi không nói đến hận thù. Nhưng một nỗi oan khiên nào đó, khiến cho lời nói của mình như trong cơn mê sảng. Bạn cũ ở quanh đây thôi, vẫn gần như những ngày nào, một thời buồn vui. Có lẽ bạn cũ ngại ngùng, ngại nghe những điều được giả thiết là tôi sẽ nói. Thật sự, tôi chẳng được phép nói gì cả. Vẫn được chỉ định phải đứng bên lề xã hội đang hội nhập văn minh. Còn những bạn khác, hãy gọi là cố nhân, bấy giờ mỗi kẻ một phương trời. Tôi chẳng biết họ đang làm gì, đang nghĩ gì. Mỗi người một phong cách, trong một thế giới mở rộngđa văn hóa. Tôi nghe nói như vậy.

Dù ở phương này hay phương kia, dù có hay không có hai trận tuyến văn chương cùng chung loại hình ngôn ngữ của Mẹ, vẫn còn hàng vạn nắm xương dưới lòng biển:

Lưu vực điêu tàn ở Biển Đông
Xương bầy như thú cháy rừng hoang
Nhưng rừng không cháy nào đâu thú
Người chết thân chìm Thủy Mộ Quan.

Viên Linh, Thủy mộ quan

Hận thù có thể xóa được dễ dàng thôi, nhưng u uẩn của những hồn oan đáy biển vẫn ám ảnh tâm tư. Người sỗng vẫn mang mãi ân tình của người đã chết, dù trên rừng hay dưới biển, vì oan nghiệt riêng tư hay vì tình chung dân tộc. Xưa Nguyễn Du đã làm “Văn tế thập loại chúng sinh”; không chỉ là món nợ văn chương cho người đã chết, mà đó còn là tình tự thiết tha từ cõi chết vọng về. Tôi đọc bài “Gọi hồn” trong Thủy mộ quan cũng với tâm trạng tương tợ:

Trên Huyết Hải thuyền trồi về một chiếc
Chiều bầm đen trời rực rỡ đau thương
Thân chìm xuống băng tuyền giờ tận biệt
Sóng bạc đầu hối hả phủ trùng dương.
(…)
Trong rêu xanh ngân ngật bóng sơn hà
Lướt hải phận về dưới trời cố quốc.
(…)

Bài thơ không mang tiết nhịp gây cảm xúc bàng hoàng tức khắc, nhưng những ấn tượng rải rác trong cả tập Thủy mộ quan làm cho bài thơ phảng phất nỗi kinh sợ, rùng mình:

Trinh nữ trầm oan nổi giữa dòng
Thân băng ngàn hải lý về sông
Xung quanh không một người than khóc
Chỉ cá trùng dương theo hộ tang.

Dù sao thì đất nước cũng đang hồi sinh. Những người ra đi, lần lượt kéo nhau về. Ấy thế, hờn giận giữa anh em vẫn còn là vết thương nhức nhối. Văn chương bây giờ vẫn là một lựa chọn, hoặc một nhân cách. Thi ngôn chí. Thiên cổ văn chương thiên địa tâm. Trong tận đáy sâu tâm khảm, mỗi nhà thơ vẫn chung một tình tự nghìn đời, dù biểu hiện có hận thù cay nghiệt. Tôi mong được như lời Viên Linh nói:

Sinh ở đâu mà giạt bốn phương
Trăm con cười nói tiếng trăm giòng
Ngày mai nếu trở về quê cũ
Hy vọng ta còn tiếng khóc chung.

Tuệ Sỹ,
Saigon, đông 2004


A boat flowing against the harbor of emptiness

Translated by Nguyen Thuy Dan

 

“Scattered rain against the roof; a soul sifting water,
A small boat lets go, against the harbor of Emptiness”

I was born when the Second World War was coming to an end. Just a little after I reached the age of reason, hearing stories told by grownups about this and that battle fought here and there was as interesting as fairy-tales. In fact, it seemed that throughout my childhood I more often heard such stories instead of fairy-tales. Every now and then, a grownup would disappear from my family. Stories would be whispered in hushed tones. Uncles and cousins who had held me in their arms would suddenly become characters in such fairy-tales. The way that grownups told these stories made them even more mysterious.

By the time I was able to read a little foreign language, stories about war suddenly turned into reminiscences. Or rather, it seemed that they were merely reminiscences – for they were a past that I neither saw nor heard. However, it was impossible to erase them from my memory. Past and present had already been confused in entanglement. When I understood that past, it was filled with so much loss. Those who had left never returned. In turn, people my own age began to leave. I was fortunate to remain. Looking around the classroom, the chalkboard, the schoolyard. Life continued to relentlessly drag men forward along with struggle and toil.

War, hatred, and, somewhere from the very depths of longing and thirst, Love and Death are a haunting shadow, the very material for awareness of existence. Of these there is a separate world of poetry and song reserved for sensitive souls, for those captivated and shocked senseless by a painting of a dead bird. However, its language is transformable. Love, disappointment, passion – these are the fervent waves on the surface; who knows what could be hidden in the depths?

“Distant waters flowing away to the distant ocean
Deep within my thoughts, a few drops remain close by”

Lines of poetry such as these are truly rare in a busy life. But how was activity and distraction to be avoided when, all around, one’s friends began to steadily depart one by one. Some crossed rivers and streams, entering into the jungle. With hearts kindled by the fire of heroism, they followed the summons of hatred, of blood and fire. They left the city with a song: “They have left, left to the high mountains…” A few others left, leaving behind choked sobs, crazed and chaotic: “Tomorrow I go to receive my husband’s corpse; Let me drink that I will not recognize myself”. Love and hatred suddenly became a dichotomous dialectic.

Several decades later, like equatorial sunlight taking over the flickering torch of the past, a new generation began to mature. Occasionally, with difficulty I would search for a few lines of poetry here and there in order to reflect on a past time – a time in which I had lived, had thought, had worried, had gone through the reckless foolery of youth. Old acquaintances, fearing vague dangers lying in wait, avoided me; stories of the wide ocean, of long rivers, existed only in paintings, in memory. Once again, a refrain of vaguely melancholic reminiscence.

I can’t predict what impression these four lines of poetry would make on a young lover of poetry, should he today chance upon them. However, for those who grew up in war, in whose hearts love and hatred were in restless conflict, these lines bring back memories of a particular time, or rather, of a particular impression, even if only flashing by in a fleeting instant.

“Evening returns on part of the river
Around me, muddy waters weave about
The rippling water’s depth unfathomable,
My sadness cries out within the furnace of human existence”

This is a dying breath, sunlight barely touching the water’s surface, without the silent profundity of the great sea. A few blades of green grass, oblivious to the surrounding desiccation of fields burnt dry by fire. But who can critique a few blades of non-sentient grass? Such is the impression of one reading poetry within the heartless destruction of war.

Then peace came to the nation. The people rose from the smoke of war, letting hatred transform into love. Simultaneously, a generation of writers was rejected. Their understanding of love did not conform to the defining dialectic, in which love could only mature out of hatred and destruction – “The blood of men brings forth love”.

Sitting atop the hills of Trại Thủy, in the midst of Nha Trang, below I saw a group of young schoolchildren coming out from the village. They shouted slogans welcoming the Revolution, crying “down with corrupt reactionary culture and education”. I knew I was being rejected. And the rejection was real. First I was a parasite, then a danger, then degraded to being the refuse of society. A death sentence was temporarily lifted, that I might receive the gracious blessing of living the remainder of my life. Once again, old friends followed one another in departing. During the war, there were those who entered the jungles. During peace time, there were those who went out to sea. The people suddenly reverted to the myth of the nation’s founding. Those who followed Mother, at times despising and reviling their brothers, retreated to the jungles. After a period of time, those who had followed Mother into the jungles returned to the city. Terrified, others fled, returning to the ocean.

“The king met Âu-Cơ when traveling by water
With her, stirring the waters of eternity
Bonds dissolved, she forced her children into the mountains
Those who followed their Father have suffered till this day”

For thirty years, one half followed Father, the other followed Mother. However, the epic of this poet has still forgotten some of those were orphaned. With Father nowhere in sight, they were abandoned by their very brothers on the soil of their Motherland. Fatherless, motherless, I followed the traces of the Trường Sơn mountain range: “Your homeland is atop the Trường Sơn mountains, let me send along an everlasting lament”.

I speak not of hatred. But a certain injustice causes my words to appear delirious. Old friends are still around, still close as before, a period of both sadness and joy. Perhaps old friends are wary – afraid of hearing those things that others think I will say. In truth, I am not permitted to say anything at all. I am still limited to standing outside of a society in the process of integrating into civilization. Other past acquaintances, or rather old friends, have now scattered to the four corners of the sky. I have no idea what they are doing, what they are thinking. Each follows his own style in a wide and multicultural world, so I have heard.

Whether here or there, regardless of two separate fronts of literature sharing the same Mother tongue, countless skeletons remain in the depths of the sea.

“Desolate river deltas by the East Sea
Piles of charred bones like those of beasts from deserted jungles
But there is no jungle, and hence no beasts
Men die, their corpses sinking into a watery grave”

Hatred and enmity is easily erased. However, the inscrutable still haunt our conscience. The living still forever carry the love of the dead, whether in the jungles or beneath the sea, whether for personal enmity or for love of the people. In former times, the Funeral Lament for the Ten Classes of Living Beings by Nguyễn Du was not simply written as debt to literature – it was a desperate cry echoing back from the dead. I read the poem “Calling the Souls” in the Thủy Mộ quan collection in a similar condition:

“On the Sea of Blood, a single boat floats back
The evening bruised black, the sky brilliant with pain
Bodies sink into frigid streams, now parting
White waves surge forth, covering the vast seas”
(…)
“In green algae appears shadows of the countryside
Crossing the sea to return under the sky of the old country”
(…)

The poem does not carry a rhythm that brings about an instant feeling of unease. However, impressions scattered here and there within the Thủy Mộ quan poetry collection create an atmosphere of phantasmal terror and horror:

“A virgin, unjustly drowned, floating amidst the current
Her pure body, across a thousand miles returns to the river
Around there is not a single person to mourn
Only the fish of the sea accompany her”

Regardless, the country is reviving. Those people who left are steadily returning together. Enmity and hatred between brothers remains an aching wound. Literature now remains a choice, or rather, a personality. “Poetry expresses the will”. Everlasting literature, the heart-mind of the universe. From the very depth of his heart, every poet shares in the same eternal feelings, despite the fact its manifestation has bitter hatred and enmity. I wish to fit the description of Viên Linh:

“Where were you born that you wandered everywhere,
Speaking and laughing with a hundred tongues
Tomorrow should you return to your old home,
I hope we will still share the same sound of crying”

Tue Sy
Saigon, Winter 2004

Thursday, March 20, 2025

Tâm Thường Định: Có Con Đường An Lạc Từng Bước Chân | ‘A Path of Peace with Every Step’

 

Ngày 11 tháng 4 năm 2025, một sự kiện đặc biệt sẽ diễn ra giữa lòng đô thị New York – một con đường mang tên “Thích Nhất Hạnh Way” chính thức được khánh thành. Từ đây, đoạn đường West 109th Street nối Riverside Drive đến Broadway sẽ mang tên vị Thiền sư hiền hòa từ Việt Nam, người suốt đời hướng dẫn thế giới về hơi thở, bước chân và an lạc giữa cuộc đời này.

Một hành trình lớn từ quê hương ra thế giới

Thiền sư Thích Nhất Hạnh, được tăng thân và môn đồ khắp nơi trìu mến gọi là Thầy, sinh năm 1926 tại làng Thành Trung, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Xuất gia từ tuổi 16, Thầy đã sớm được biết là một tăng sĩ thông tuệ, dung dị và đầy chất thi sĩ.

Những năm 1960, giữa lúc chiến tranh Việt Nam leo thang, Thầy chọn con đường “Đạo Bụt Dấn Thân”—mang Phật Pháp ra khỏi cửa thiền, đi vào giữa cuộc đời để xoa dịu khổ đau. Trong nhiều cuộc phỏng vấn, Thầy từng nói đại ý rằng, khi bom rơi ngoài kia, ta không thể chỉ ngồi trong chùa tụng kinh. Ta phải hành động để cứu người, để xây dựng hòa bình.

“Nếu chúng ta không thể mỉm cười, thì thế giới này sẽ không có hòa bình. Không phải bằng cách xuống đường biểu tình phản đối vũ khí hạt nhân mà chúng ta có thể đem lại hòa bình. Chính bằng khả năng mỉm cười, thở vào thở ra, và tự thân là hiện thân của hòa bình, chúng ta mới thực sự xây dựng được hòa bình.” — Trích “Being Peace” (1987), Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Chính tinh thần ấy đã đưa Thầy đến Hoa Kỳ, nơi Thầy sống và giảng dạy tại Union Theological Seminary và Đại học Columbia. Những năm 1960, Thầy ở căn nhà nhỏ số 306 West 109th Street, một góc phố bình dị giữa thành phố New York nhộn nhịp. Nơi đó, Thầy vừa là một học giả, vừa là một sứ giả của hòa bình, ngày đêm cất bước vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam.

Cuộc vận động không mệt mỏi của Thầy đã lay động nhiều chính khách, học giả và thanh niên Mỹ lúc bấy giờ. Tiếng nói của Thầy vang đến tận Nhà Trắng. Năm 1967, Mục sư Martin Luther King Jr. đã chính thức đề cử Thầy cho Giải Nobel Hòa Bình, gọi Thầy là “Sứ giả của tình thương và sự tha thứ.”

Làng Mai – nơi gieo hạt giống bình an

Sau những năm tháng vận động hòa bình, Thầy chọn dừng chân ở vùng quê Làng Mai (Plum Village, Pháp) để gieo hạt bình an cho nhân loại. Làng Mai trở thành một trung tâm tu tập nổi tiếng thế giới, nơi hàng chục ngàn người thuộc mọi màu da, tôn giáo tìm về học hơi thở chánh niệm.

Thầy dạy đi không phải để đến, mà đi để được an lạc trên từng bước chân. Những bài pháp của Thầy giản dị, đời thường nhưng lay động hàng triệu con tim. Các tác phẩm như “Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức”, “An Lạc Từng Bước Chân”, “Giận”… đã trở thành sách gối đầu giường cho biết bao thế hệ.

Và không dừng lại ở đó, Thầy mang hơi thở chánh niệm vào trường học, bệnh viện, nhà tù, và cả các trung tâm lãnh đạo lớn nhất thế giới. Giáo lý của Thầy được các nhà khoa học, tâm lý học, và giới lãnh đạo doanh nghiệp phương Tây trân trọng và ứng dụng sâu rộng.

Sự công nhận như những biểu tượng tri thức của phương Tây

Năm 2023, Đại học Harvard—một trong những biểu tượng tri thức của nước Mỹ—khánh thành Trung tâm Chánh Niệm Thích Nhất Hạnh (Thich Nhat Hanh Center for Mindfulness in Public Health). Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, tên một Thiền sư Việt Nam được vinh danh tại ngôi trường danh giá này.

Giáo sư Howard Koh, Giám đốc Trung tâm, phát biểu:
“Thầy Thích Nhất Hạnh là một biểu tượng của chánh niệm và từ bi. Trung tâm này sẽ tiếp nối di sản của Thầy để phục vụ sức khỏe cộng đồng toàn cầu.”

Và hôm nay, thành phố New York—nơi từng ghi dấu bước chân của Thầy thuở nào—đã quyết định đặt tên đoạn đường West 109th Street thành “Thích Nhất Hạnh Way”. Đây sẽ là một sự kiện lịch sử và đầy ý nghĩa không riêng đối với cộng đồng người Việt, mà còn với hàng triệu con người yêu mến Thầy trên khắp thế giới.

Lễ khánh thành sẽ diễn ra vào thứ Sáu, ngày 11 tháng 4 năm 2025, từ 11 giờ sáng đến 4 giờ chiều (giờ New York) ngay tại ngã tư West 109th Street & Broadway, New York City. Đây chính là nơi Thầy từng sống, từng giảng dạy, từng dấn thân cho hòa bình.

Việc một con đường giữa thành phố New York—trái tim của thế giới hiện đại—mang tên Thầy là sự ghi nhận những đóng góp bền bỉ và thầm lặng của Thầy cho nhân loại. Một người Việt, một Thiền sư, một nhà thơ, một nhà hoạt động không mang theo quyền lực hay vũ khí, chỉ lặng lẽ đi qua đời bằng hơi thở, nụ cười và những bước chân tỉnh thức.

Một con đường – Một đời người

Con đường mang tên Thầy không đơn thuần chỉ là tên gọi, mà là lời nhắc nhở cho tất cả chúng ta về một nếp sống tỉnh thức giữa phố xá đông người. Trong từng viên gạch, từng hàng cây, sẽ mãi vẳng vọng câu nói quen thuộc của Thầy:
“Thở vào tôi biết tôi đang thở vào. Thở ra tôi biết tôi đang thở ra.”

Từ Việt Nam nhỏ bé, Thầy bước ra thế giới bằng đôi chân trần, mang theo hành trang duy nhất là từ bi và trí tuệ. Những nơi Thầy đi qua, chiến tranh lắng dịu, hận thù dần nguôi. Thầy chỉ mong hướng dẫn cho con người cách sống, đồng thời cho thế giới biết ngừng lại, buông bỏ và mỉm cười.

Hôm nay, di sản ấy đã được ghi dấu giữa phố thị New York bằng một con đường mang tên Thầy. Đó không phải là điểm đến, mà là một lời mời cho tất cả những ai còn bận rộn giữa cuộc đời—hãy dừng lại một chút, thở cùng đất trời, bước đi trong sự tỉnh thức và an lạc.

Một di sản sống mãi

Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch vào ngày 22 tháng 1 năm 2022 tại Tổ đình Từ Hiếu, Huế. Nhưng Thầy chưa bao giờ rời xa. Thầy vẫn còn đó, trong những mùa lá rụng, trong những buổi sớm mai, trong từng hơi thở bình yên của những ai đã từng nghe và thực tập lời Thầy dạy.

“Thích Nhất Hạnh Way” sẽ là con đường của New York, đồng thời là con đường của tất cả những ai muốn đi về phía an lạc. Một con đường không biên giới, không màu da, không tôn giáo, chỉ có tình thương và sự hiểu biết làm hành trang.

Bấy giờ, Thầy chính là một con đường—con đường dẫn ta trở về với chính mình.

A Path of Peace with Every Step

On April 11, 2025, a special event will take place in the heart of New York City—the official inauguration of “Thich Nhat Hanh Way”. From that day forward, the stretch of West 109th Street, connecting Riverside Drive to Broadway, will bear the name of the gentle Vietnamese Zen Master who devoted his life to teaching the world about mindful breathing, peaceful steps, and living deeply in the present moment.

A Journey from Homeland to the World
Zen Master Thich Nhat Hanh, affectionately known as “Thay” by his global community, was born in 1926 in Thanh Trung Village, Quang Dien District, Thua Thien – Hue Province, Vietnam. Ordained at the age of sixteen, Thay was soon known as a wise and humble monk, with the heart of a poet.

In the 1960s, as the Vietnam War escalated, Thay chose the path of Engaged Buddhism—bringing the Dharma out of the temple and into society to ease suffering. In several interviews, Thay shared the spirit of his commitment, saying that when bombs are falling outside, one cannot simply stay inside chanting. One must act to save lives and build peace.

“If we are not able to smile, then the world will not have peace. It is not by going out for a demonstration against nuclear missiles that we can bring about peace. It is with our capacity of smiling, breathing, and being peace that we can make peace.”
— From “Being Peace” (1987), Thich Nhat Hanh

That very spirit brought Thay to the United States, where he lived and taught at Union Theological Seminary and Columbia University. During the 1960s, Thay resided in a modest home at 306 West 109th Street, a quiet corner amidst the bustling city of New York. There, he was both a scholar and a messenger of peace, tirelessly advocating for an end to the Vietnam War.

Thay’s relentless peace efforts touched the hearts of politicians, scholars, and young Americans alike. His voice reached all the way to the White House. In 1967, Dr. Martin Luther King Jr. officially nominated Thay for the Nobel Peace Prize, calling him “an apostle of peace and nonviolence.”

Plum Village – Planting Seeds of Peace
After years of peace activism, Thay settled in the countryside of Plum Village, France, to plant seeds of peace for humankind. Plum Village grew to become a world-renowned mindfulness practice center, where tens of thousands from all walks of life and faiths came to learn mindful breathing.

Thay taught: “We walk not to arrive, but to enjoy each step along the way.”

His teachings were simple, ordinary, yet profoundly touched millions of hearts. Books such as “The Miracle of Mindfulness”, “Peace Is Every Step”, and “Anger” became beloved companions for countless readers around the world.

But Thay did not stop there. He brought mindfulness into schools, hospitals, prisons, and even major leadership centers. His teachings gained deep respect and wide application among scientists, psychologists, and business leaders throughout the West.

Recognition by Icons of Western Knowledge
In 2023, Harvard University—one of America’s most prestigious institutions—established the Thich Nhat Hanh Center for Mindfulness in Public Health. It was the first time in history that a Vietnamese Zen Master’s name was honored in such a revered academic space.

Professor Howard Koh, Director of the Center, shared:
“Thich Nhat Hanh is a symbol of mindfulness and compassion. This center will continue his legacy in serving global public health.”

And now, New York City—the very place that once witnessed Thay’s footsteps—has chosen to name West 109th Street “Thich Nhat Hanh Way”. This is a historic and meaningful event, not only for the Vietnamese community but also for millions worldwide who have been touched by Thay’s teachings.

The dedication ceremony will take place on Friday, April 11, 2025, from 11:00 AM to 4:00 PM (New York time) at the corner of West 109th Street and Broadway, New York City—the very place where Thay once lived, taught, and devoted himself to peace.

Having a street named after Thay in the heart of New York—the modern world’s beating center—is a profound recognition of his quiet yet enduring contributions to humanity. A Vietnamese monk, a poet, a peace activist—Thay walked through life carrying no weapons, no power, only his breath, his smile, and mindful steps.

A Street – A Lifetime
“Thich Nhat Hanh Way” is not merely a name, but a gentle reminder to all of us about mindful living amidst the crowded streets of life. In every brick, every tree along the way, one can almost hear Thay’s familiar words:
“Breathing in, I know I am breathing in. Breathing out, I know I am breathing out.”

From his humble roots in Vietnam, Thay stepped into the world with nothing but compassion and wisdom. Wherever he went, war quieted, hatred softened. He did not seek to change the world through force, but to guide us in truly living, in learning to pause, let go, and smile.

Today, that legacy is beautifully engraved in the streets of New York—a path named after Thay. It is not a destination, but an invitation for all of us caught in life’s busyness—to pause, breathe with the earth and sky, and walk gently with peace and mindfulness.

A Legacy That Lives On
Zen Master Thich Nhat Hanh passed away on January 22, 2022, at Tu Hieu Root Temple in Hue, Vietnam. Yet, Thay has never truly left. He is still there—in the falling leaves, in the morning light, and in every peaceful breath of those who have heard and practiced his teachings.

“Thich Nhat Hanh Way” is not just New York’s street, but a path for anyone seeking peace. A path beyond borders, race, or religion—carrying only love and understanding as our companions.

And now, Thay has become a path—a way leading us back to our true selves.

Friday, March 14, 2025

Tâm Thường Định: Chánh Niệm, Tỉnh Giác hay Ảo Giác? | Mindfulness – Awareness or Illusion?


Nhân đọc một bài viết “Tâm linh nhưng không tôn giáo: Tu chánh niệm nhưng không giáo hội” trên Việt Báo phản ánh một xu hướng xã hội hiện đại: nhiều người tìm đến chánh niệm như một phương tiện giảm căng thẳng, nâng cao chất lượng cuộc sống mà không cần liên kết với bất kỳ tổ chức tôn giáo nào. Điều này đặt ra một câu hỏi quan trọng: Liệu chánh niệm, khi bị tách rời khỏi bối cảnh Phật giáo, có còn giữ được giá trị đích thực của nó hay chỉ trở thành một ảo giác mang tính trấn an tạm thời?

Ngày nay, chánh niệm được quảng bá rộng rãi dưới dạng một phương pháp thực hành giúp giảm stress, nâng cao hiệu suất làm việc, tăng cường sự tập trung, và cải thiện sức khỏe tinh thần. Tuy nhiên, chánh niệm trong Phật giáo không đơn thuần là một kỹ thuật điều chỉnh tâm lý, mà là một con đường tu tập để đi đến tỉnh giác và giải thoát. Khi bị cắt rời khỏi bối cảnh đạo đức và trí tuệ, chánh niệm dễ dàng trở thành một ảo giác, khiến người ta tưởng mình tỉnh thức nhưng thực ra vẫn bị dẫn dắt bởi bản ngã và tham ái.

Nhiều công ty lớn ở phương Tây đã đưa chánh niệm vào môi trường làm việc như một chiến lược giúp nhân viên đối phó với căng thẳng. Bề ngoài, điều này có vẻ là một sáng kiến nhân văn, nhưng thực chất, nó chỉ giúp nhân viên chịu đựng áp lực tốt hơn, thay vì giải quyết nguyên nhân gốc rễ của sự căng thẳng là điều kiện làm việc quá tải. Chánh niệm bị sử dụng như một liều thuốc giảm đau thay vì một phương pháp chữa lành thực sự.

Sự bùng nổ của các khóa học, ứng dụng chánh niệm trực tuyến biến thực hành này thành một thị trường khổng lồ. Người ta dễ dàng bỏ ra hàng trăm đô la để mua một khóa học thiền chánh niệm mà không cần bất kỳ sự hướng dẫn nào về đạo đức hay triết lý sâu xa. Chánh niệm trở thành một sản phẩm tiêu dùng, nơi mà “khách hàng” chỉ quan tâm đến hiệu quả nhanh chóng mà không cần hiểu biết về sự chuyển hóa nội tâm thực sự.

Nhiều người thực hành chánh niệm với mong muốn đạt được trạng thái “thư giãn”, “bình an”, “hài lòng với hiện tại”. Nhưng nếu không có trí tuệ, chánh niệm có thể trở thành một công cụ nuôi dưỡng bản ngã thay vì giúp con người thoát khỏi khổ đau. Họ chỉ chọn lọc những gì dễ chịu, nhưng từ chối đối diện với sự thật đau khổ của chính mình. Đây là một ảo giác nguy hiểm, vì nó tạo ra cảm giác giả tạo về giác ngộ, nhưng thực chất chỉ là sự lẩn tránh thực tại.

Không chỉ người lớn, mà ngay cả trong môi trường giáo dục trẻ em, việc hiểu sai về chánh niệm cũng đang diễn ra. Trong các buổi sinh hoạt GĐPT, nhiều huynh trưởng xem việc cho các em thực hành chánh niệm như một biện pháp để “giảm tăng động”, giúp các em “ngồi yên một chút” mà không cần quan tâm đến ý nghĩa sâu xa của thực hành này. Nếu chỉ sử dụng chánh niệm như một phương tiện để kiểm soát hành vi trẻ em mà không dạy các em cách hiểu chính mình, cách trau dồi đạo đức và phát triển trí tuệ, thì đó là một cách tiếp cận hời hợt. Chánh niệm không đơn giản là ngồi xuống, nhắm mắt lại và hít thở sâu. Chánh niệm là sự nhận biết rõ ràng về thân tâm, là sự tỉnh giác giúp trẻ hiểu về cảm xúc, suy nghĩ và cách phản ứng với thế giới xung quanh bằng từ bi và trí tuệ. Nếu chánh niệm được thực hành mà thiếu chiều sâu giáo dục, thì nó sẽ trở thành một hình thức “kềm chế tạm thời” chứ không phải là phương pháp giúp trẻ em trưởng thành một cách trọn vẹn.

Trong Phật giáo, chánh niệm vừa là sự tập trung vào hiện tại, vừa là sự nhận thức rõ về bản chất vô thường, khổ và vô ngã của mọi hiện tượng. Chánh niệm phải đi đôi với chánh tư duy, giúp con người thấy rõ bản chất thực sự của chính mình và thế giới. Nếu chỉ dùng chánh niệm như một công cụ trấn an, nó sẽ trở thành một hình thức “nịnh bợ tâm trí”, giúp ta cảm thấy dễ chịu nhưng không hề giúp ta thoát khỏi vô minh.

Sự khác biệt giữa chánh niệm đích thực và ảo giác chánh niệm nằm ở mục đích thực hành. Chánh niệm đích thực giúp con người hiểu rõ bản chất khổ đau, thấy được sự vận hành của tâm trí và phát triển trí tuệ để sống đúng đắn, thiện lành. Ngược lại, ảo giác chánh niệm chỉ tập trung vào sự thoải mái nhất thời, khiến con người bị kẹt trong vòng lặp của cảm xúc dễ chịu và sự tự thỏa mãn, thay vì vượt lên trên những ràng buộc của bản ngã.

Để tránh rơi vào cái bẫy của chánh niệm thực dụng, cần có sự hướng dẫn đúng đắn từ những bậc thầy am hiểu Phật pháp và duy trì tinh thần tỉnh giác đúng nghĩa. Không xem chánh niệm như một phương pháp thư giãn đơn thuần, mà là một phần của con đường tỉnh thức. Không thực hành chánh niệm theo cách chọn lọc phiến diện, mà phải kết hợp với trí tuệ và đạo đức. Không chạy theo các chương trình chánh niệm thương mại hóa, mà phải tìm hiểu bản chất sâu xa của thực hành này trong bối cảnh tu tập thực sự.

Chánh niệm không phải là kỹ thuật – mà là sự chuyển hóa. Nếu không có trí tuệ và đạo đức, chánh niệm sẽ trở thành một màn sương che lấp sự thật, thay vì giúp ta thấy rõ bản chất của chính mình.

Xã hội ngày nay đang đưa chánh niệm vào quá nhiều lĩnh vực theo hướng thực dụng hóa, khiến nó dần mất đi giá trị thực sự. Bài báo trên Việt Báo phản ánh một thực tế đáng ngại: nhiều người đang thực hành chánh niệm mà không cần đến giáo hội hay tôn giáo. Nhưng điều đáng lo ngại hơn là nhiều người đang thực hành chánh niệm mà không cần đến trí tuệ.

Chánh niệm không phải là sự an ủi. Chánh niệm là sự thật. Nếu thiếu tỉnh giác, chánh niệm chỉ là một giấc mơ đẹp trong vô minh.

Rốt cuộc lại, thuật ngữ ‘Non-religion’ không đơn giản là ‘phi tôn giáo’ hay ‘vô thần’. Nó không hẳn biểu thị sự từ chối niềm tin tôn giáo, mà còn bao gồm một phạm trù rộng lớn những cá nhân và nhóm không đồng nhất với bất kỳ truyền thống tôn giáo nào, nhưng vẫn có thể quan tâm đến các giá trị tâm linh, đạo đức và thực hành ý nghĩa. Trong xã hội hiện đại, nhiều người chọn lối sống không liên kết với bất kỳ tôn giáo nào nhưng vẫn tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống, giá trị đạo đức và sự an lạc nội tâm. Đây chính là nơi các thực hành ‘chánh niệm’ (mindfulness) bước vào như một cầu nối giữa truyền thống Phật giáo và những người thuộc nhóm ‘Non-religion’.

Sacramento, ngày 14 tháng 03 năm 2025

Tâm Thường Định

Mindfulness – Awareness or Illusion?

It is evident that an increasing number of individuals in contemporary society are adopting mindfulness as a method of stress relief and enhanced quality of life, without being affiliated with any religious organization, after reading the article “Spiritual but Not Religious: Practicing Mindfulness Without the Church” published on Việt Báo. This trend poses a critical question: Does mindfulness retain its genuine essence when it is removed from its Buddhist context, or does it devolve into a mere illusion of transient comfort?

Currently, mindfulness is widely advocated as a practical aid for enhancing work performance, reducing stress, improving mental well-being, and increasing focus. Nevertheless, mindfulness is not merely a psychological adjustment technique in Buddhism; it is a path of practice that leads to genuine awareness and liberation. Mindfulness can easily transform into an illusion when it is divorced from its ethical and wisdom-based foundation, causing individuals to believe they are alert when, in reality, they are still being driven by ego and craving.

In order to assist employees in managing tension, numerous Western corporations have implemented mindfulness programs in the workplace. Upon initial inspection, this may seem to be a humanitarian initiative; however, it frequently involves employees enduring pressure rather than addressing the underlying causes of stress, which are excessive duties and a toxic work environment. In this context, mindfulness is employed as a painkiller rather than a genuine therapeutic method.

This practice has been transformed into a substantial market as a result of the proliferation of mindfulness courses and mobile applications. Individuals are prepared to invest hundreds of dollars in mindfulness meditation programs without receiving any guidance on ethics or a more profound philosophical comprehension. Mindfulness has evolved into a consumer product, with “customers” prioritizing immediate outcomes over a genuine comprehension of internal transformation.

In an effort to achieve a state of “contentment with the present moment,” “peace,” or “relaxation,” numerous individuals are practicing mindfulness. Nevertheless, mindfulness can be a tool that reinforces the ego rather than assisting in the transcendence of suffering if it is not accompanied by wisdom. While averting confrontation with their own suffering, practitioners may selectively adopt only the pleasant aspects of mindfulness. This is a perilous delusion, as it generates a fabricated sense of enlightenment that, in reality, is merely an attempt to evade the truth.

This misconception of mindfulness is not exclusive to adults; it is also apparent in the education of children. Some leaders in the Buddhist Youth Association (GĐPT) introduce mindfulness practices to children solely as a means of “reducing hyperactivity” or “helping them sit still for a while,” without considering the more profound significance of this practice. This is a superficial and misguided approach if mindfulness is exclusively employed to regulate children’s behavior, without fostering their intellectual development, ethical cultivation, or self-awareness. Mindfulness is not limited to the act of sitting, closing one’s eyes, and taking long breaths. It involves the development of awareness that enables children to comprehend their emotions, thoughts, and reactions to the world around them with compassion and wisdom, as well as the distinct recognition of their own body and mind. Mindfulness is reduced to a transient form of restraint rather than a method for holistic development when it is practiced without a foundation in education.

Mindfulness in Buddhism pertains to the recognition of the impermanence, suffering, and selflessness of all phenomena, in addition to the concentration on the present moment. Mindfulness must be accompanied by accurate comprehension, which allows individuals to perceive the genuine nature of the world and themselves. Mindfulness will be reduced to a mere form of “mental flattery” if it is applied solely for the purpose of self-soothing, providing transient solace but failing to free one from ignorance.

The purpose of practice is the defining factor between true mindfulness and the illusion of mindfulness. Individuals can develop the wisdom necessary to live virtuously and righteously by recognizing the workings of the mind, comprehending the nature of suffering, and practicing genuine mindfulness. In contrast, illusory mindfulness concentrates solely on transient comfort, ensnaring individuals in a cycle of self-indulgence and pleasant sensations, rather than assisting them in transcending the constraints of the ego.

It is imperative to seek appropriate guidance from authentic Buddhist teachers and maintain a spirit of genuine awareness in order to avoid falling into the pitfall of commercialized mindfulness. Mindfulness should not be misunderstood as a mere relaxation technique; rather, it should be acknowledged as a component of the journey to awakening. It is imperative that it not be implemented selectively, without regard for wisdom and ethics. It is advisable to avoid market-driven mindfulness programs and instead explore the profound nature of mindfulness within a suitable spiritual framework.

Mindfulness is not merely a technique; it is a transformational process. Mindfulness will become a veil that obscures the truth, rather than a light that reveals it, in the absence of wisdom and ethics.

The genuine value of mindfulness is being diminished as a result of the utilitarian integration of mindfulness into an excessive number of aspects of modern life. The article on Việt Báo is indicative of a concerning reality: a significant number of individuals are engaging in mindfulness practices without any association with religious traditions. Nevertheless, the more concerning concern is that a significant number of individuals are engaging in mindfulness without the requisite wisdom.

Mindfulness is not about comfort; it is about the truth. Mindfulness is solely a beautiful dream in the darkness of ignorance without genuine awareness.

Ultimately, the term “Non-religion” is not merely identical to “atheism” or “irreligion.” It may not merely denote the denial of religious convictions; rather, it encompasses a wide range of individuals and groups who do not identify with any specific religious tradition but nevertheless participate in spiritual values, ethics, and meaningful practices. In contemporary society, a significant number of individuals opt for a lifestyle that is not influenced by any religious affiliation, while simultaneously pursuing the meaning, moral values, and inner peace of life. This is the precise point at which mindfulness practices function as a bridge between Buddhist traditions and those classified as “non-religious.”

Sacramento, March 14, 2025

Tâm Thường Định

Saturday, March 8, 2025

Tâm Quảng Nhuận: Cái dũng của một trái tim tỉnh thức


Người ta thường nghĩ về dũng như một sự mạnh mẽ, một sự kiên cường không khuất phục trước nghịch cảnh, một sức mạnh vô song có thể chiến thắng mọi kẻ thù bên ngoài. Nhưng cái dũng chân thật không phải là thứ có thể đo đếm bằng chiến công, không phải là thanh gươm sắc bén hay tấm khiên kiên cố. Cái dũng chân thật là một sự nhẹ nhàng mà bất hoại, một sự buông mà không rơi, một sự vững vàng mà không cần bám víu vào bất cứ điều gì.

Thái tử Tất Đạt Đa đã có tất cả những gì người đời mong cầu: địa vị, quyền lực, giàu sang, tình thân. Vậy mà, giữa đêm khuya, khi ánh trăng lặng lẽ trải dài trên cung điện vàng son, chàng đã quay lưng bước đi, để lại sau lưng tất cả những gì từng gắn bó, như một cánh chim rời tổ, bay vào bầu trời vô tận. Đó không phải là một sự từ bỏ trong đau khổ hay dằn vặt, mà là một sự dứt khoát trong thương yêu. Bởi chàng hiểu rằng, tình thương lớn không phải là giữ lại, mà là buông ra để tìm một con đường sáng hơn. Cái dũng của Thái tử không phải là từ bỏ ngai vàng để làm một ẩn sĩ, mà là từ bỏ mọi ràng buộc của thế gian để đi tìm con đường giải thoát cho chính mình và cho tất cả.

Buông bỏ là một việc khó khăn. Một người có thể chiến thắng kẻ thù mạnh nhất trên chiến trường, nhưng vẫn có thể bị trói buộc bởi một nỗi sợ vô hình. Một người có thể trèo lên đỉnh núi cao nhất, nhưng vẫn có thể bị giam cầm bởi chính những suy nghĩ của mình. Cái dũng thật sự là dám đối diện với chính mình, dám đi vào sâu thẳm tâm hồn để thấy rõ những sợi dây vô hình đang giữ chặt mình lại. Cái dũng của Thái tử là dám đi con đường mà chưa ai đi, dám đặt câu hỏi mà chưa ai dám đặt, dám phá vỡ những lề thói cũ để tìm ra sự thật.

Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử cũng mang trong tim một cái dũng như thế. Đó là cái dũng của một người dám đứng vững giữa dòng đời chảy xiết, nhưng không bị cuốn đi bởi những làn sóng của vô minh. Đó là cái dũng của một người biết rõ con đường phía trước đầy chông gai, nhưng vẫn bước đi với một nụ cười nhẹ nhàng. Đó là cái dũng của một người không cần đến sự khẳng định của bất kỳ ai, không cần danh vọng hay lời khen, mà chỉ cần biết rằng mình đang làm đúng với lương tâm, đang sống đúng với lý tưởng.

Cái dũng của người Huynh trưởng không nằm trong những lời lẽ đanh thép hay những hành động mạnh mẽ, mà nằm trong sự kiên trì mỗi ngày. Đó là cái dũng của một người lặng lẽ chuẩn bị một buổi sinh hoạt dù biết sẽ chẳng ai tán thưởng, cái dũng của một người tiếp tục dẫn dắt đàn em dù biết rằng con đường phía trước còn rất dài. Đó là cái dũng của một người có thể buông bỏ những gì không còn phù hợp, để mở ra một phương trời mới.

Cái dũng ấy không đến từ sự cố chấp hay bảo thủ, mà đến từ sự thấu hiểu và tình thương. Một người có dũng khí thật sự không phải là người không sợ hãi, mà là người biết sợ hãi và vẫn đi tới. Một người có dũng khí thật sự không phải là người cứng nhắc, mà là người linh hoạt như dòng nước, có thể thay đổi mà không đánh mất bản chất của mình. Một người có dũng khí thật sự không phải là người gồng mình chống lại thế gian, mà là người có thể mỉm cười với tất cả những gì đến và đi.

Có những lúc, người Huynh trưởng phải đối diện với những khó khăn mà không ai có thể chia sẻ. Có những lúc, chúng ta cảm thấy cô đơn trên con đường phụng sự. Nhưng đó cũng chính là lúc cái dũng trong người được thử thách. Một ngọn lửa không bao giờ biết được sức mạnh của mình nếu không đối diện với gió lớn. Một đóa sen không bao giờ biết được sự kiên cường của mình nếu không vươn lên từ bùn lầy.

Nhìn lại cuộc đời của Đức Phật, ta thấy một con đường đầy những thử thách. Ngài đã trải qua đói khát, cô đơn, cám dỗ, hiểu lầm. Nhưng ngài không oán trách, không từ bỏ, không quay lưng lại với nhân thế. Cái dũng của ngài không phải là chinh phục thế gian, mà là chinh phục chính mình. Cái dũng của ngài không phải là chiến thắng ai đó, mà là hóa giải mọi sự đối nghịch trong tâm.

Người Huynh trưởng cũng vậy. Con đường phía trước không phải lúc nào cũng bằng phẳng. Sẽ có những lúc chúng ta cảm thấy muốn buông tay, sẽ có những lúc mình nghi ngờ chính mình. Nhưng hãy nhớ rằng, cái dũng thật sự không phải là không bao giờ ngã, mà là ngã rồi vẫn đứng dậy. Cái dũng thật sự không phải là không bao giờ yếu đuối, mà là dám thừa nhận sự yếu đuối ấy và tiếp tục bước đi.

Có một loại dũng cảm rất lặng lẽ, nhưng cũng rất bền bỉ. Đó là dũng cảm mỉm cười khi bị hiểu lầm, dũng cảm tiếp tục khi không ai nhìn thấy, dũng cảm thương yêu ngay cả khi không được đáp lại. Đó là cái dũng của một người biết rằng con đường này không dễ đi, nhưng vẫn chọn đi.

Và rồi một ngày nào đó, khi nhìn lại, chúng ta sẽ nhận ra rằng chính những thử thách đã làm cho cái dũng trong người lớn mạnh. Chúng ta sẽ nhận ra rằng, không phải những chiến thắng hay thành tựu bên ngoài mới là quan trọng, mà chính là sự trưởng thành trong tâm hồn. Chúng ta sẽ nhận ra rằng, cái dũng không phải là một điều gì xa vời, mà luôn hiện hữu trong từng hơi thở, từng bước chân, từng ánh mắt hiền hòa mà chúng ta dành cho đàn em.

Cái dũng thật sự không ồn ào. Nó không cần phải được nhìn thấy. Nó chỉ cần được sống.

Phật lịch 2568

Tâm Quảng Nhuận

The Courage of an Awakened Heart

People often think of courage as strength, as an unyielding resilience in the face of adversity, an unrivaled power capable of conquering all external enemies. But true courage is not something that can be measured by victories, nor is it a sharp sword or an impenetrable shield. True courage is a quiet yet indestructible presence, a letting go without falling, a steadfastness that does not cling to anything.

Prince Siddhartha had everything that people desire—status, power, wealth, and family. Yet, in the stillness of the night, as the moonlight gently bathed the golden halls of the palace, he turned away and walked into the unknown, leaving behind everything he had ever known—like a bird leaving its nest to soar into the vast, uncharted sky. It was not an abandonment borne of sorrow or regret, but a departure rooted in love and resolve. For he understood that true love does not grasp or possess; it releases, seeking a brighter path. The courage of the Prince was not in renouncing a throne to become an ascetic, but in relinquishing all worldly attachments to seek liberation for himself and for all beings.

Letting go is never easy. A person may triumph over the strongest enemy on the battlefield, yet still be ensnared by an invisible fear. A person may climb the highest peak, yet still be imprisoned by their own thoughts. True courage is the willingness to face oneself, to step into the deepest corners of the heart, and to see clearly the invisible chains that hold one back. The courage of the Prince was the courage to walk a path no one had walked before, to ask the questions no one had dared to ask, to break away from tradition to seek the truth.

A Gia Đình Phật Tử (Buddhist Youth Family) leader carries within them this same kind of courage. It is the courage to stand firm in the midst of a rushing current, yet not be swept away by the waves of ignorance. It is the courage to see that the road ahead is filled with obstacles and still walk forward with a gentle smile. It is the courage to seek no recognition, no reward, no applause—only the inner knowing that one is walking in accordance with their conscience, living true to their ideals.

The courage of a Huynh Trưởng (Buddhist Youth Leader) is not found in forceful words or grand gestures, but in quiet perseverance. It is in the leader who diligently prepares for a gathering, knowing there may be no praise. It is in the leader who continues guiding younger generations, knowing that the path ahead remains long. It is in the leader who is willing to release what no longer serves, in order to open a new horizon.

Such courage does not stem from stubbornness or rigidity, but from deep understanding and love. A truly courageous person is not one who feels no fear, but one who acknowledges fear and still moves forward. A truly courageous person is not one who remains rigid, but one who, like water, can adapt and change without losing their essence. A truly courageous person is not one who fights against the world, but one who can smile at everything that comes and goes.

There will be times when a Huynh Trưởng faces challenges that no one else can understand. There will be moments when we feel alone on this path of service. But it is in these very moments that our courage is tested. A flame does not know its strength until it meets the wind. A lotus does not know its resilience until it rises from the mud.

Looking at the life of the Buddha, we see a journey filled with trials. He endured hunger, solitude, temptation, and misunderstanding. Yet he did not complain, did not turn away, did not abandon the world. His courage was not in conquering others, but in conquering himself. His courage was not in defeating external enemies, but in dissolving all inner conflicts.

The Huynh Trưởng is the same. The road ahead will not always be smooth. There will be times when we want to let go, times when we doubt ourselves. But remember, true courage is not about never falling—it is about rising each time we do. True courage is not about never feeling weak—it is about acknowledging our vulnerability and continuing forward.

There is a quiet yet enduring form of courage. It is the courage to smile in the face of misunderstanding, to persist when no one is watching, to love even when that love is not returned. It is the courage of someone who knows this path is not easy, yet still chooses to walk it.

And one day, when we look back, we will see that it was the trials that strengthened our courage. We will realize that it is not external victories that matter most, but the growth of our own hearts. We will understand that courage is not something distant or grand—it is present in every breath, every step, every gentle glance we offer to those we guide.

True courage is not loud. It does not need to be seen. It only needs to be lived.

Buddhist Calendar 2568
Tâm Quảng Nhuận

Friday, February 7, 2025

Thiên Nhạn: Huyền Trang và Đường Tăng: Giữa Lịch Sử và Huyền Thoại

Tây Du Ký[1] (西游记) và hình tượng Đường Tăng[2], tuy là một hiện tượng văn hóa có ảnh hưởng rộng lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra những câu hỏi quan trọng về nhận thức lịch sử và cách Phật tử tiếp cận với di sản của Pháp sư Huyền Trang[3]. Trong sự giao thoa giữa lịch sử và truyền thuyết, giữa biểu tượng văn hóa đại chúng và những giá trị nguyên thủy của Phật giáo, không thể phủ nhận rằng sự phổ biến của Tây Du Ký đã làm lu mờ hình ảnh thật của một trong những bậc thầy vĩ đại nhất của Phật giáo Trung Hoa. Đây là điều không thể tránh khỏi khi một nhân vật lịch sử bước vào vùng ảnh hưởng của truyền thông đại chúng, nơi mà sự thật thường bị thay thế bằng một hình ảnh dễ tiếp nhận hơn.

Pháp sư Huyền Trang là một trong những học giả lỗi lạc của lịch sử, người đã thực hiện một cuộc hành trình vượt hơn mười ngàn dặm để tìm kiếm chân lý, bất chấp hiểm nguy, những cuộc xung đột chính trị và sự đe dọa của thiên nhiên. Ông không có ba đồ đệ thần thông quảng đại bảo vệ, cũng không phải là một vị hòa thượng dễ bị lừa như cách Tây Du Ký mô tả Đường Tăng. Pháp sư Huyền Trang đã đi qua gần hai mươi nước trên đường đến Ấn Độ, đối diện với sự hoang tàn của những thành phố từng huy hoàng, chứng kiến sự suy tàn của các trung tâm Phật giáo một thời và nhận ra sự cần thiết phải đưa kinh điển về Trung Quốc để bảo vệ giáo pháp. Trên con đường của mình, ông không chỉ học mà còn dạy, không chỉ thỉnh kinh mà còn đối thoại với những vị luận sư vĩ đại, tham gia vào những cuộc tranh biện triết học quan trọng. Ông là một trong những trụ cột đưa tư tưởng Duy Thức tông vào Phật giáo Trung Hoa, để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử tư tưởng.

Bằng chứng lịch sử về hành trình của Huyền Trang được ghi chép trong Đại Đường Tây Vực Ký[4] (大唐西域記), một tác phẩm không chỉ có giá trị tôn giáo mà còn mang ý nghĩa lịch sử, địa lý, nhân chủng học và triết học sâu sắc. Tác phẩm này ghi chép lại chi tiết các quốc gia, thành phố, hệ thống xã hội, tín ngưỡng và phong tục tập quán mà Pháp sư Huyền Trang đã chứng kiến. Đây không phải là một hành trình siêu nhiên đầy phép màu, mà là một cuộc hành trình gian nan của một nhà tu hành và học giả kiên cường, người dấn thân vào con đường đầy nguy hiểm với mục tiêu cao cả: mang giáo pháp về phục hưng Phật giáo Trung Hoa. Tác phẩm Đại Đường Tây Vực Ký không chỉ phản ánh sự uyên bác của Pháp sư Huyền Trang, mà còn là một minh chứng về việc Phật giáo đã phát triển và suy tàn ra sao trên những vùng đất mà ông đi qua.

Nhưng trong Tây Du Ký, hình ảnh Đường Tăng trở thành một nhân vật có phần ngây thơ, thậm chí có lúc nhu nhược. Sự hư cấu này không chỉ làm thay đổi bản chất của nhân vật lịch sử mà còn phản ánh cách nhìn nhận của văn hóa đại chúng đối với một nhà tu hành. Nếu đặt vào bối cảnh của thế kỷ 16, khi Ngô Thừa Ân viết Tây Du Ký, ta có thể thấy rằng hình ảnh Đường Tăng được xây dựng theo một lối tiếp cận mang đậm ảnh hưởng của truyền thống dân gian và triết học Đạo giáo, nơi mà các vị chân tu thường được thử thách bởi yêu ma và thế giới huyễn hoặc. Điều này không sai trong khuôn khổ một tác phẩm văn học, nhưng lại có thể gây hiểu lầm cho những ai chỉ tiếp cận nhân vật này thông qua câu chuyện hư cấu.

Tây Du Ký là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của Trung Hoa, nhưng bản chất của nó không phải là một tư liệu lịch sử mà là một tiểu thuyết mang tính thần thoại, pha trộn nhiều yếu tố của Đạo giáo, Nho giáo và Phật giáo. Tác phẩm này lấy cảm hứng từ hành trình có thật của Pháp sư Huyền Trang, nhưng thay vì tái hiện trung thực hành trình ấy, Ngô Thừa Ân đã biến nó thành một câu chuyện mang tính giáo huấn và giải trí, trong đó Đường Tăng trở thành một nhân vật chính yếu, nhưng không phải với bản chất của Pháp sư Huyền Trang thật sự. Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, và Sa Tăng là những sáng tạo mang tính biểu tượng, đại diện cho những trở ngại trên con đường tu hành, nhưng không hề có trong bản gốc lịch sử của Pháp sư Huyền Trang.

Hiệu ứng “mass truth”[5] – khi một sự thật được chấp nhận rộng rãi chỉ vì nó được nhắc đến nhiều lần – là điều đã xảy ra với hình ảnh Đường Tăng. Trong văn hóa phổ thông, số đông thường tiếp nhận một câu chuyện qua phim ảnh, tiểu thuyết hoặc các sản phẩm giải trí mà không có nhu cầu tra cứu lại nguồn gốc lịch sử của nó. Điều này dẫn đến sự nhầm lẫn giữa một biểu tượng văn học và một nhân vật lịch sử thực sự. Nếu một người chỉ biết đến Đường Tăng qua Tây Du Ký, họ có thể tin rằng đây là hình ảnh thực tế của Pháp sư Huyền Trang, mà không biết đến những đóng góp to lớn của ông trong việc dịch thuật kinh điển, hệ thống hóa tư tưởng Duy Thức học và kết nối Phật giáo Trung Hoa với truyền thống Phật giáo Ấn Độ.

Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là Tây Du Ký hoàn toàn không có giá trị. Thực tế, tác phẩm này đã góp phần đưa hành trình thỉnh kinh trở thành một câu chuyện mang tính toàn cầu, giúp lan tỏa một phần hình ảnh của Phật giáo vào nền văn hóa đại chúng. Tây Du Ký không chỉ là một tác phẩm tôn giáo, mà còn là một kiệt tác văn học với những tầng lớp ý nghĩa sâu xa.

Nhưng mặt khác, nếu không có sự phân biệt rõ ràng giữa truyền thuyết và lịch sử, Tây Du Ký có thể tạo ra những nhận thức sai lệch về giáo lý và con đường tu tập. Đường Tăng trong Tây Du Ký thường được miêu tả là quá mức nhân từ đến mức thiếu thực tế, một hình mẫu đạo đức nhưng không có chiều sâu trí tuệ. Điều này đi ngược lại với hình ảnh của Pháp sư Huyền Trang thực sự, một bậc thầy có khả năng tranh luận sắc bén với các học giả, một người không chỉ là hành giả mà còn là một triết gia và nhà phiên dịch vĩ đại.

Do đó, trong mọi cuộc thảo luận về Tây Du Ký và Pháp sư Huyền Trang, cần có một sự nhận thức rõ ràng: tôn trọng giá trị văn học của Tây Du Ký nhưng không đồng hóa nó với lịch sử. Điều này không chỉ quan trọng trong việc bảo vệ sự thật lịch sử mà còn giúp duy trì tinh thần chính thống của giáo pháp, đảm bảo rằng khi nói về những bậc thầy của Phật giáo, chúng ta không dừng lại ở những câu chuyện huyễn hoặc mà phải nhìn thấy trí tuệ và công hạnh thực sự của họ. Đại Đường Tây Vực Ký là sự ghi chép chân thực về con đường tu học và hoằng pháp của một bậc chân nhân, còn Tây Du Ký là một tác phẩm đầy sáng tạo với ý nghĩa ẩn dụ nhưng không nên bị nhầm lẫn với lịch sử.

Nhân dịp này, chúng tôi cũng xin đề cập đến tác phẩm “Tây Vực Ký” của Hòa thượng Thích Như Điển, với lời giới thiệu sâu sắc của cố Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, hy vọng phần nào bổ sung thêm góc nhìn học thuật về hành trình của Pháp sư Huyền Trang, đồng thời góp phần làm sáng tỏ vai trò quan trọng của di sản này đối với Phật giáo và nền tri thức nhân loại.

Trong bối cảnh so sánh giữa hai tác phẩm “Đại Đường Tây Vực Ký” và “Tây Du Ký”, việc tiếp cận công trình dịch thuật của Hòa thượng Như Điển mang đến một nhận thức quan trọng: những ghi chép lịch sử về Pháp sư Huyền Trang không đơn thuần là câu chuyện về một cuộc hành trình gian khổ, mà là một đóng góp to lớn cho nền tảng triết học, tâm lý học và tôn giáo của nhân loại.

Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ trong lời giới thiệu đã nêu bật ý nghĩa vĩ đại của sự nghiệp mà Pháp sư Huyền Trang để lại. Ngài là một nhà hành đạo, nhưng đồng là một nhà tư tưởng với những đóng góp quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển nền tri thức Phật giáo. Chính nhờ sự dịch thuật của Huyền Trang mà nhiều bộ kinh luận quan trọng từ hệ thống A-tì-đàm đến Duy thức học được lưu giữ lại, trở thành những nguồn tư liệu quý giá cho các nhà nghiên cứu ngày nay.

Điểm đặc biệt mà cố Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ nhấn mạnh chính là tầm ảnh hưởng vượt ra ngoài Phật giáo của các bản dịch của Pháp sư Huyền Trang. Ngài vừa góp phần lưu giữ kinh điển và vừa mở ra các nền tảng tư duy, từ triết học, luận lý học đến tâm lý học. Những bộ luận như Du-già hành phái[6] (瑜伽行派) của ngài Vô Trước[7] và ngài Thế Thân[8] mà Pháp sư Huyền Trang truyền bá chính là những tác phẩm đầu tiên đặt nền móng cho sự hiểu biết về tâm thức, tư duy triết học và nhận thức luận trong Phật giáo, thậm chí có thể so sánh với các nghiên cứu hiện đại về tâm lý học và triết học nhận thức phương Tây.

Trong khi đó, Tây Du Ký – với những yếu tố thần thoại, truyền thuyết – tất nhiên không thể truyền tải được chiều sâu triết lý mà Pháp sư Huyền Trang thực sự đã để lại. Đây là sự khác biệt lớn giữa sự thật lịch sử và hư cấu văn học – một bên là sự kiên định, trí tuệ, một bên là hình tượng đạo đức nhưng không thực sự phản ánh bản chất của người thật.

Hòa thượng Thích Như Điển, qua bản dịch ” Tây Vực Ký”, đã giúp nối kết những hiểu biết chân thực về Pháp sư Huyền Trang với độc giả hiện đại. Như cố Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã viết, việc dịch thuật này không nhằm để tôn vinh một nhân vật lịch sử, mà để khơi nguồn cảm hứng cho những ai mong cầu giải thoát chân chính, bởi vì câu chuyện của Pháp sư Huyền Trang không đơn giản là một cuộc hành trình về mặt địa lý, mà là một hành trình của tâm thức, một hành trình truy cầu trí tuệ vượt thoát khỏi vô minh.

Điều đáng suy ngẫm là trong khi Tây Du Ký đã giúp hình ảnh Đường Tăng trở thành một biểu tượng văn hóa đại chúng, thì các tác phẩm như Đại Đường Tây Vực Ký, và nay là bản dịch của Hòa thượng Như Điển, mới là những nguồn tư liệu có giá trị trong việc hiểu về lịch sử, triết học và giáo pháp mà Pháp sư Huyền Trang đã mang lại.

Nhìn từ khía cạnh Phật giáo, Tây Du Ký có thể được xem như một phương tiện thiện xảo để tiếp cận đạo pháp, nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó mà không đi sâu hơn vào những công trình dịch thuật như “Tây Vực Ký” hoặc “Đại Đường Tây Vực Ký” thì sẽ không thấy được bức tranh chân thực về con người và sự nghiệp của Pháp sư Huyền Trang. Sự sai biệt giữa hư cấu và lịch sử, giữa giải trí và nghiên cứu nghiêm túc, chính là bài học quan trọng mà người học Phật cần lưu tâm.

Việc biết đến Tây Du Ký là điều không có gì cần bàn cãi, nhưng việc hiểu rõ và trân trọng những di sản thực sự mà Pháp sư Huyền Trang để lại – thông qua các bản dịch nghiêm túc như của Hòa thượng Như Điển – mới là cách để đáp lại công hạnh của một bậc đại luận sư, một người đã hy sinh cả đời mình cho trí tuệ và giáo pháp.

Thiên Nhạn
07.02.2025

________________________

[1] Tây Du Ký (西游记) là một trong Tứ Đại Danh Tác của văn học cổ điển Trung Hoa, do Ngô Thừa Ân (吳承恩, 1500?-1582?) chấp bút vào thế kỷ 16 dưới triều Minh. Tác phẩm là một tiểu thuyết thần thoại, kể về hành trình thỉnh kinh của Đường Tăng (唐僧) cùng ba đồ đệ: Tôn Ngộ Không (孫悟空), Trư Bát Giới (豬八戒) và Sa Tăng (沙僧). Dù lấy cảm hứng từ hành trình có thật của Pháp sư Huyền Trang (玄奘, 602-664), nội dung tác phẩm mang đậm màu sắc huyền ảo, kết hợp triết lý Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo. Với lối kể hấp dẫn, Tây Du Ký trở thành một hiện tượng văn hóa đại chúng, nhưng đồng thời cũng làm lu mờ hình ảnh lịch sử thực sự của Pháp sư Huyền Trang.

[2] Đường Tăng (唐僧) – Nhân vật chính trong Tây Du Ký (西游记), một tiểu thuyết thần thoại của Ngô Thừa Ân vào thế kỷ 16. Dựa trên nguyên mẫu lịch sử là Pháp sư Huyền Trang (玄奘, 602–664), nhưng được hư cấu thành một nhà sư hiền lành, từ bi, đôi khi nhu nhược, phải nhờ vào ba đồ đệ—Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Tăng—hộ tống trên đường thỉnh kinh. Hình tượng Đường Tăng trong Tây Du Ký mang tính biểu tượng văn học hơn là một tái hiện chính xác về Huyền Trang lịch sử.

[3] Huyền Trang (玄奘, 602–664) là một cao tăng và học giả Phật giáo nổi tiếng đời Đường, người đã thực hiện hành trình kéo dài 17 năm từ Trung Quốc đến Ấn Độ để nghiên cứu và thỉnh kinh. Tác phẩm “Đại Đường Tây Vực Ký” (大唐西域記) của ông là một công trình ghi chép chi tiết về địa lý, văn hóa, tôn giáo và triết học của các nước Tây Vực thời bấy giờ, đồng thời trở thành nguồn tư liệu quan trọng cho cả Phật giáo và lịch sử nhân loại. Với hơn 1.300 bộ kinh được mang về và dịch thuật, Huyền Trang góp phần quan trọng vào sự phát triển của Duy Thức học (瑜伽行派) và nền tảng tư tưởng Phật giáo Trung Hoa.

[4] “Đại Đường Tây Vực Ký” (大唐西域記) là tác phẩm ghi chép chi tiết về hành trình thỉnh kinh của Đại sư Huyền Trang (602–664) từ Trung Quốc sang Ấn Độ vào thế kỷ VII. Đây là một trong những tư liệu quan trọng về địa lý, văn hóa, tôn giáo và lịch sử của các vương quốc mà ngài đã đi qua, cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình trạng Phật giáo đương thời. Tác phẩm gồm 12 quyển, hoàn thành vào năm 646 dưới triều Đường Thái Tông, và trở thành một di sản quý giá, không chỉ trong Phật giáo mà còn đối với nghiên cứu lịch sử và khảo cổ học.

[5] “Mass Truth” (sự thật đại chúng) là hiện tượng trong đó một thông tin hoặc niềm tin trở thành sự thật được chấp nhận rộng rãi không phải vì nó chính xác hay được kiểm chứng, mà vì số lượng người tin vào nó quá lớn. Khái niệm này phản ánh sự tác động của truyền thông, văn hóa đại chúng và tâm lý đám đông lên nhận thức xã hội. Trong bối cảnh lịch sử và văn học, “mass truth” có thể khiến hình ảnh một nhân vật hoặc sự kiện bị biến đổi qua thời gian, dẫn đến sự nhầm lẫn giữa thực tế và hư cấu. Trường hợp của Đường Tăng trong Tây Du Ký là một ví dụ tiêu biểu: nhân vật hư cấu này được biết đến rộng rãi hơn so với Huyền Trang lịch sử, dù hình ảnh của ông đã bị thần thoại hóa và tách rời khỏi thực tế.

[6] Du-già Hành Phái (瑜伽行派, Yogācāra) là một trường phái quan trọng của Phật giáo Đại Thừa, do hai luận sư Vô Trước (Asaṅga) và Thế Thân (Vasubandhu) khai sáng vào thế kỷ IV tại Ấn Độ. Trường phái này nhấn mạnh vào thực hành Du-già (Yoga) và phân tích tâm thức qua hệ thống Duy Thức Học (Vijñānavāda), đề xướng rằng toàn bộ thực tại chỉ là sự biểu hiện của thức (vijñāna), không có thực thể độc lập bên ngoài.

Triết lý của Du-già Hành Phái được bảo tồn trong các luận thư quan trọng như Du-già Sư Địa Luận (瑜伽師地論, Yogācārabhūmi-śāstra), Thành Duy Thức Luận (成唯識論, Vijñaptimātratāsiddhi-śāstra), và các bộ luận của Thế Thân như Tam Thập Tụng (三十頌, Triṃśikā). Những trước tác này có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của Phật giáo Đông Á và Tây Tạng, đặc biệt là các học thuyết về A-lại-da thức (Ālaya-vijñāna), tam tính (三性, trisvabhāva), và bát thức quy nhất tâm.

Học thuyết của Du-già Hành Phái không chỉ đóng vai trò nền tảng trong tư tưởng Phật giáo mà còn có giá trị đối với tâm lý học, nhận thức luận và triết học hiện đại.

[7] Vô Trước (Asaṅga, 世親, 4-5 thế kỷ CN) – Một đại luận sư Phật giáo Ấn Độ, người sáng lập Du-già hành phái (瑜伽行派, Yogācāra), còn gọi là Duy Thức học (唯識). Ông cùng em trai Thế Thân (Vasubandhu) hệ thống hóa tư tưởng Duy Thức, đặt nền móng cho luận lý học và tâm lý học Phật giáo. Các tác phẩm chính gồm Du-già Sư Địa Luận (瑜伽師地論)Hiển Dương Thánh Giáo Luận (顯揚聖教論), và Kim Cang Bát Nhã Kinh Luận (金剛般若經論). Ảnh hưởng sâu sắc của ông lan tỏa đến Trung Quốc, Tây Tạng và Đông Á, trở thành hệ tư tưởng cốt lõi trong Phật giáo Đại Thừa.

[8] Thế Thân (Vasubandhu, 世親, 316–396?) – Một trong những luận sư vĩ đại nhất của Phật giáo Đại thừa, cùng với anh trai là Vô Trước (Asaṅga), đặt nền móng cho Duy Thức Tông (Yogācāra). Ban đầu theo Thượng Tọa Bộ, sau chuyển sang Đại thừa nhờ Vô Trước. Tác phẩm quan trọng nhất của ông là Duy Thức Tam Thập Tụng (Triṃśikā Vijñaptimātratā), hệ thống hóa tư tưởng Duy thức, phân tích bản chất tâm thức và nhận thức luận. Các trước tác của ông ảnh hưởng sâu sắc đến triết học Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng.