Wednesday, March 14, 2018

Đào Tấn: Linh Phong Ký Sự

Lời dẫn: Hôm nay ngày 24 tháng Giêng cũng là ngày Lễ Hội Chùa Ông Núi - Linh Phong Thiền Tự xin đăng lại bài viết của nhà văn hóa Đào Tấn: Linh Phong Ký Sự. (Trí Nguyễn)



L.T.S: Đào Tấn - nhà văn hoá lớn của nước ta, không chỉ là nhà soạn tuồng kiệt xuất, nhà thơ tài ba, ông còn để lại nhiều áng văn hay. Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của ông về Chùa Linh Phong, một ngôi chùa đẹp nổi tiếng ở Bình Định trước đây. Bài dịch trích trong tập bản thảo "Văn Tế Ở Bình Định" của Lộc Xuyên Đặng Quý Địch.


Cách thành Đồ Bàn hơn ba mươi dặm vê hướng đông bắc, quanh các thôn Phương Phi Phương Thái thuộc vùng biển đều là núi non cả (trong quần sơn này) nổi lên một ngọn núi cao chót vót, xinh xắn, đứng một mình, đó là ngọn núi có chùa Linh Phong. (Nơi này) rừng suối cây đá có vẻ đẹp kín đáo và thanh cao không đâu bằng. Có thể nói đây là ngọn núi đẹp nhất tỉnh ta.

Vào năm thứ mười một đời vua Hiếu Minh (Quốc chúa, Minh Vương, Nguyễn Phúc Chu) ở triều trước nước ta, nhằm năm thứ 23 niên hiệu Chánh Hoà nhà Lê, tức năm Nhâm Ngọ (1702) có Mộc Y Sơn, ông tu tại núi này. Kết vỏ cây làm áo, mùa đông mùa hè vẫn mặc như thế, ung dung sống bên sườn núi, trong hang đá, ra vào không ai định trước được. Người trong vùng chẳng biết họ tên ông (nhân thấy ông ở trong núi, gọi ông là Sơn Ông (Ông Núi). Khảo tự phổ riêng của chùa (Linh Phong) cùng bài vị các đời trụ trì thờ tại chùa, thấy có ghi ông họ Lê tên Ban, người ở kinh đô Trung Quốc. Gọi Sơn Ông là Lê Ban chưa biết đúng không hoặc ông là người giấu tên trốn đời, sống hoà mình vào đám người chằm nón đốn củi dệt chiếu câu cá cũng chưa biết chừng! Ông ở núi này được vài năm thì chọn lưng chừng núi chỗ có con suối sâu và dài, phát cây hoang, vác đá lớn xếp chỗ nọ, lắp chỗ kia, lấy thanh tre làm một cái am nhỏ (công việc xây dựng nhanh chóng như có quỷ thần dị vật ngầm giúp). Am cất xong, đặt tên là: "Dũng Tuyển Tự" (Chùa Dũng Tuyển" gối đầu vào ngọn núi rất cao, cạnh con suối trong luôn có nước chảy, hai bên có mây già đá lạ, cây kỳ, hoa nổi tiếng, chỗ cao chỗ thấp chứa sẵn cái vẻ rất yên tĩnh và rất sạch sẽ. Cảnh trí này đều do tay ông sắp đặt lấy với tâm hồn của người thợ, lập riêng thành thế giới cỏn con giữa cõi trời và cõi người. Phía tả chùa có gian nhà đá, nóc bằng như trần nhà, hai bên thẳng như vách, giữa như giường nằm, ngoài như bậc thềm, như sân. Trên mặt sân đá về phía hữu có chỗ lõm xuống, có truyền thuyết cho rằng đây là cối giã gạo của Sơn Ông. Hoặc cho rằng: "Ông chứa nước nơi này để đổ vào nghiên khi mài mực". Thiên nhiên sắp đặt, nghiễm nhiên thành một ngôi nhà nhỏ. Lúc rảnh rỗi ông thường đến chơi trong nhà đá, một mình ngồi niệm kinh, nay do chỗ này mà tưởng tượng được cách sinh hoạt của ông. Tương truyền ban ngày ông ở trong núi đốn củi, bó thành bó lớn, phải sức của hai người khiên nổi, vậy mà chỉ một mình ông vác xuống chân núi, đặt bên đường. Người qua lại đều biết là chỉ của Sơn Ông, bèn đem rau gạo mà đổi. Ông hoặc đồng tử xuống núi lấy gạo rau rồi đi, chưa từng đối đáp một ai về việc đổi chác nhiều ít thế nào. Ngày khác cũng vậy như thế được mười mấy năm không thể biết được tung tích. Núi nhiều cọp chỉ một mình ông ở với một đồng tử, người với cọp beo như quen biết nhau, quên vật quên mình. Xưa có ông Đồng Cảnh Đạo ẩn trong núi Thương Lạc, mặc áo lá cây, gảy đàn ca hát, tự lấy thế làm vui, trùng độc và thú dữ qua lại bên cạnh. Như Sơn Ông đây là nhà sư (mà hành tung có khác gì bậc ẩn giả kia. Ôi (nếu không phải thế thì) sao dạo biển chơi mây rồi cuối cùng thì gửi dấu nơi núi này?

Kịp đến năm thứ 8 đời vua Hiến Ninh (Ninh Vương, Nguyễn Phúc Chú) nước ta, nhằm cuối năm Vĩnh Khánh thứ 4, đầu năm Long Đức nguyên niên nhà Lê, tức cuối năm Nhâm Tý đầu năm Quí Sửu (1732) vua khen ông là bậc chân tu, sai trùng tu chùa. Chùa tranh thành chùa ngói bắt đầu từ đây. Vua ban tên chùa là: "Linh Phong Thiền Tự" bên tả khắc "Vĩnh Khánh Quí Sửu xuân vương chính nguyệt = tháng giêng năm Quí Sửu Vĩnh Khánh nhà Lê", bên hữu khắc: "Quốc chúa ngự đề = chính tay Quốc chúa" và ban ngự liễn: 
"Hải ngạn khởi lương nhân, pháp vũ phổ thiên tư Phật thổ.
Linh Phong ngưng thụy khí, tường vân biến địa ấm nhân gian!"

(Bờ biển dấy nhân hay, mưa khắp trời nhuần Phật thổ;

Núi Linh ngưng khí tốt, mây lành rợp đất hộ nhân gian!)

Bên tả khắc "Quí Sửu cốc đán = Buổi sáng tốt năm Quí Sửu". Bên hữu khắc "Quốc chúa ngự đề". Dưới bốn chữ "Quốc chúa ngự đề" ở tấm biển và ở câu liễn này đều có khắc "Thần ngự bửu tỉ = ấn báu" "Thần ngự" của nhà vua. Vua còn ban cho Sơn Ông hiệu Tịnh Giác Thiện Trì Đại Lão Thiền Sư.

Vào năm thứ 3 đời vua Hiếu Võ (Võ Vương Khúc Khoát) nước ta, nhằm năm thứ nhì niên hiệu Cảnh Hưng nhà Lê, tức năm Tân Dậu (1741), vua sắc triệu Sơn Ông về kinh để hỏi về giáo lý đạo Phật. Ông chống gậy tầm xích đến chơi nơi vua đóng đô, chưa đầy tháng thì đã từ tạ xin về. Vua ban một bộ áo cà sa có vòng ngọc móc vàng làm pháp phục, ân sủng thật hiếm có. Trong loạn lạc thời Tây Sơn chùa bị đổ nát, chính là lúc ông qua đời, tăng chúng các chùa họp lại lo việc mai táng cho ông, tháp xây bên hữu chùa. Tại tháp có câu liễn:

"Quyển Thạch tiệm thành sơn, thản thản u trinh Thường Lạc thổ.
Chúng lưu nan vi thuỷ, mang mang không tế Động Đình Thiên!"


(Góp đá dần thành non, u nhã phẳng phiu đất Thường Lạc;
Họp dòng khó nên nước, hư vô man mác trời Động Đình!)


Bên hữu viết: "Ngụy Thái Đức bát niên = Năm thứ 8 hiệu Thái Đức (1785) nhà Tây Sơn", nay vẫn còn. Do đó biết ông viên tịch thời Tây Sơn.

Sau khi Thế tổ Cao Hoàng Đế nhà Nguyễn ta định rồi. Triều đình vâng mệnh hỏi han đến tình trạng chùa Linh Phong. Năm Gia Long thứ 7 Mậu Thìn (1808), triều đình phụng mệnh truyền ý chỉ của Thánh Mẫu Hiếu Khương Hoàng Hậu rằng: "Vật thường trụ của Chùa Linh Phong (đã đổ nát) không ai được lấy càn, để đợi trùng tu". Năm Minh Mệnh thứ 7, Bính Tuất (1826) vua sắc trấn thần đệ tương pháp phục triều trước đã ban cho Sơn Ông để vua xem, rồi ra lệnh theo cách thức cũ chế một bộ cà sa mới có móc vàng và vòng (kim loại) tạc hình voi, ban cho Chùa Linh Phong làm vật để thờ ông. Vua còn lệnh xuất kho trong cung một trăm hai mươi lạng bạc, sai Trấn thần trùng tu chùa, nên đài giảng kinh ấy, ghế ngồi nói Pháp ấy trang nghiêm không đâu bằng, cỏ non thông lớn đều thấm nhuần ơn mưa móc mà Sơn Ông chưa kịp thấy. Có thuyết nói rằng: "Khoảng niên hiệu Minh Mệnh (một đêm) vua không được khoẻ, vừa chợp mắt thì mộng thấy được một nhà sư già mặc áo vỏ cây, đứng bên giường ngọc mà quạt hầu. Rạng sáng hôm sau mình rồng khoẻ khoắn, vua đem điều chiêm bao nói cho quan chấp chánh biết, nhân đó nhớ chuyện Mộc y Ông ở Chùa Linh Phong về triều trước, vua làm lấy lạ (cho sự linh dị của Sơn Ông) bèn ra lệnh trùng tu chùa. Ôi! Ông cũng lạ lùng thay! Mặc áo vỏ cây làm sư, cửa vàng yết chúa, nhà đá niệm kinh, giường ngọc hiển mộng, qua lại cõi trần sắc tướng không không, nay tên ông cùng tên núi đều truyền, đáng làm thắng tích ở tỉnh ta.

Giữa niên hiệu Kiến Phúc, Hàm Nghi, Tấn tôi bỏ quan về nhà ở phía nam kinh đô, gửi thân nơi cửa thiền để tránh loạn, kiệu chàm gặp trúc thường qua lại núi này chùa này. Người xưa một năm ở núi quá nửa. Tấn tôi lúc bấy giờ cũng tương tự như thế. Lúc ở núi, nhân hứng có đề mấy câu vụng về, nay ghi lại đây vài câu liễn:
"Thập niên hồ hải qui lai mộng 
Nhất kỉnh yên hoa tự tại thiên!" 

(Một cảnh khói hoa trời tự tại,

Mười năm hồ hải giấc qui lai!) 


"Giai sĩ từ bi ninh thị Phật,

Sơn Ông danh tự bán nghi tiên !"
(Đây học trò lành âu cũng Phật,
Đó Ông Núi gọi nửa ngờ tiên!)


Lại đề một câu liễn nhỏ tại nơi ở là ngôi nhà nhỏ cạnh ngôi chùa:
"Thạch thất niên thiên huỳnh hổ ngoạ,
Hoạ trì thập nguyệt bạch liên khai"


(Nhà đá cọp vàng nằm ngàn thuở
Ao hoa sen trắng nở đầu đông)


Đó là tả cảnh thật. Ở núi rỗi việc, bèn sưu cầu di tích của Sơn ông, chẳng có văn bia làm chứng, chỉ tìm được giấy rách sách nát có đề năm ghi tháng, tham khảo sách Đại Việt Sử Ký cùng thực lục tiền biên của bản triều (đối chiếu với tàng chỉ tệ biên) để tìm chứng cứ đích xác, được điều nào ghi điều nấy. Lại được hơn 200 tấm ván khắc trọn một bộ "Pháp hoa kinh giải" cùng con dấu riêng bằng đá quí, khắc: "Bán sơn trung tự = chùa ở lưng chừng núi" khắc "Khai sơn Dũng Tuyển tự = lập nên chùa Dũng Tuyển". Khắc: "Nhân hiệu sơn Ông = người có tên hiệu là Sơn Ông", khắc: "Thạch trung kiến ngã = tìm ra trong đá", khắc: "Tĩnh phương = nơi yên tĩnh", khắc: "Tịnh tính = tính vắng lặng", khắc: "Thạch thất = nhà đá". 

Tất cả được 7 cái, lối chữ triện rất xưa. Tấn tôi lau sạch bụi, đặt vào tráp nhỏ cùng một bản hộ "Pháp hoa kinh giải" giao cho tự tăng cất giữ cẩn thận. Cũng có đôi ba tờ giấy có dấu chữ Sơn Ông để vịnh như tự tăng chẳng biết đã lấy bồi bức mà vẽ tượng! Tấn tôi lật bề lưng bức tượng mà xem, phần lớn chữ hiện rõ nhưng không hiểu, thật đáng tiếc! Năm Ất vị niên hiệu Thành Thái (1895) Tấn tôi thư Thượng thư bộ công, đem chuyện chùa Linh phong tâu lên Tây Cung để cầu xin ấn chỉ Tây Cung lệnh xuất kho trong cung 70 lạng bạc, sai tỉnh thành quyên thêm người trong tỉnh được bao nhiêu thì gộp chung với số bạc đã ban mà đốc thúc việc trùng tu chùa. 

Tháng tám năm Đinh Dậu, nhằm năm thứ 9 niên hiệu Thành Thái thì lạc thành. Tấn tôi chưa thể về thăm nhưng theo lời người làng ra, ai cũng nói: "Quang cảnh chùa Linh Phong nay trở nên sáng sủa và mới mẻ!" Đáng mừng! Đáng yên tâm! Nhân rỗi việc sổ sách tại bộ lược thuật những nét chính, sai các con là Thoại Thạch Nhữ Tuyên ghi lấy, vì chùa Linh Phong là phương tiện nhỏ đưa người đến giác ngộ (nên phải viết) để sự tích chùa khỏi bị vùi lấp chứ chẳng phải làm văn vậy.

Monday, March 12, 2018

Giáo sư Trịnh Xuân Thuận và Lạt Ma Matthieu Ricard/Bản dịch của Hoàng Dung: CÓ VÀ KHÔNG CỦA THẾ GIAN THEO QUAN NIỆM CỦA KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO

Giáo sư Trịnh Xuân Thuận và Lạt Ma Matthieu Ricard/Bản dịch của Hoàng Dung: CÓ VÀ KHÔNG CỦA THẾ GIAN THEO QUAN NIỆM CỦA KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO




Dịch chương sách To Be and Not To Be trong cuốn The Quantum And The Lotus của Giáo sư Trịnh Xuân Thuận và Lạt Ma Matthieu Ricard. Giáo sư Thuận là Trưởng Khoa Vật Lý Thiên Thể trường Đại Học Virginia. Ông là tác giả nhiều cuốn sách khoa học tiếng Pháp và tiếng Anh. Lạt Ma Matthieu cũng là một khoa học gia người Pháp bỏ đi tu, hiện trụ trì tại một tu viện xứ Nepal. Ông là một trong những phụ tá của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Bản dịch này được thiền giả Nguyên Vô sửa chữa và hiệu đính những danh từ Phật Giáo.  

Nội dung cuốn The Quantum and The Lotus là những đối thoại giữa hai người. 
 
Vũ Trụ có một khởi đầu hay không?

Ý niệm về sự khởi đầu của thế gian là căn bản cho tất cả các tôn giáo và cũng cho cả khoa học.  Lý thuyết Big Bang, cho rằng vũ trụ khởi nguồn từ khoảng 15 tỷ năm trước, cùng với thời gian và không gian, là một giải thích khoa học nhất về sự khởi đầu đó.  Phương cách  đề cập đến vấn đề này  của Phật giáo khác hơn.  Phật Giáo cho rằng ý niệm về một sự bắt đầu uyên nguyên là sai lầm, và thế gian chúng ta chỉ là một trong những chuỗi dài bất tận vô vàn những thế gian.  Vậy Big Bang có thật là một bùng nổ nguyên sơ, hay chỉ là bắt đầu của một vũ trụ đặc biệt nào đó của những chuỗi dài vũ trụ bất tận vô thuỷ vô chung?  Có phải ý niệm về bắt đầu của thời gian và vũ trụ có lẽ đã sai từ căn bản ?

THUẬN:  Với kiến thức hiện tại, Big Bang đang là lý thuyết hợp lý nhất để giải thích nguồn gốc của vũ trụ.  Chúng tôi cho là vũ trụ được sáng tạo khoảng 15 tỷ năm trước,  khi một năng lượng thật nóng, thật dầy đặc và thật nhỏ ngoài sức tưởng tượng phát nổ.  Trong tiến trình này, thời gian và không gian cũng được sáng tạo ra.


Từ lúc đó, vũ trụ đã không ngừng nở lớn.  Lý thuyết về nở lớn được hình thành sau khi nhà thiên văn học Edwin Hubble, năm 1929, quan sát thấy phần lớn những thiên hà khác đang di chuyển xa ra khỏi thiên hà chúng ta (Ngân Hà) với vận tốc rất nhanh.  Lạ lùng hơn nữa, những thiên hà càng ở xa, chúng di chuyển càng nhanh hơn.  Thiên hà nào ở xa gấp mười lần sẽ di chuyển ra xa nhanh hơn 10 lần.  Từ sự quan sát này, những nhà khoa học suy ra là những thiên hà đã di chuyển từ vị trí bắt đầu đến vị trí hiện tại của chúng trong cùng một khoảng thời gian.  Nếu chúng ta tưởng tượng trong đầu óc chúng ta đang chiếu một cuốn phim về những thiên hà đang rời xa nhau, và rồi chúng ta cho quay ngược lại cuốn phim, những thiên hà sẽ đi ngược lại con đường cũ và rồi chúng sẽ tập trung ở cùng một điểm trong không gian, vào cùng một lúc trong thời gian.  Ðiều này dẫn tới suy luận rằng đã có một sự phát nổ, hay Big Bang, đưa đến sự dãn nở của vũ trụ.  Ðối với nhiều người, Big Bang đã thay thế ý niệm về sáng tạo thế giới của tôn giáo.

Từ khi còn trong vòng giả định, ý niệm về Big Bang đã gặp phải nhiều chống đối.  Tuy nhiên, có một số khoa học gia đã nghiên cứu lý thuyết đó một cách nghiêm chỉnh.  Năm 1922, nhà toán học kiêm thiên thể học người Nga Alexander Friedmann dùng Thuyết Tương Ðối Tổng Quát của Einstein để xây dựng nên một mô hình vũ trụ đang nở lớn.  Tu sĩ kiêm vũ trụ học George Lemaitre cũng nghĩ ra những điều tương tự năm 1927 và ông đã gọi tình trạng nhỏ li ti khởi đầu của vũ trụ là nguyên tử nguyên thuỷ. Nhà vật lý học Mỹ gốc Nga George Gamov năm 1946 tìm thấy là trong 300.000 năm đầu tiên của vũ trụ, nhiệt độ và tỷ trọng của nó cao đến nỗi không một cấu tạo hiện tại nào của vũ trụ (như thiên hà, sao, đời sống) có thể hiện hữu, và vũ trụ lúc đó chỉ chứa những hạt điện tử sơ nguyên cùng phóng xạ mà thôi.  Theo Gamov, phóng xạ nguyên thuỷ thật nóng đó mặc dù đã nguội đi vì mất dần năng lượng trong suốt 15 tỷ năm nở lớn của vũ trụ vẫn phải còn tồn tại đến thời gian hiện tại của chúng ta.

MATTHIEU: Người ta gọi đó là phóng xạ nguyên sơ của vũ trụ, có phải không ?

THUẬN: Phải, đó là di tích của cái nóng của lửa sáng thế, và sự phát hiện ra nó năm 1965 đã cống hiến một chứng cớ hùng hồn nhất cho lý thuyết Big Bang.  Nhưng trong nhiều năm, đã không ai thèm để ý đến việc đi tìm phóng xạ nguyên sơ, và nó chỉ được phát hiện năm 1965 một cách tình cờ.  Có hai lý do cho sự phát hiện chậm trễ này.  Thứ nhất, ý niệm Big Bang đã được nhiều nhà thần học ưa thích, điều này khiến cho những nhà khoa học chùn bước.  Năm 1951, Giáo Hoàng Pius XII đã liên kết lời Chúa dạy trong sách Sáng Thế Ký  "Hãy có Ánh sáng" với sự nổ bùng của Big Bang.

   Lý do thứ hai khiến các nhà khoa học trì trệ trong việc tìm kiếm phóng xạ nguyên sơ là vì có một lý thuyết khác ganh đua với Big Bang được đưa ra khiến câu hỏi về sự sáng tạo vũ trụ bị gạt đi.  Ðó là lý thuyết  Nguyên Trạng Bền Vững, được xây dựng  bởi ba nhà thiên văn học Anh quốc, Hermann Bondi, Thomas Gold và Fred Hoyle.  Lý thuyết này cho là vũ trụ luôn ở trong một tình trạng bền vững, có nghiã  nó đã luôn luôn và sẽ luôn luôn giống như hiện tại.  Nói cách khác, vũ trụ  không có khởi đầu và không có chung cuộc.  Nhưng những quan sát thiên văn sau đó đã phá vỡ lý thuyết nàỵ. 

Vào những năm đầu của thập niên 1960, quasars được phát hiện.  Ðó là những khối thiên thể nằm sát bên mép rià vũ trụ có năng lượng khủng khiếp phát ra từ một thể khối vật chất thật dày đặc.  Ngoài ra, những thiên hà vô tuyến, mà phần lớn năng lượng phát ra là những sóng vô tuyến, cũng được tìm thấy.  Những quan sát thiên văn cho thấy số những quasars và thiên hà vô tuyến đã thay đổi, chúng ngày càng ít dần đi.  Ðiều này trái hẳn với ý niệm không thay đổi của  tình trạng bền vững.

 Rồi sau đó năm 1965, với sự phát hiện tình cờ ra phóng xạ nguyên sơ, lý thuyết Nguyên Trạng Bền Vững đã bị một miếng đòn chí tử.  Lý thuyết này đã từng chống lại ý niệm về sự khởi nguyên, chống lại sự phát nổ thật nóng, thật dày đặc, nên đã không thể giải thích đựợc sự hiện hữu của tàn dư  sức nóng của  thời nguyên thuỷ đang chan hoà khắp vũ trụ.  Từ đó, lý thuyết Big Bang trở nên một sự giải thích được nhiều người công nhận nhất về nguồn gốc vũ trụ. Big Bang đã là giải thích duy nhất cho những hiện tượng biệt lập, như sự di chuyển rời xa nhau của những thiên hà, phóng xạ nguyên sơ của vũ trụ, hay những đặc tính quan trọng khác của vũ trụ như cấu tạo  hoá học của những vì  sao.

MATTHIEU: Nhưng một sự phát nổ khổng lồ như thế đưa đến sự tiến hoá của vũ trụ như thế nào ? Những gì xảy đến ngay sau Big Bang, và, theo lý thuyết này, vũ trụ hình thành ra sao ?

THUẬN: Những vật lý gia nói rằng vũ trụ nảy sinh từ chân không - họ gọi là chân không lượng tử - nhưng chân không này không êm ả và hiền hoà như Lạt Ma tưởng tượng.  Chân không lượng tử sôi sục năng lượng, cho dù trong đó không có vật chất.  Cái không gian tưởng như trống không đó chứa đầy những trường năng lượng (energy fields) được mô tả như những sóng.  Trên thực tế, không gian bao quanh ta cũng đang chứa đầy những tập hợp sóng đủ loại. 

Trong tất cả những sóng, sóng vô tuyến chứa ít năng lượng nhất. Chỉ cần vặn một cái nút, những dụng cụ điện tử hiện đại đã cống hiến chúng ta một khúc nhạc Beethoven hay một chương trình truyền hình.  Những sóng ánh sáng mà con người thấy được, như ánh sáng từ mặt trời chiếu vào bề mặt vật chất quanh ta, bị dội lại, liên tục hắt tới mắt ta, khiến chúng ta nhìn thấy vật chất.  Những tia tử ngoại của mặt trời cũng thế.  Cũng như không gian quanh ta chằng chịt những sóng, khoảng không lượng tử hiện hữu vào lúc khai sinh vũ trụ cũng dày đặc những sóng năng lượng.

Trong một tiến trình ghê gớm ngoài sức tưởng tượng, khối năng lượng khổng lồ này đã khiến vũ trụ dãn nở cực kỳ nhanh chóng.  Những nhà vật lý thiên thể gọi giai đoạn tiến hoá này của vũ trụ là giai đoạn " phình trướng".  Sự phình trướng đó đã làm tăng thể tích vũ trụ hầu như trong khoảnh khắc.  Từ lúc một phần trăm triệu tỷ tỷ tỷ (10 -35) giây đồng hồ đến lúc một phần trăm ngàn tỷ tỷ tỷ  (10-32) giây đồng hồ sau Big Bang, vũ trụ bành trướng theo cấp số nhân từ kích thước nhỏ hơn một nguyên tử khinh khí tới bằng một trái cam.

Vũ trụ càng nở lớn, nó càng nguội đi.  Ngay sau Big Bang, vũ trụ còn nóng hơn tất cả lửa địa ngục của Dante gom lại, và sức nóng khủng khiếp đó đã ngăn chận sự thành lập vật chất.   Khi vũ trụ đã nguội bớt đi, năng lượng bắt đầu biến đổi thành vật chất theo công thức nổi tiếng của Einstein: E = mc 2. Như Einstein đã khám phá, một số lượng năng lượng có thể biến thành một hạt vật chất ( khối lượng m của hạt vật chất sẽ bằng số năng lượng chia cho bình phương vận tốc ánh sáng ).  Từ thời điểm này, lịch sử vũ trụ càng ngày càng phức tạp hơn.

Những hạt nguyên sơ (như quarks hay âm điện tử) phát sinh từ khoảng không nguyên thuỷ kết hợp nhau lại thành nguyên tử, phân tử và cuối cùng thành sao.  Những vì sao tụ họp lại thành thiên hà, mỗi thiên hà có khoảng vài trăm tỷ ngôi sao, và hàng trăm tỷ thiên hà thấy được trong vũ trụ tạo nên một tấm thảm bao la trải khắp hoàn vũ.  Cái vô cùng nhỏ đã tạo ra cái vô cùng lớn.  Ít ra là ở một trong những thiên hà, Ngân Hà, sát bên một vì  sao tên gọi mặt trời, trên hành tinh Trái Ðất, những phân tử vật chất đã kết hợp lại với nhau thành những chuỗi dài phân tử DNA để tạo ra sự sống, sau đó  tạo ra ý thức, và cuối cùng con người đã có thể đặt ra những nghi vấn về thế giới xung quanh và về cái vũ trụ đã làm cho họ hiện hữu. 

MATTHIEU:  Cho dù lý thuyết này giải thích về sự tiến hoá của vũ trụ nghe thuận tai đến mức nào, nó đã không giải thích nguyên nhân của Big Bang.  Khi tôi đề cập đến Big Bang với một người bạn người Tây Tạng có học thức, ông ta đã kêu lên "Như thế thì vũ trụ, thời gian và không gian tất cả đã bắt đầu với một tiếng nổ Bùng từ hư không mà ra, ex niholo, không vì một nguyên cớ nào sao ?  Ðiều đó không hợp lý, cũng giống như khi chúng ta đặt  giả thuyết là có một đấng sáng tạo đã sáng tạo ra thế gian, nhưng đấng sáng tạo này cũng chính là nguyên nhân về sự khai sinh và hiện hữu của chính mình!" 

Theo Phật giáo, thời gian và không gian chỉ là những ý niệm phát sinh từ cảm nhận của chúng ta với thế giới, và sẽ không còn tồn tại khi tách rời khỏi cảm nhận của chúng ta.  Nói cách khác, chúng không "có thật".  Do đó, theo suy nghĩ Phật giáo, ý niệm về sự khởi đầu tuyệt đối của thời gian và không gian là sai.  Chúng tôi tin rằng, dù ngay cả với sự khởi đầu hiển nhiên của không gian và thời gian, không gì có thể xảy ra mà không có những Nhân (nguyên nhân) hay Duyên (điều kiện).  Nói cách khác, không một điều gì hay vật thể gì có thể tự  bắt đầu hiện hữu hay tự chấm dứt hiện hữu.  Chỉ có thể có những chuyển đổi mà thôi.  Big Bang như thế chỉ giản dị là một giai đoạn nào đó trong một chuỗi dài chuyển đổi liên tục vô thuỷ vô chung

THUẬN: Lạt Ma đã nêu lên một vấn đề khó giải quyết cho lý thuyết Big Bang.  Sự thật là chúng tôi  không thể biết những gì xảy ra "trước" Big Bang.  Tôi phải đóng ngoặc chữ "trước", vì nếu thời gian bắt đầu với Big Bang, ý niệm "trước" trở nên vô nghiã.

 Khoa học có cho phép chúng ta biết những gì trước lúc sáng thế không ? Câu trả lời là không.  Hiện nay, có một " bức tường" ngăn cản, được gọi là bức tường Planck, cái tên dùng tưởng niệm nhà vật lý học Ðức Max Planck, người đầu tiên nghiên cứu vấn đề này. Bức tường đứng chắn ở một khoảng thời gian nhỏ li ti một phần mười triệu tỷ tỷ tỷ tỷ(10-43) giây đồng hồ sau Big Bang.  Thời gian đó được gọi là thời điểm Planck.  Lúc đó vũ trụ còn  mười triệu tỷ tỷ lần nhỏ hơn một nguyên tử khinh khí.  Ðường kính vũ trụ lúc đó bằng khoảng cách Planck, hay một phần triệu tỷ tỷ tỷ  ( 10-33 ) cm.  

MATTHIEU: Có phải giáo sư đang nói có một giới hạn thiên nhiên nào đó ? Và nói chúng ta không bao giờ biết được những gì xảy ra trước giới hạn đó ? Hay có phải rào cản này là do kiến thức thiếu sót của chúng ta ?

THUẬN: Thời điểm Planck không phải là một giới hạn tuyệt đối.  Nguyên nhân sự bất lực của con người khi muốn tìm biết những gì xảy ra trước thời điểm này chỉ giản dị là do trí thông minh kém cỏi của chúng ta. Hiện tại, chúng ta không biết làm sao để kết hợp được hai lý thuyết vật lý vĩ đại nhất của thế kỷ hai mươi là cơ học lượng tử và thuyết tương đối.  Lý thuyết trước mô tả những gì cực kỳ nhỏ và đề cập đến sự vận hành của những nguyên tử cùng ánh sáng khi mà trọng lực không đáng kể.  Lý thuyết sau mô tả những gì cực kỳ lớn, cho phép chúng ta hiểu về vũ trụ cùng những cơ cấu của nó trong một qui mô rộng lớn, khi mà hai lực nguyên tử cùng lực điện từ đều không quan trọng.  Ðó mới là điều rắc rối.   Chúng ta không biết được hành vi của vật chất và ánh sáng vào thời điểm Planck, khi mà bốn lực căn bản nêu trên đều quan trọng như nhau.

Ðằng sau bức tường nhân tạo kể trên là một thực tại mà những nhà vật lý học còn chưa biết. Một số người cho rằng không gian và thời gian trong vũ trụ hiện tại đang liên kết chặt chẽ với nhau,  thì trong buổi bình minh của vũ trụ, chúng vẫn còn riêng rẽ, biệt lập với nhau.  Trước thời điểm Planck, thời gian không hiện hữu.  Những ý niệm như "dĩ vãng", "hiện tại", "tương lai", mất hẳn ý nghiã.  Bị tách khỏi bạn đồng hành thời gian, không gian trở nên một thứ bọt lượng tử liên tục biến hoá và thay đổi  hình dạng.

 Một số vật lý gia khác, đang xây dựng lý thuyết siêu thằng (superstrings), lại nói rằng không hề có bọt lượng tử.  Theo lý thuyết của họ, những hạt điện tử sơ nguyên được thành lập do sự rung động của những "sợi dây" năng lượng thật nhỏ chỉ ngắn bằng khoảng cách Planck.  Vì không gì có thể ngắn hơn khoảng cách Planck, vấn đề những gì xảy ra trong khoảng không nhỏ hơn khoảng cách đó không còn nữa.  Không gian không thể nào có kích thước nhỏ hơn.  Lý thuyết này có vẻ đã có thể kết hợp được vật lý lượng tử với thuyết tương đối.  Nhưng hiện nay nó còn đang bị che phủ trong bức màn toán học dày đặc và chưa được chứng minh trong thực nghiệm.  Nếu chúng ta công nhận là có bọt lượng tử, thì có thể là trong hằng hà sa số những chuyển đổi của bọt lượng tử, một chuyển đổi đã sáng tạo ra vũ trụ cùng không-thời gian vào mười lăm tỷ năm trước.  Trước đó, khó mà có thể nói không gian ở dạng này hay dạng nọ, vì lúc đó không có thời gian.  Nhưng cũng có thể có một giai đoạn thời gian bất tận nằm sau bức tường Planck.

MATTHIEU: Khi giáo sư nói "giai đoạn bất tận", phải chăng giáo sư muốn nói là không có khởi đầu?

THUẬN: Ðiều gì cũng có thể xảy ra.  Chúng tôi chỉ giản dị đạt tới trị số 10-43 bằng cách triển khai những định luật vật lý hiện tại trở ngược về thời điểm 0. Nhưng khi tới bức tường Planck, những định luật này không còn có thể áp dụng được nữa.  Như vậy, vật lý học của chúng ta chỉ bắt đầu lúc 10-43 giây đồng hồ sau Big Bang.

MATTHIEU: Ðối với Phật giáo, thực tại của vũ trụ chúng ta được nhìn từ một hướng nhìn khác.  Phật giáo cho rằng những hiện tượng thật sự không phải là đã được " sinh ra", trong ý nghiã là chúng chuyển từ trạng thái không (hiện hữu) thành có (hiện hữu).  Chúng chỉ hiện hữu trong cái ý nghiã mà chúng tôi gọi là " chân lý tương đối" (tiếng nhà Phật là Tục Ðế) và không có một thực tại tối hậu.  Chân lý tương đối, hay qui ước, đến từ kinh nghiệm của chúng ta với thế giới, từ cái cách mà chúng ta vẫn thường dùng để cảm nhận sự vật, cái cách mà chúng ta giả dụ rằng những sự vật đang hiện hữu một cách khách quan.  Phật giáo thấy là những cảm nhận như thế là giả (deceptive).  Vì xét cho cùng thì những hiện tượng không có một sự hiện hữu tự thân.  Ðiều này là "chân lý tuyệt đối", hay Chân Ðế theo tiếng nhà Phật.  Trong ý nghiã của chân lý tuyệt đối, đặt câu hỏi về sáng thế là đặt sai vấn đề.  Ý niệm về sáng thế chỉ trở nên cần thiết nếu chúng ta tin vào một thế gian khách quan  

Tuy nhiên, Phật giáo không loại bỏ cái khả năng khai mở ra của thế giới.  Hiển nhiên là những hiện tượng chúng ta thấy ở quanh ta không phải là không hiện hữu, nhưng nếu chúng ta xét đến cái cách mà chúng hiện hữu, chúng ta sẽ thấy chúng không thể được nhìn như những thực thể độc lập, để mỗi hiện tượng có riêng một sự hiện hữu riêng biệt. Thật thế, hiện tượng chỉ hiện hữu như một giấc mơ, một ảo ảnh.  Cũng như hình ảnh trong gương, chúng được nhìn thấy thật rõ ràng, nhưng những hình ảnh đó không có sự hiện hữu riêng biệt.  Nhà triết học lớn của Ấn Ðộ Nagarjuna (Long Thụ), vào thế kỷ thứ hai đã nói: "Bản chất của những hiện tượng là tương duyên tương sinh, là liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau, tự chúng, hiện tượng không là gì cả".  Sự tiến hoá của hiện tượng không phải do tình cờ mà cũng không do thần linh định đoạt. Thay vào đó, chúng tuân theo những luật nhân quả, phụ thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau.  Vấn đề "nguồn gốc" chỉ đến từ niềm tin vào cái thực tại tuyệt đối của hiện tượng cùng niềm tin vào  sự hiện hữu của không gian và thời gian.

Nghĩ theo chân lý tuyệt đối, không có sự sáng tạo vũ trụ, không có giai đoạn thời gian và không có chung cuộc.  Nghịch lý này là một minh chứng mạnh mẽ cho cái tính cách ảo của thế giới hiện tượng.  Thế giới này có thể hiển lộ theo vô vàn dạng thức vì thực tại tối hậu của thế giới vẫn là không.  Theo chân lý tương đối của những hiện tượng bên ngoài, chúng ta nói rằng vũ trụ đã bị điều kiện hoá, hay đã sa vào sáu nẻo luân hồi (samsara),  không có khởi đầu, bởi vì mỗi trạng thái nào cũng phải có nguyên nhân từ một trạng thái trước đó.  Vì thế, với lý thuyết Big Bang, có phải vũ trụ chúng ta được khai sinh ex nihilo, được sáng thế từ hư không, hay sự khai sinh này chỉ là sự thể hiện của một tiềm lực trước đó đã có mà chưa hiển lộ ra trong vũ trụ ? Sự sáng thế đó thực sự là một khởi thuỷ, hay chỉ là một giai đoạn tiến hoá của vũ trụ ?   

THUẬN: Như chúng ta đã bàn cãi, khoa học hiện đại không thể biết về thời gian lúc trước bức tường Planck.  Vì thế trước Big Bang, có thể có thời gian dài vô tận hay hoàn toàn không có thời gian.  Một điều có thể có khác là cũng có thể vũ trụ luân hồi, và Big Bang chỉ là khởi đầu một chu kỳ trong liên miên bất tuyệt những chu kỳ khác.  Nhưng dù bất kỳ trong trường hợp nào thì câu hỏi là vũ trụ có thể được khai sinh ex nihilo, vào lúc khởi đầu của thời gian hay không cũng được khoa học né tránh.  Những điều có thể xảy ra nêu trên chỉ là những cách né tránh vấn đề sáng thế.  Nhưng những điều này  vẫn thuần tuý còn nằm trong giả thuyết, chưa được hỗ trợ bằng quan sát hay thực nghiệm. 

MATTHIEU: Có lẽ Big Bang có thể được diễn giải như tiến trình của thế giới hiện tượng bung ra từ một tiềm năng vô tận không hiển lộ. Phật giáo dùng ẩn dụ mà gọi những tiềm năng đó là "những hạt không gian".  Chữ hạt ở đây không phải dùng để chỉ những hạt nhỏ vật chất, mà đúng hơn là dùng chỉ tiềm năng của không gian.  Tiềm năng này có lẽ so sánh được với chân không trong vật lý, miễn là chúng ta không được hiện thực hoá chân không này với bất cứ một  "thực tại" cụ thể hay độc lập nào.

Trong Phật giáo, chúng tôi tin là không thể có sáng tạo vũ trụ từ hư không, ex niholo.  Như Shantideva (Tịch Thiên) viết vào thế kỷ thứ mười bảy:

  Lúc Vô thắng, nhưng nếu  không còn Hữu 
  Biết khi nào hiện hữu được phô ra ?   
  Nếu hữu thể chưa lần nào xảy đến 
  Chẳng khi nào vô thể sẽ rời xa  

  Khi vô  thể chưa bao giờ phân tán
  Không thể nào thực thể biểu hiện ra 
  Chân hiện hữu khó biến thành vô hữu
  Vì xảy ra, bản chất sẽ nhị trùng. 

Lý do tại sao  "vô" (nothing) không thể trở nên "hữu" (something) là vì để được như thế, "vô” cần phải bị loại bỏ.   Nhưng làm sao có thể loại bỏ một điều gì không hiện hữu ? Vô hay hư không chỉ giản dị là một từ ngữ được định nghiã theo sự tương quan với hiện hữu.  Tự nó, nó hoàn toàn không có một chút thực tại nào vì hư không không thể được thành lập khi không có sự hiện hữu.  Hư không cũng không thể biến đổi.  Nếu có một điều gì hiện ra, điều đó chỉ có nghiã là đã có sẵn tiềm năng biểu hiện trong chân không. 

THUẬN: Vật lý cho rằng tiềm năng biểu hiện nằm trong năng lượng của chân không. Nhưng chúng tôi vẫn còn có câu hỏi: Làm sao mà có được chân không ? Có phải có một đứt quãng bất chợt từ hư không, làm hiển lộ ra một chân không đầy năng lượng, cùng với thời gian và không gian ?

MATTHIEU: Một đứt quãng không nguyên nhân, làm cho vô  biến thành hữu  - thật là một cách bắt đầu lạ lùng ! Big Bang, hay bất kỳ "khởi đầu" nào của một vũ trụ nào khác, đều không thể xảy ra nếu không có Nhân và Duyên.  Thế giới của hiện tượng không thể đến từ hư không.  Một trong những ý niệm chính yếu của Phật giáo là, vì sự vật không có một thực tại độc lập, chúng không thể "khởi đầu" hay "kết thúc" như những thực thể riêng biệt.  Khi chúng ta nói "khởi đầu", đầu óc ta nghĩ ngay đến một điều hay một sự vật nào đó.  Ý niệm về khởi đầu và chung cuộc của vũ trụ thuộc về chân lý tương đối.  Ðối với chân lý tuyệt đối, điều đó vô nghiã.  Chẳng hạn khi giáo sư thấy một toà lâu đài trong giấc mộng, giáo sư  không cần phải lo về việc ai đã xây dựng ra nó.  Tất cả những tôn giáo và triết học đã không còn tha thiết với vấn đề sáng tạo vũ trụ.  Khoa học bỏ ra ngoài vấn đề đó bằng cách gạt bỏ Ðấng Sáng Tạo vì đấng này đã trở nên không cần thiết.  Phật giáo làm như thế bằng cách bỏ đi ý niệm về  sự bắt đầu.

THUẬN: Lạt Ma có nhớ câu chuyện của một toán học gia và vật lý gia lớn của Pháp vào thế kỷ thứ mười tám Pierre - Simon de Laplace ? Khi ông ta đưa cho Napoleon  cuốn sách của ông về cơ học thiên thể, vị hoàng đế trách ông là đã không nói đến nhà "Ðại Kiến Trúc" (Thượng Ðế) Laplace trả lời "Nhưng thưa Hoàng Thượng, tôi không cần đến giả thuyết đó".  Tuy nhiên vẫn còn những câu hỏi : Tại sao có vũ trụ ? Tại sao có những định luật vật lý ? Tại sao có Big Bang ? Chúng ta trở về với câu hỏi danh tiếng của Leibniz: "Tại sao có còn hơn không ? Trong khi không có hay hư không vừa giản dị vừa dễ dàng hơn là có. Hơn nữa, cho là sự vật phải hiện hữu, ắt phải có một lý do khiến chúng hiện hữu như hiện tại mà không phải hiện hữu theo cách khác."   

MATTHIEU: Một câu trả lời sẽ là câu phương châm danh tiếng của Bồ Tát Long Thụ Nagarjuna: "Vì tất cả là không, tất cả đều có thể".  Và một câu khác trong Ma ha Bát Nhã Ba la mật đa Tâm Kinh : "Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc". Trong Phật giáo, "không" không phải chỉ là tính cách thật sự của hiện tượng, nó còn là tiềm năng để sản sinh ra vô vàn hiện tượng.  Dùng một thí dụ giản dị là lục địa, cây cối, rừng rậm có thể hiện hữu vì không gian cho phép chúng hiện hữu. Nếu bầu trời chứa toàn là đá tảng, sẽ chẳng có nhiều chuyện xảy ra.  Cũng vậy, nếu thực tại và những đặc tính của nó là vĩnh viễn, sẽ chẳng có gì đổi thay và hiện tượng không thể hiện ra.  Nhưng bởi vì mọi sự vật đều không có một thực tại tự thân nên chúng đã có thể có những biểu lộ vô tận.

Khi  đã hiểu là tất cả mọi vật tự chúng là Không, giáo sư sẽ dễ dàng hiểu rõ  sự vật hoạt động ra sao trong cái chân lý tương đối hay qui ước.  Cho dù hiện tượng không có nền tảng tối hậu, chúng không xảy ra một cách tình cờ.  Ðó là cái "Không" (emptiness) của Phật giáo. Không phải là hư vô (nothingness), nhưng đúng hơn là sự thiếu vắng của bất cứ một hiện tượng hiện hữu độc lập và thường trực nào. 

THUẬN: Phải, nhưng nhiều người lại kết hợp Không với hư vô.  Trong thế kỷ thứ 19, Phật giáo bị cho là hư vô chủ nghiã.

MATTHIEU: Ðó là một lỗi lầm nghiêm trọng. Chúng ta thấy có hai quan niệm sai lầm và chống đối nhau là hư vô chủ nghiã và duy vật hiện thực chủ nghiã.  Duy vật hiện thực chủ nghiã, Phật giáo gọi là chủ nghiã trường tồn (eternalism), đã vật chất hoá (reifies) thế giới bằng cách đặt giả thiết là có sự hiện hữu của vật chất bất biến gồm toàn những chất liệu cứng rắn. Hơn nữa, khi Leibniz tự hỏi tại sao "có một cái gì còn hơn không có gì", ông ta đã giả định trước là thật sự có một cái gì .  Trong Trung Ðạo của Phật giáo, không có hư vô (không hiện hữu - như hư vô chủ nghiã), cũng không có một cái gì thực sự hiện hữu (như duy vật hay hiện thực chủ nghiã).  Như vậy, chúng ta có thể hỏi lại Leibniz: "Tại sao lại cần có hư vô, khi chúng ta đã có thể có hiện tượng ?" Bản chất tự nhiên liên đới với nhau của những hiện tượng (Vạn vật đồng nhất thể) đi ngược lại với tri thức bình thường bởi vì những hiện tượng này không thể được coi như là vừa hiện hữu lại vừa Không.  Tri thức có những giới hạn, và chúng ta không thể nào nắm được thật tính của thực tại bằng những tiến trình suy nghĩ thông thường bằng những ý niệm.  Chỉ có cái  "giác" trực tiếp siêu việt qua khỏi lối suy nghĩ qui ước bằng ý niệm mới có thể nhìn thấy thế giới hiện tượng theo cách bất nhị (nondual), trong đó chủ thể và đối tượng không còn ý nghiã.   

THUẬN: Như vậy, Phật giáo có một giải thích nào cho sự hình thành vũ trụ không ? Phật giáo có vũ trụ quan không ?

MATTHIEU: Có chứ.  Nhưng một cách không tín điều.  Trong khi một vài đoạn mô tả vũ trụ đã trở nên lỗi thời, chúng vẫn có một ý nghiã tượng trưng trong thiền quán (meditation).  Có những phần về vũ trụ học ăn khớp với những ý niệm về thời gian, dù không do chính Ðức Phật đã dậy như những chân lý tuyệt đối, đã được Phật giáo lấy để dùng.  Vũ trụ quan này chắc chắn không trái ngược với sự phân tích về thực tại của Phật giáo. Cần phải luôn nhớ rằng ý niệm về vũ trụ thuộc về chân lý tương đối và thuộc về thế giới của những dáng vẻ bề ngoài.  Như thế, nói một cách tương đối, Phật giáo nói rằng vũ trụ được thành lập từ những "hạt  không gian" nhưng những hạt này không phải là những hạt vật chất, mà đúng hơn là những tiềm năng. Từ những hạt không gian, một "khoảng trống" được thành lập chứa đầy năm "nguyên khí" hay năng lượng (tiếng Phạn là prana).  Những năng lượng này thể hiện như ánh sáng ngũ sắc và dần dần trở nên năm thành tố : không khí, nước, đất, lửa và không gian.  Chúng tập hợp lại như một đại dương lẫn lộn những thành tố kể trên, sau đó bị kích thích bởi năng lượng tiên khởi để tạo ra trăng sao, đại lục, núi non và cuối cùng là chúng sinh.  Ðó là sự thành lập của một vũ trụ trong hằng hà sa số vũ trụ.  Tuyệt không có một ý niệm nào về sự khai nguyên vũ trụ, vì Phật giáo không chấp nhận một nguyên nhân tiên khởi nào.

THUẬN: Dù được nói bằng ngôn ngữ tâm linh, sự mô tả cái khởi đầu của thế gian này nghe vang vọng tốt với những ý niệm khoa học hiện đại.  Từ cả hai hướng nhìn, chúng ta đều ngàn dặm cách xa cái quan niệm là vũ trụ phát sinh từ tình yêu hay sự tranh chấp của những vị thần hay chúa. Tôi đặc biệt thích thú cái ý niệm về "khoảng trống tràn đầy" thấy có cả ở Phật giáo và  khoa học.

MATTHIEU: Ðúng vậy, nhưng phải cẩn thận.  Có một sự khác nhau căn bản.  Khoa học nói về một vũ trụ thực sự hiện hữu, một đối tượng độc lập.  Phật giáo, như chúng ta thấy, coi vũ trụ như không thể tách rời khỏi tâm thức.  Chúng ta có thể nói chủ thể và đối tượng kết hợp với nhau: đối tượng không thể có nếu không có chủ thể, và ngược lại.

Phật giáo xét đến một vũ trụ với những chu kỳ luân hồi (nhưng luân hồi không phải theo vòng tròn hay lập lại như quan niệm của phái Khắc Kỷ).  Mỗi chu kỳ được thành lập bởi bốn giai đoạn: Sinh ( thành lập),  Trụ (tiến hoá), Hoại (hủy phá) và giai đoạn Trung Ám là giai đoạn của tình trạng " không biểu hiện", là giai đoạn trống không giữa hai vũ trụ. Những hạt không gian bảo đảm sự liên tục giữa một vũ trụ với vũ trụ kế tiếp.  Luân hồi này không có khởi đầu và cũng không chung cuộc.

THUẬN: Vũ trụ học hiện đại cũng có ý niệm về vũ trụ luân hồi.  Nếu vũ trụ chúng ta có đủ khối lượng vật chất, thì đến một lúc nào đó, trọng lực sẽ làm vũ trụ ngưng nở lớn và kéo nó nhỏ lại.  Chúng ta sẽ có Ðại Ðè Bẹp (Big Crunch), ngược lại của Ðại Nổ Bùng (Big Bang).  Những ngôi sao sẽ tiêu tan trong sức nóng khủng khiếp, vật chất  tiêu tan thành những hạt sơ nguyên. Vũ trụ sẽ chung cuộc trong một tình trạng cực nhỏ, cực nóng và cực đặc.  Thời gian và không gian lại trở thành vô nghiã.  Một vũ trụ suy sụp có thể tái sinh từ tro tàn, như phượng hoàng tái sinh, với những định luật vật lý khác không ? Không ai biết.  Vì như chúng ta vừa nói đến, vật lý hiện đại mù tịt ở thời điểm Planck, không thể biết được những gì xảy ra trong nhiệt độ và tỷ trọng cực độ.

MATTHIEU: Theo quan điểm Phật giáo, sự chấm dứt một chu kỳ được đánh dấu bởi một trận hoả thiêu chung cuộc.  Thường được nói là bảy ngọn lửa dữ dội thiêu đốt hết thế gian.  Vũ trụ từ đó một lần nữa lại bị hấp thụ vào khoảng trống không, và một chu kỳ khác có thể bắt đầu.   

THUẬN: Theo vũ trụ học hiện đại, nếu vũ trụ bắt đầu lại một chu kỳ mới, nó sẽ hoàn toàn đổi khác.  Vũ trụ sẽ tích tụ càng nhiều năng lượng hơn, và mỗi chu kỳ mới sẽ sống lâu hơn chu kỳ trước và kích thước vũ trụ cũng ngày càng lớn hơn.  Ðó cũng giống như ý niệm những chu kỳ không phải lập lại giống nhau như lạt ma vừa nói.  Nhưng nếu vũ trụ chúng ta không chứa đủ khối lượng vật chất để trọng lực làm ngưng sự dãn nở, vũ trụ sẽ tồn tại cho đến chung cuộc của thời gian và như thế sẽ không còn luân hồi nữa.  Cuối cùng thì những ngôi sao đã đốt cháy hết năng lượng nguyên tử của chúng và lịm tắt.  Chúng không còn thắp sáng bầu trời.  Thế gian bị chìm trong bóng tối.  Sức nóng bị tan loãng và nhiệt độ xuống tới gần số không tuyệt đối, nhưng không bao giờ tới số đó.  Không còn năng lượng hỗ trợ, sự sống biến mất.  Trong tương lai xa vời, vũ trụ chỉ còn là một đại dương mênh mông chứa phóng xạ và những hạt sơ nguyên.

 Theo kiến thức của chúng ta hiện tại, nếu sự dãn nở của vũ trụ có thể đảo ngược lại được, thì vũ trụ ắt phải chứa nhiều vật chất hơn khối lượng chúng ta nhìn thấỵ  Nhưng đi tìm khối lượng thực sự của vũ trụ không phải là một điều dễ dàng, vì có những "chất tối" (chiếm khoảng 90% tổng số khối lượng vũ trụ) không phát ra phóng xạ và cũng chỉ có tác dụng trọng lực ở vùng lân cận.  Không có ánh sáng, những nhà thiên văn học gần như mù tịt.

Những quan sát gần đây về hiện tượng supernova (tinh cầu phát nổ) ở những thiên hà xa xôi cho thấy hình như sự dãn nở của vũ trụ thay vì chậm lại, lại đang dãn nở nhanh hơn.  Sự dãn nở gia tốc đó có nghiã là có sự hiện diện của một năng lượng tối kỳ bí, còn được gọi năng lượng cốt tuỷ.  Nếu lập luận này đúng, thì vũ trụ sẽ muôn đời dãn nở.  Sẽ không có thể có một Big Bang mới khởi đầu cho một vũ trụ mới nếu không có Big Crunch. Big Crunch không thể xảy ra nếu đúng là vũ trụ cứ luôn dãn nở ngày càng nhanh.  Nhưng đặc tính của những trận tinh cầu phát nổ ở những thiên hà xa xôi  chưa được biết rõ hoàn toàn, kết luận kể trên vẫn cần được kiểm chứng thêm.  Tôi cũng muốn nói thêm là những quan sát gần đây về những giao động nhiệt độ của phóng xạ sơ nguyên hình như cũng hỗ trợ lập luận về  sự hiện diện của " chất tối".

MATTHIEU:  Chúng ta không phải đã chỉ nói tới vật chất khi chúng ta mô tả vũ trụ như  những chuỗi biến hoá không có khởi đầu.  Ý thức cũng không có khởi đầu.  Theo Phật giáo, nhị nguyên về vật chất/ý thức, hay vấn đề hồn/ xác, chỉ là một vấn đề giả tạo, vì không có thành tố nào trong cả hai có thể tự hiện hữu, độc lập với tất cả những cái khác.  Vấn đề không có một nguyên cớ sơ nguyên nào cho hiện tượng hay ý thức rơi vào một phạm trù mà Phật giáo gọi là "bất khả tư nghì " (hay "bất khả ý niệm ").  Nhưng chúng ta không cần phải đứng sững một cách ngu độn trước những bí ẩn không thể giải quyết được bằng tri thức. Có một số điều không thể giản dị lãnh hội được bằng những ý niệm bình thường. Ý niệm về sự khởi đầu vũ trụ không thể thiết lập được, nó " bất khả tư nghì", không phải vì nó xảy ra đã quá lâu hay ở quá xa, mà vì cái tâm đầy ý niệm và lý luận  của chúng ta đã nảy sinh từ cùng tiến trình nhân quả: điều này có nghiã là tâm ý niệm của chúng ta đã tự hàm chưa sự khởi đầu, đã tuỳ thuộc vào sự khởi đầu.  Vì đã tuỳ thuộc vào sự khởi đầu, tâm ý niệm đó không thể đứng ngoài chuỗi dài nhân quả ngõ hầu xác định về nguồn gốc khởi đầu của nó.  Muốn nắm bắt được khởi đầu, tâm thức phải dùng phương tiện siêu việt khỏi những ý niệm để thoát khỏi ảnh hưởng nhân quả.

THUẬN: Luận cứ kể trên nghe tương tự như một luận cứ khoa học về sự bất khả giải đáp trong định đề bất toàn của Godel.  Ðịnh đề đặt ra bởi toán học gia Kurt Godel cho rằng chúng ta luôn luôn bị giới hạn trong sự hiểu biết về bất cứ một hệ thống nào khi chúng ta nằm trong hệ thống đó, chẳng hạn như cái hệ thống chúng ta gọi là vũ trụ.  Trong bất cứ trường hợp nào, khoa học hiện đại không thể nói gì về khả năng có thể có sự cộng tồn của cả ý thức lẫn vật chất khi bắt đầu có thời gian.

MATTHIEU: Ý niệm "bất khả tư nghì" giúp gạt ra ngoài cái bản năng hiện thực hoá (reifying) làm chúng ta nhìn hiện tượng như những thực thể biệt lập "có thật".  Vì thể tính tối hậu của hiện tượng nằm ngoài ý niệm về " hiện hữu " và " không hiện hữu", nó có thể gọi là "bất khả tư nghì" mà không bị đồng nghiã với ngu dốt. Trái lại, cái trí tuệ bát nhã (awareness) thuần tuý, cái kiến thức bất nhị về thể tính tối hậu của tâm thức và hiện tượng, nằm ngoài mọi ý niệm, là một tính chất của đại  ngộ (enlightenment).

Theo Phật giáo Mật tông (tantras), khi phân tích những biểu hiện của hiện tượng trong thiền quán, thể tính nguyên thuỷ của hiện tượng vượt lên và nằm ngoài ý niệm nhị nguyên về chủ thể và đối tượng, vượt lên và nằm ngoài ý niệm nhị nguyên về không gian và thời gian.  Nhưng khi mà thế giới hiện tượng nảy sinh từ thể tính nguyên thuỷ, chúng ta mất đi sự thống nhất đó và khiến chúng ta trở nên sai lầm khi tách biệt tâm thức với thế giới hiện tượng.  Sự phân biệt giữa Ngã (ta ) và Pháp (những gì không phải Ta) đã trở thành cố định, từ đó thế giới vô minh (ignorance) ra đời. Sự nảy sinh của thế giới vô minh không nhất thiết xảy ra ở bất cứ một thời điểm đặc biệt nào.  Nó chỉ giản dị phản ánh một sự kiện là trong mỗi giây khắc, trong từng tư tưởng, vô minh đã khiến chúng ta hiện thực hoá  cái thế giới không tự hiện hữu này.

Nguồn: http://www.diendantheky.net/2018/03/giao-su-trinh-xuan-thuan-va-lat-ma.html

Thursday, March 8, 2018

Sau Tết

Lộc đầu năm tại Thiền Viện Diệu Nhân - Photo: BXK

Sau Tết


Sáng mồng Năm yên tĩnh
Không tiếng cười trẻ con
Xuân hương sắc mỏi mòn
Buồn vui miền lận đận!

Sunday, March 4, 2018

Kệ Tết

Kệ Tết
Lunar New Year Festival at Mira Loma High - Photo: BXK

Gần đây tôi tham gia một chương trình trên truyền hình về Tết Tây.

Tôi tự hỏi liệu ban biên tập có đọc những bài báo của tôi trong hai năm qua không mà họ dám mời tôi tham gia talk show này. Hay họ mời tôi vì tôi là một người nước ngoài biết tiếng Việt? 
Người dẫn chương trình đặt câu hỏi cho tôi: “Chào anh Jesse Peterson. Sắp tới là Tết Tây, anh Jesse có mong đợi ngày đó không?”. 

Họ cứ mong tôi sẽ trả lời “Yes! Tết Tây là một ngày rất vui”, rồi tôi tiếp tục nói, “Cảm ơn đã mời tôi tham gia chương trình ngày hôm nay! Chúc mừng năm mới các bạn Việt Nam!”.

Nhưng họ há hốc miệng khi nghe tôi nói: “Không! Năm mới - Tết Tây là một ngày giả! Nó được thiết kế cách đây 2018 năm trước. Đế chế Hy Lạp muốn xoá bỏ phong tục của các dân tộc xung quanh và tạo nên một năm mới giả, ở giữa mùa đông”.

Thật vô lý khi ngày chào mừng năm mới ở giữa mùa đông. Trong khi, 20 tháng 3 mới là ngày chính giữa của mùa xuân. “Tết Tây” đã được thiết kế bởi Hoàng đế của Rome - Julius Caesar. Ông Caesar đã xâm lược rất nhiều bộ lạc của người châu Âu. Nhằm ngăn chặn việc họ nổi dậy chống lại mình, Caesar làm một ngày lễ mới - ngày đón năm mới ở giữa mùa đông.

Tôi không mong đợi năm mới theo cách đó. Tôi sẽ thành lập năm mới cho riêng tôi, 20 tháng 3. Và mặc kệ những phong tục của người xưa cũng như mưu đồ của họ. Nhưng khi lên sóng, đài truyền hình kia đã cắt đi phần tôi nói rằng Tết Tây là một ngày giả và tôi không muốn hùa theo nó. Chắc họ cho rằng đó là chủ đề nhạy cảm.

Tết Ta sắp tới rồi. Nó gần mùa xuân hơn Tết Tây. Điều tôi thích ở Tết Ta là khi người Việt Nam trang trí ở ngoài nhà với hoa mai, hoa đào. Nó có thể là biểu tượng của sự khởi đầu mới và là đại diện của môi trường thay đổi khi xuân tới...

Nhưng tôi không có ý so sánh các ngày Tết với nhau. Rõ Tết Việt Nam hẳn “có liên quan” với người Việt hơn Tết Tây nhiều. Nhưng tôi cũng thấy Tết Việt Nam bây giờ cũng có nhiều vấn đề quá. Giờ đây nó quá “human centric”, nghĩa là nó tập trung vào sự ích kỷ của con người nhiều hơn là lúc để chúng ta quan sát, hiểu ý nghĩa của sự vận động môi trường, vạn vật. Điều này khiến ta trở nên ích kỷ và quên đi Mẹ Thiên nhiên.

Có nhiều điều tôi không thích ở cách người Việt đón Tết ngày nay. Đó là người ta quá vất vả những ngày trước Tết. Họ bị stress khi phải chuẩn bị cho Tết, có người còn cãi nhau. Rồi các quan niệm như không được mặc áo đen, người đầu tiên đến nhà bạn phải mang may mắn, ép nhau ăn uống đến mức hệ tiêu hóa không làm việc kịp, không ăn thì bị giận (có lần tôi đã lén ném thức ăn dưới gầm bàn)…

Và độc hại nhất với văn hóa truyền thống là họ dùng Tết để lấy cơ hội hối lộ, đút lót, biếu xén nhau. Trong các phần quà Tết ít khi thiếu phong bì tiền. Phong tục lì xì bị lạm dụng quá nhiều. (Trẻ con hư sớm theo người lớn vì chúng chỉ mong phong bì lì xì chứ không phải yêu thích Tết..)

Trong Tết mọi thứ đều bị đẩy giá cao hơn. Khi bị hỏi tại sao, họ chỉ nói “Tết mà”, không thèm giải thích sâu sắc hơn. Mấy năm trước, tôi đi phượt ở miền Tây. Đến khách sạn, họ bảo vì tôi là người Tây, tôi phải trả tiền thêm, và vì đây là Tết rồi.

Tết xong rồi, tôi không thấy mình vui hơn, không thấy là tôi biết nhiều điều hơn về thế giới, không thấy môi trường tốt hơn, không thấy người nghèo khá hơn và có gì tốt đẹp hơn để hy vọng cho năm mới.

Tôi thấy nó giống như nhiều phong tục của ngày xưa. Ý nghĩa của nó đang bị sự ích kỷ của loài người tiếp tục ăn hiếp hay lợi dụng. Khi có nhiều điều xấu đến thế, làm sao nó có thể đem tới văn hóa đạo đức hơn và điều tốt đẹp hơn cho Việt Nam?

Nên tôi cố tình kệ Tết. Tôi sẽ đi du lịch hay khóa cửa nhà, không bước ra ngoài trong vòng một tuần cho đến khi tôi đã đọc mười quyển sách và ăn sạch đồ ăn chứa trong cái tủ lạnh.

Còn người Việt Nam, nếu còn yêu và trân trọng ngày “Tết Ta”, tôi nghĩ nhiều người cần bày tỏ tình yêu đó theo một cách khác.

Jesse Peterson
(Nguyên bản tiếng Việt)

Tuesday, February 27, 2018

PHƯƠNG BẮC CÓ PHẢI LÀ TRUNG TÂM CỦA VŨ TRỤ KHÔNG ?

Bìa Sách - Uyên Nguyên


PHƯƠNG BẮC 
CÓ PHẢI LÀ TRUNG TÂM CỦA VŨ TRỤ KHÔNG?


Đối với lòng kiêu ngạo về dân tộc tự nhận mình là "Trung Quốc" tức nước "ở giữa" giữa ở đây không phải chỉ "ở giữa" với con người, đối với các dân tộc khác, mà cũng có nghĩa là "Trung Tâm" cả với trời đất nữa.

Để đối trị lại, Mâu Tử trích một câu trong Tả Truyện, "Sao phương bắc ở trên trời là chính giữa, ở tại người là phương Bắc (Bắc thần chi tinh, tại thiên chi trung, tại nhân Chi Bắc)

Từ lý luận đanh thép này, Mâu Tử đặt nghi vấn: "Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất" (Hán địa vị tất vi thiên trung giả).

Đây không còn là hoài nghi hay giả thiết nữa, mà khi viết như vậy Mâu Tử đã phủ nhận triệt để hay nói đúng ra là Mâu Tử đã "tóng cổ" người Hán ra khỏi cái trung tâm do chính họ là tác giả ấy rồi.
Ta có thể tạm, lý luận như thế này : khi anh đã không còn ở tại trung tâm nữa thì tất nhiên anh phải ở một phương nào đó, như phương Bắc chẳng hạn. Nếu anh đã ở phương Bắc thì tất nhiên tôi là người đang ở phương Nam. Nghĩa là tất cả chúng ta đều giống nhau, đều bình đẳng với nhau. Không có phương Tây cao hơn phương Đông và ngược lại. Khi đã ngang nhau rồi thì chẳng ai có quyền nhân danh bất cứ cái gì để đi "Khai Hóa" ai cả.

Sử xác định Nam Bắc này theo tác giả lịch sử Phật Giáo Việt Nam là rất quan trọng " vì đã trở thành Xung yếu trong lịch sử dân tộc ta, mà đỉnh cao là sự xuất hiện của đế hiệu Nam Đế của Lý Bôn (544) và sau đó là "Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư" của Lý Thường Kiệt (1076).

Theo sử gia Lê Mạnh Thát thì tác phẩm "Lý hoặc Luận" là sách gối đầu giường của Phật Giáo Viễn Đông mà cụ thể là Trung Quốc và Nhật Bản". Còn đối với lịch sử tư tưởng dân tộc Việt thì, "Nó là một tác phẩm lý luận có vị trí xung yếu".

Cũng cần lưu ý là Mâu Tử là người Trung Quốc đã đền tỵ nạn tại nước ta vào thế kỷ thứ 2 tây lịch, khi ở nước ta Mâu Tử đã bỏ Khổng để theo Phật Giáo.

Tác phẩm lừng danh Mâu Tử, Lý hoặc Luận tất nhiên là Mâu Tử đã viết tại nước ta.

THÍCH PHƯỚC AN

Saturday, February 24, 2018

THE BALD CYPRESS STILL HERE - Còn Đây

Cây Cypress - ảnh City-Data.com



THE BALD CYPRESS STILL HERE

Visiting the swamp, I remember you, my dear friend, Sơn
As in the mud, two of us, like lotuses still uncontaminating 
In life, as if hardship and obstacles are not enough
While everything is eroding or changing, we lotuses are still blooming!


Còn Đây Cây Bald Cypress*
                               Tặng bạn TQS

Thăm đầm lầy nhớ bạn xưa năm cũ
Trong bùn nhơ đôi sen nhỏ vươn lên
Kiếp phong trần đời ngã nghiêng chưa đủ
Đời xói mòn sen vẫn nở thênh thênh


*The vast coastal cypress forests are protecting the Louisiana coast from the ravages of violent storms and erosion of the coastline. Cây Bald cypress trong các khu rừng bạt ngàn ven biển đang bảo vệ bờ biển Louisiana khỏi sự tàn phá của các cơn bão dữ dội và sự xói mòn bờ biển.