Friday, March 4, 2022

Bạch Xuân Phẻ: Giới Thiệu Tuyển Tập Thơ Văn Xuân Thi

             


GIỚI THIỆU TUYỂN TẬP THƠ VĂN XUÂN THI


Xuân Thi là một nghệ sỹ đa năng, Cô viết văn, làm thơ và vẽ tranh nên viết lời giới thiệu cho tuyển tập Thơ Văn Xuân Thi không dễ. Anh chị em văn nghệ sĩ như Tuyết Đào (Hương Xưa), Ngô Tín, Nguyễn Đức Diêu, Phạm Trường Lưu, Nguyễn Hoàng Lãng-Du và cả chúng tôi đều mong muốn có một tuyển tập đầu tay của Cô.

 

Xuân Thi không chỉ là nhà thơ hoặc người viết truyện mà còn là một hoạ sỹ. Về hình thức, thơ của Cô thì đơn thuần, mộc mạc nhưng nội dung lại sâu lắng. Trên trang mạng Hương Xưa (www.huongxua.org) và Làng Huệ (www.langhue.org), các tác-phẩm của cô được nhiều người đọc và ưa thích.

 

  Đa phần thơ Xuân Thi là song ngữ Anh Việt, qua thơ Cô đã diễn tả được những kỷ niệm, hoài bảo, kinh nghiệm sống, những tư tưởng Phật giáo và nhất là tình nghĩa đậm đà của người con đến với đấng sanh thành dưỡng dục, nhất là người Mẹ của mình.

 

Xuân Thi là cựu học sinh trường Trưng Vương và trường Sư Phạm Quy Nhơn, khóa 13. Theo nhạc sỹ Ngô Tín, cũng là người Quy Nhơn và người phổ nhạc bài thơ đầy tâm trạng của Xuân Thi, Quy Nhơn Mênh Mang Niềm Nhớ, tâm sự như sau: “Nói đến Xuân Thì, tôi phải gọi là Nữ sĩ mới xứng tầm với những đóng góp của cô. Xuất thân từ một gia đình Danh gia thế phiệt đất Quy Nhơn, là nữ sinh trung học Trưng Vương và là giáo sinh sư phạm trước biến cố 75. Qua Mỹ cô học ngành Hội họa. Ngoài hội họa, cô còn viết văn và làm thơ được nhiều người ưa thích, ví như: Dai Lo Bi và DM đã làm cho người đọc trở về với tuổi thơ mộng mị và như một thông điệp gửi đến tình người. 

  Về thơ, cô đã có bài Quy Nhơn Mênh Mang Niềm Nhớ đã được phổ thành ca khúc mà ai người con xứ Nẫu trong chúng ta đều biết đến ca khúc này khi nói về hoài niệm ký ức một thời Qui Nhơn. Bài hát đã trở thành bài hát tiêu biểu và tự hào cho người Quy Nhơn. Bài hát phổ từ thơ không chỉ nổi tiếng ở một địa danh mà nó còn lan tỏa ở mọi miền đất nước ra tới hải ngoại…”

Có thể nói, nhạc sỹ Ngô Tín có một cảm tình đặc biệt với người nghệ sỹ này qua lời tâm sự ở trên cũng như qua bài hát thân thương đầu kỷ niệm về nơi chôn nhau cắt rốn, nơi có tên gọi Quy Nhơn yêu dấu. Nhạc sỹ Ngô Tín cũng đã phổ những bài thơ khác của Xuân Thi như Tình Mẹ, Biển Đêm, Về Chốn Hư Không, v.v… Âu đó cũng là những bài tiêu biểu trong dòng thơ của Xuân Thi vậy.

Kế đến, xin nói về tranh của Xuân Thi. Cô chuyên về tranh sơn dầu, có thể nói những bức tranh của Xuân Thi vừa chịu ảnh hưởng ngược của Van Gogh và mang sắc thái của họa sĩ Renoir.  Người có duyên nhìn thấy những bức tranh vẽ như: Summer  Color  -  "Màu Áo Mùa Hè"; The  Night - "Đêm"; The  Boat  People  Souls - " Mảnh Hồn Thuyền Nhân"; Missing - " Nỗi Nhớ "; Legendary - "Huyền Thoại"; God has deserted the human beings; Chia Tay Cuối Đường, Xuân Thì; Về Bến Mơ;  Lưng  Đồi; "Thuở Hoang Sơ"; Ánh Mắt Mùa Thu; Vườn Xuân; Mênh Mang…, sẽ có một cảm nhận đặc biệt về Cô. Có thể nói Xuân Thi là hoạ sỹ của thế giới màu sắc, tươi thẳm, hồn nhiên và đa dạng. Tranh Cô đẹp và dễ trưng bày trong nhà, có thể thích hợp vì màu sắc hòa quyện trong nhiều bối cảnh. Tuy nhiên, nhưng sau những bức tranh đầy màu sắc đó là một cuộc sống nội tâm sâu thẳm.

 

Nói về thơ của Xuân Thi, thơ Cô không hào nhoáng nhưng dễ cảm nhận. Chúng ta hãy đọc hai bài thơ tiêu biểu này:

 

 Mỉm Nụ Cười Bao Dung

 

Qua muôn trùng sinh diệt

Hôm nay Em HÓA THÂN

Một đóa Quỳnh thanh khiết

Một cánh bướm phân vân

Mùa Xuân còn xanh biếc

Dáng Xuân mãi thanh tân

Buồn vui đời vẫn thế

Mỉm nụ cười bao dung.



A Smile with Tolerance

 

Going through the eternity of life and death

Today I am experiencing a wonderful INCARNATION

To the beautiful ethereal orchid cacti 

To the ephemeral life of a butterfly


In the freshly-coming spring

A spring forever pure and new

Happy or sad, life still goes on

In tolerance with a smile.


  Đúng thế, “Buồn vui đời vẫn thế, mỉm nụ cười bao dung", Xuân Thi vốn lạc quan yêu đời, tác giả buông buông bỏ bỏ những chuyện bất trắc, thị phi, buồn vui của cuộc sống và nhận chân được nguyên lý bất nhị, cái thường trong cõi vô thường để tìm thấy cái mênh mông trong sự hạn hẹp, v.v... Có thể nói, Cô đã thấm nhuần tương chao, tư tưởng Tứ Vô lượng Tâm (Bốn Tâm Rộng Lớn) của Nhà Phật--“Từ, Bi, Hỷ, Xả” để giúp con người trở nên tốt đẹp, hoàn mỹ và thánh thiện hơn. Âu đó cũng là một nền tảng cho một thế giới hòa bình, an lạc mà tác giả hằng mong mỏi.

  Hãy đọc thêm một chùm thơ khác của Cô như lời tâm sự của mình với biển cát mênh mông trong cái trùng trùng duyên khởi của giáo lý Phật đà. 


Một Mình Với Biển

  

Trùng Trùng Duyên Khởi:

Có sóng vỗ vào bờ

Có sóng về ngoài khơi

Vòng tử sinh muôn thuở

Bao giờ sẽ nghỉ ngơi.


Bồ Đề Tâm:

Biển bao la tình Mẹ

Biển tràn trề nguồn sóng

Thầm lặng và mênh mông

Vô lượng tâm nghìn trùng.


Vô Tư:

Kỷ niệm ngày ấu thơ

Dấu chân mờ trên cát

Sóng xoá tự bao giờ

Hồn còn in chân nhỏ


Vô Ngã:

Trăng thanh và Biển xanh

Đêm ngọt ngào tình tự

Biển mịt mờ cuồng nộ

Tâm quay về hư vô.

 

Vô Thường:

Trên lớp sóng triền miên

Sắc màu thay huyền ảo

Trên bờ cát ưu phiền

Sóng về vui lao xao... 



          

Alone with the Sea


A Multitude of Opportunities:

There are waves rolling to the shore.

There are waves going back to the ocean.

An endless circle of life and death.

When is it going to rest?


The Bodhicitta: (Bodhi Mind)

Ocean, full of Mother’s Love.

Ocean, overflows with waves,

Quietly and immensely.

Immeasurably unlimited mind.


Carefree:

Childhood memories.

Unclear footprints on the sand.

Erased by the waves unnoticed.

Little feet printed in the soul.


Selflessness:

Blue moon and blue ocean.

Night as sweet as love.

Ocean unclear and unsettled.  

Mind turns back to nothingness.


Impermanence:

On many endless layers of waves.

Colors change into illusion.

On the unsettling, sorrowful shore,

Waves bring back happy, cheerful sounds.


Những bài thơ hay thông thường bao gồm cả thi ảnh, âm điệu và tư tưởng. Những bài thơ trên có cả 3 yếu tố đó. Cách dùng chữ, âm thanh, màu sắc và tư tưởng quyện vào nhau như những bức tranh của Cô vậy. Qua thơ, Xuân Thi đã chuyển tải được những cảm xúc, suy tư, tinh hoa, và tư tưởng để giúp mình, giúp người, giúp đời đến gần với Chân-Thiện-Mỹ. 

 

Nói chung, Xuân Thi là một nữ nghệ sĩ đa năng: không những thơ đẹp, văn hay, vẻ giỏi, mà còn ở tấm lòng. 

Hãy đọc một khúc truyện ngắn của Cô. Văn của Cô có những ngạc nhiên bất ngờ làm người đọc ngây ngất và quên đi những thời gian đang lưu chảy. Ví như, “DM" có thể một tâm lý trị liệu cho những người lính Hoa Kỳ đã từng tham gia vào cuộc chiến Việt Nam. Văn của Cô hấp dẫn, làm người đọc ngậm ngùi, bâng khuâng, và đôi khi mắc cười đến rơi nước mắt. Dai Lo Bi là một ví dụ điển hình. Xin trích đoạn cuối của câu truyện này:

           ....Tình Đời Có Nhiều Dâu Bể

           Nhưng Tình Bạn Không Có Bể Dâu....

 Có phải không Cào?

  Những viên bi chai đã trang hoàng đền đài kỷ niệm của bọn mình, Thiên Đàng của bọn mình là mảnh sân xi măng có một lỗ bi lý tưởng, thiên đàng của bọn mình là một bờ cát trắng biển xanh của Quy Nhơn yêu dấu.

  Cào ơi!  hãy trở về nơi đó đi, có lẽ Cào thật cô đơn, nhưng gắng chờ ngày sum họp của bọn mình, của những viên bi.

  Tôi nắm chặt viên bi trong lòng bàn tay,  để chuyền hơi ấm và  chuyển hết sinh lực của mình sang hòn bi chai.

  Mai sau trên bờ cát Quy Nhơn, biết đâu sẽ có những viên bi vượt trùng dương trở về thiên đàng thơ ấu lung linh với giấc mơ miên viễn...

  Tôi ném mạnh Viên Bi vào trùng dương, nước mắt chảy âm thầm trên má, bên kia bờ biển Thái Bình Dương, qua màng lệ mờ, tôi nhìn vọng về phương trời cũ, với rất nhiều vấn vương...


  Như đã nói trên, Xuân Thi là một nữ hoạ sỹ tài hoa. Màu sắc trong tranh của Cô dễ chan hoà, có những nét rất mạnh, có những ẩn dụ màu sắc được truyền trao trong tranh của Cô. Tranh của Xuân Thi khá trừu tượng, mà nếu chúng ta khéo léo đủ để nhận ra, thì đó là cả một rừng ẩn ý, những thông điệp mà hoạ sỹ muốn gửi trao. Mặc dù, màu sắc rất tươi thắm, nhưng man mác đâu đó vẻ buồn, có chút úa màu vô thường của thời gian. Giống như Kiba từng thốt lên: 


My old body:

A drop of dew grown

Heavy at the leaf tip.


Mà nhà Sư Toại Khanh đã dịch:


Thân già 

Rồi cũng vô thường

Phù du

Như một giọt sương

Đầu cành.


  Thôi thì, giữ mùa đại dịch Covid-19 này; ai trong chúng ta cũng đang sống cho qua khỏi đoạn trường này. Vậy, xin hãy trao truyền sự an nhàn, thanh thản, tràn ngập năng lượng yêu thương, bao dung và tha thứ cho nhau. Hãy đọc và hiểu nhau thêm vì văn học là một trong những nhịp cầu muôn thuở đưa con người gần nhau hơn. 

 

  Tôi tin rằng, khi quý vị đọc xong tuyển tập này, cũng như Chori, ở tuổi 39, mất năm 1778 cũng có một nụ cười an nhiên thanh thản:


Leaves never fall

In vain - from all around

Bells tolling. 


Mà Toại Khánh dịch như sau:


Lá vàng

Nào ngẫu nhiên rơi

Quanh ta 

Giờ đã mấy thời chuông ngân.


  Xin được trân trọng giới thiệu một số thơ, văn và tranh chọn lọc của họa sĩ Xuân Thi trong tác phẩm đầu tay của mình.


Cầu chúc mọi người và mọi loại luôn an lành.


Bạch X. Phẻ

Mùa Hạ, 2020.

Sacramento, CA





Thursday, March 3, 2022

Hãy gọi đúng tên tôi - Please Call Me by My True Names – Thich Nhat Hanh

 


Hãy gọi đúng tên tôi

đừng bảo ngày mai tôi đã ra đi

bởi vì chính hôm nay tôi vẫn còn đang tới

hãy ngắm tôi thoát hình trong từng phút từng giây

làm đọt lá trên cành xuân

làm con chim non cánh mềm chiêm chiếp vui mừng trong tổ mới

làm con sâu xanh trên cuống hoa hồng

làm gân viên ngọc trắng tượng hình trong lòng đá.

tôi còn tới để khóc để cười

để ước mong để lo sợ

sự xuất nhập của tôi là hơi thở

nhịp sinh diệt của tôi cũng là tiếng đập một lần của hàng triệu trái tim

tôi là con phù du thoát hình trên mặt nước

và là con chim sơn ca mùa xuân về trên sông đón bắt phù du

tôi là con ếch bơi trong hồ thu

và cũng là con rắn nước trườn đi tìm cách nuôi thân bằng thân ếch nhái

tôi là em bé nghèo Ouganda, bao nhiêu xương sườn đều lộ ra, hai bàn chân bằng  hai ống sậy

tôi cũng là người chế tạo bom đạn

để cung cấp kịp thời cho các dân tộc Á Phi

tôi là em bé mười hai bị làm nhục nhảy xuống biển sâu

tôi cũng là người hải tặc sinh ra với một trái tim chưa biết nhìn biết cảm

tôi là người đảng viên cao cấp, cầm quyền sinh sát trong tay

và cũng là kẻ bị coi là có nợ máu nhân dân đang chết dần mòn trong trại tập trung cải tạo

nổi vui của tôi thanh thoát như trời xuân, ấm áp cỏ hoa muôn lối

niềm đau của tôi đọng thành nước mắt, ngập về bốn đại dương sâu

hãy nhớ gọi đúng tên tôi

cho tôi được nghe một lần tất cả những tiếng tôi khóc tôi cười

cho tôi thấy được nỗi đau và niềm vui là một

hãy nhớ gọi đúng tên tôi

cho tôi giật mình tỉnh thức

và để cho cánh cửa lòng tôi để ngỏ

cánh cửa xót thương

Đừng bảo ngày mai tôi đã ra đi”, câu này nghe như là tiếng vọng của câu “ngày mai tôi đã đi rồi” trong bài Khứ Lao. Theo tôi, bài này diễn tả được cái nhìn siêu ngã, một cái nhìn có thể thiệt sự khơi mở được đại – bi – tâm, như thầy đã diễn đạt trong Nẻo Về Của Ý.

Có lẽ bài này cho chúng ta thấy được thế nào là hành động trên lập trường Bát Nhã. Chia ra hai phía thù và bạn để mà tranh đấu, đó chưa phải thực sự là hành động phát xuất từ đại bi tâm. Chúng ta ai cũng có thể thương được con ếch, nhưng ít ai thương được con rắn nước. Con ếch bị con rắn nước nuốt, nhưng chính con ếch cũng không sống được nếu chính nó không nuốt những sinh vật khác nhỏ hơn. Hành động như thế nào để “không ghét cả những kẻ ác” như kinh Bát Đại Nhân Giác dạy mới thật là hành động của người bồ tát. Kẻ ác kia cũng cần được cứu độ, cũng nằm trong lĩnh vực hoá độ của bồ tát.

Mỗi một cái tên chỉ nhốt được một mảnh vụn của sự sống. Gọi đúng tên tôi thì tất cả đều lên tiếng một lần. Chỉ có sự thức tỉnh mới mở được cánh cửa của đại bi tâm.


Nguồn: Làng Mai


Please Call Me by My True Names – Thich Nhat Hanh

Don’t say that I will depart tomorrow —
even today I am still arriving.

Look deeply: every second I am arriving
to be a bud on a Spring branch,
to be a tiny bird, with still-fragile wings,
learning to sing in my new nest,
to be a caterpillar in the heart of a flower,
to be a jewel hiding itself in a stone.

I still arrive, in order to laugh and to cry,
to fear and to hope.

The rhythm of my heart is the birth and death
of all that is alive.

I am the mayfly metamorphosing
on the surface of the river.
And I am the bird
that swoops down to swallow the mayfly.

I am the frog swimming happily
in the clear water of a pond.
And I am the grass-snake
that silently feeds itself on the frog.

I am the child in Uganda, all skin and bones,
my legs as thin as bamboo sticks.
And I am the arms merchant,
selling deadly weapons to Uganda.

I am the twelve-year-old girl,
refugee on a small boat,
who throws herself into the ocean
after being raped by a sea pirate.
And I am the pirate,
my heart not yet capable
of seeing and loving.

I am a member of the politburo,
with plenty of power in my hands.
And I am the man who has to pay
his “debt of blood” to my people
dying slowly in a forced-labor camp.

My joy is like Spring, so warm
it makes flowers bloom all over the Earth.
My pain is like a river of tears,
so vast it fills the four oceans.

Please call me by my true names,
so I can hear all my cries and my laughter at once,
so I can see that my joy and pain are one.

Please call me by my true names,
so I can wake up,
and so the door of my heart
can be left open,
the door of compassion.

Thich Nhat Hanh tells the story of the poem:

After the Vietnam War, many people wrote to us in Plum Village. We received hundreds of letters each week from the refugee camps in Singapore, Malaysia, Indonesia, Thailand, and the Philippines, hundreds each week. It was very painful to read them, but we had to be in contact. We tried our best to help, but the suffering was enormous, and sometimes we were discouraged. It is said that half the boat people fleeing Vietnam died in the ocean; only half arrived at the shores of Southeast Asia.

There are many young girls, boat people, who were raped by sea pirates. Even though the United Nations and many countries tried to help the government of Thailand prevent that kind of piracy, sea pirates continued to inflict much suffering on the refugees. One day, we received a letter telling us about a young girl on a small boat who was raped by a Thai pirate.

She was only twelve, and she jumped into the ocean and drowned herself.
When you first learn of something like that, you get angry at the pirate. You naturally take the side of the girl. As you look more deeply you will see it differently. If you take the side of the little girl, then it is easy. You only have to take a gun and shoot the pirate. But we can’t do that. In my meditation, I saw that if I had been born in the village of the pirate and raised in the same conditions as he was, I would now be the pirate. There is a great likelihood that I would become a pirate. I can’t condemn myself so easily. In my meditation, I saw that many babies are born along the Gulf of Siam, hundreds every day, and if we educators, social workers, politicians, and others do not do something about the situation, in twenty-five years a number of them will become sea pirates. That is certain. If you or I were born today in those fishing villages, we might become sea pirates in twenty-five years. If you take a gun and shoot the pirate, you shoot all of us, because all of us are to some extent responsible for this state of affairs.

After a long meditation, I wrote this poem. In it, there are three people: the twelve-year-old girl, the pirate, and me. Can we look at each other and recognize ourselves in each other? The title of the poem is “Please Call Me by My True Names,” because I have so many names. When I hear one of the of these names, I have to say, “Yes.”

Giới thứ tư, không vọng ngữ: Bảo vệ hòa bình và an lạc Tâm Thường Định dịch Việt

                                    The Fourth Precept: Protecting the Peace

Giới thứ tư, không vọng ngữ:

Bảo vệ hòa bình và an lạc

Tâm Thường Định dịch Việt

Về cơ bản, thực hành Phật giáo là sự rèn luyện trong hòa bình – và đạo đức Phật giáo đóng vai trò bảo vệ nền hòa bình này. Khi cảm giác thoải mái, hài hòa và bình tĩnh ngày càng sâu sắc với việc thực hành, chúng ta bắt đầu hiểu những lựa chọn đạo đức tác động đến trải nghiệm hòa bình của chúng ta như thế nào và chúng ta thấy rằng năm giới luật Phật giáo bảo vệ hạnh phúc của chúng ta.

Vì chúng ta thường xuyên nói chuyện và giao tiếp với người khác nên giới thứ tư – tránh nói sai – đặc biệt phù hợp trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Sống theo giới luật này bảo vệ chúng ta và những người mà chúng ta tiếp xúc, khỏi bị tổn thương, phản bội và xung đột do vọng ngữ. Việc tránh nói sai thúc đẩy một xã hội hoà hợp và sự tin tưởng giữa các cá nhân mà sự hòa hợp xã hội phụ thuộc vào. Nó cũng hỗ trợ nền tảng của thực hành Phật giáo, nền tảng của cuộc sống của chúng ta dựa trên những gì là sự thật. Dưới đây là giành cho  những ai  có động cơ  đi trên con đường hòa bình và tự do, hoặc hướng ngược lại.

Trung thực là chìa khóa để thực hành chánh niệm. Không thể có thực hành chánh niệm nếu không nhìn nhận một cách trung thực những gì chúng ta đang trải qua. Vọng ngữ can thiệp vào mục đích và sức mạnh của chánh niệm. Mặt khác, nói thật – tức là “chánh ngữ” – giữ cho chúng ta trong dòng chảy của chánh niệm, và việc  giao tiếp có cơ hội hòa hợp với điều tốt đẹp nảy sinh thông qua thành ý của chúng ta..

Trạng thái điềm tĩnh, thư thái và an lạc cung cấp cho chúng ta những cơ sở tham chiếu quan trọng để sống theo giới thứ tư. Tương tự như cách một tấm vải sạch sẽ để lộ vết bẩn mới tốt hơn một tấm vải đã thấm đầy bụi bẩn, tâm trí bình tĩnh sẽ làm nổi bật sự kích động tốt hơn tâm trí bất an. Bởi vì nói dối kích động người nói dối, tâm trí thanh thản có thể tiết lộ cách mà sự không trung thực làm xáo trộn chất lượng cuộc sống nội tâm của chúng ta.

Vọng ngữ liên quan đến sự căng thẳng, gò bó và thu hẹp tâm trí, và nó thường tạo ra cảm giác sợ hãi bị phát giác. Nó cũng có thể dẫn đến mối căng thẳng về việc tiếp tục nói dối. Khi nói dối, chúng ta tạo ra khoảng cách với người khác vì không trung thực, ngăn cản khả năng xây dựng mối quan hệ dựa trên sự chân thành và hiểu biết lẫn nhau. Hơn nữa, nói dối để lại di chứng xấu hổ và cảm giác tội lỗi sớm muộn cũng phải trải qua.

Những động cơ chung cho việc nói dối – tham lam, thù địch và sợ hãi – mang lại sự bất an cho tâm trí và trái tim của chúng ta. Đôi khi chúng được gọi là “cảm xúc phiền não” vì nỗi đau mà chúng gây ra. Vọng ngữ không giải phóng chúng ta khỏi những trạng thái phiền não này; nếu bất cứ điều gì, nó tăng cường sức mạnh cho chúng .

Trong khi tránh những hậu quả tiêu cực này có thể là lý do đủ để tránh nói sai sự thật, cam kết với giới thứ tư cũng có thể hỗ trợ trong việc duy trì trạng thái an lạc dễ dàng có thể tồn tại trong chúng ta. Trải nghiệm về sự ổn định và an lạc có thể được thỏa mãn và nuôi dưỡng sâu sắc. Khi chúng ta đang trải qua những trạng thái như vậy, chúng ta nên cẩn thận để không đánh mất chúng quá dễ dàng, đặc biệt là bằng cách làm hoặc lời nói  mà sau này chúng ta có thể hối tiếc. Khi chúng ta tự biết rằng việc vọng ngữ làm xáo trộn sự bình yên của chúng ta, chúng ta có động lực lớn hơn để tránh nói sai. Theo cách này, giới thứ tư không chỉ là phòng bệnh để tránh phiền não; nó là một loại thuốc bổ hỗ trợ sức khỏe của chúng ta.

Tránh nói sai không có nghĩa là chúng ta phải nói điều gì đó chỉ vì nó đúng. Sự thật có thể gây tổn thương, và điều quan trọng là phải tính đến tác động của lời nói của chúng ta đối với người khác. Giáo lý Phật giáo nhấn mạnh rằng sự thật chỉ nên được nói ra nếu nó kịp thời, hữu ích và được chuyển đạt với thiện ý. Điều này có nghĩa là lời nói trung thực phải kết hợp với trí tuệ – với khả năng của chúng ta để phân biệt bối cảnh, mục đích và hậu quả có thể xảy ra của những gì chúng ta nói.
Trí tuệ được nuôi dưỡng bởi các trạng thái an lạc. Khi chúng ta bị kích động, vội vàng hoặc bốc đồng, thật khó để trở nên khôn ngoan. Chúng ta không có thời gian hoặc tinh thần để trí tuệ hoạt động. Chúng ta ít có khả năng nhận ra khi nào nói là hữu ích, hay không, và ít có khả năng biết điều gì là đúng hoặc không đúng.

Thực tế là sự khôn ngoan hoạt động tốt hơn khi chúng ta bình yên, chắc chắn là một động cơ chính đáng để bảo vệ sự an lạc của chúng ta. Và trong khi các yếu tố khác nhau góp phần vào việc duy trì hòa bình an lạc. Cam kết với giới thứ tư – không vọng ngữ – có thể đặc biệt hữu ích khi nói đến đời sống xã hội. Sự quan tâm và chăm sóc liên tục cần thiết để “tránh nói sai” giúp chúng ta phát triển khả năng tỉnh táo, sáng suốt và không có lời nói ép buộc. Nó đòi hỏi phải dừng lại đủ lâu – để nhận ra những gì chúng ta sắp nói trước khi chúng ta nói ra. Nó cho phép chúng ta cân nhắc lý do mình muốn nói một điều gì đó.

Giới luật Phật giáo không phải là những quy tắc đạo đức bắt buộc. Tuy nhiên, chỉ bắt buộc nếu chúng ta muốn bảo vệ sự an lạc cá nhân lẫn mọi người chung quanh. Sự bình an, bình tĩnh, mãn nguyện và sáng suốt của chúng ta càng lớn, chúng ta càng có nhiều thứ đáng để bảo vệ khỏi sự kích động do nói dối. Tương tự, sự hòa hợp giữa các cá nhân, tình bạn và sự tin cậy của chúng ta càng lớn, thì những điều này càng đáng được bảo vệ khỏi những hậu quả khó lường của việc dối gạt người khác.

Đây là một lý do tại sao những người tham gia vào các thực hành chiêm nghiệm, chẳng hạn như thiền định, có xu hướng coi trọng hành vi đạo đức. Biết quá rõ những gì được-mất thông qua hành vi phi đạo đức, họ hiểu rằng họ tốt hơn hết là sống có đạo đức. Khi nói đến lời nói, họ biết tốt hơn hết là không nên dối với bất kỳ ai, kể cả chính họ.

Fourth Precept: Protecting the Peace

By Gil Fronsdal | Insight Meditation Center

Fundamentally, Buddhist practice is a training in peace — and Buddhist ethics serve as a protection of this peace. As our sense of ease, harmony, and calm deepen with our practice, we begin to understand how our ethical choices impact our experience of peace, and we see that the five Buddhist precepts safeguard our well-being.

Because we so frequently talk and communicate with others, the fourth precept — avoiding false speech — is particularly relevant in our daily lives. Living by this precept protects us, and those we interact with, from the hurt, betrayal, and conflict that come from lying. Avoiding false speech promotes social concord and the interpersonal trust that social harmony depends on. It also supports the foundation of Buddhist practice, which bases our lives on what is true. For those who are motivated to walk a path of peace and freedom, opposite direction.

Honesty is key to mindfulness practice. There can be no mindfulness practice without honestly acknowledging what we are experiencing. Telling lies interferes with the purpose and power of mindfulness. On the other hand, speaking truthfully — i.e., “mindfulness out loud” — keeps us in the flow of mindfulness, and our communications have the chance to be in harmony with the goodness that arises through careful attention.

States of calm, relaxation, and peace provide us with important reference points for living by the fourth precept. In the same way that a clean cloth will better reveal a new stain than a cloth that’s already saturated with dirt, a calm mind will better highlight mental agitation than a mind that is unsettled. Because lying agitates the person who lies, a peaceful mind can reveal the way dishonesty disturbs the quality of our inner life.

Lying involves a tension, tightness, and narrowing of the mind, and it often produces a fear of being caught. It can also lead to a stressful preoccupation with keeping the lie going. When we lie we create distance from others because dishonesty blocks our ability to build relationships based on genuine rapport and mutual understanding. Furthermore, lying leaves a legacy of shame and guilt to be experienced sooner or later.

The common motivations for lying — greed, hostility, and fear — bring their own unease to our minds and hearts. Sometimes these are called “afflictive emotions” because of the pain they cause. Lying doesn’t free us from these afflictive states; if anything, it strengthens them.

While avoiding these negative consequences can be reason enough for avoiding false speech, a commitment to the fourth precept can also be supportive in maintaining states of peace and ease that may exist within us. Experiences of settledness and peace can be deeply satisfying and nourishing. When we are experiencing such states, it’s good to take care not to lose them too easily, especially by doing or saying things we might later regret. When we know for ourselves that telling a lie disturbs our peace we have greater motivation to avoid lying. In this way, the fourth precept is more than preventive medicine for avoiding affliction; it is a tonic that supports our well-being.

Avoiding false speech does not mean we have to say something just because it is true. The truth can be hurtful, and it is important to take into account the impact our words have on others. Buddhist teachings emphasize that the truth should only be told if it’s timely, useful, and delivered with goodwill. This means that truthful speech should work together with wisdom — with our ability to discern the context, purpose, and the likely consequences of what we say.

Wisdom is nurtured by states of peace. When we are agitated, in a hurry, or impulsive, it’s hard to be wise. We don’t have the time or the mental bandwidth to take into account the range of information that wisdom needs to function. We’re less likely to recognize when speaking is useful or not, and less likely to know what is or isn’t true.

The fact that wisdom operates better when we’re peaceful is certainly a good reason to protect our peace. And while various factors contribute to remaining peaceful, the commitment to the fourth precept can be particularly useful when it comes to our social life. The care and ongoing attention needed to “avoid false speech” develops our ability to be mindful, discerning, and free of compulsive speech. It entails pausing just long enough — perhaps imperceptibly to others — to recognize what we are about to say before we say it. It allows us to investigate the reasons we want to say something.

Buddhist precepts are not obligatory moral rules. They are, however, required if we want to safeguard both our personal and interpersonal peace. The greater our peace, calm, contentment, and clarity, the more we have something that is worth protecting from the agitation that results from lying. Similarly, the greater our interpersonal harmony, friendships, and trust, the more these are worth safeguarding from the disruptive consequences of deceiving others.

This is one reason why people who engage in contemplative practices, such as meditation, tend to value ethical behavior. Knowing all too well what is lost through unethical behavior, they understand they are better off being ethical. When it comes to speech, they know they are better off not deceiving anyone, including themselves.


Tuesday, March 1, 2022

Tâm Quảng Nhuận: Sự đóng góp của Phật giáo vào nền văn hóa hòa bình Tâm Quảng Nhuận dịch Việt

Sự đóng góp của Phật giáo
vào nền văn hóa hòa bình

Tâm Quảng Nhuận dịch Việt

Sự đóng góp của các tôn giáo vào nền văn hóa hòa bình là một chủ đề phức tạp, đòi hỏi sự nghiên cứu bằng óc phân tích. Sự phức tạp của các cuộc xung đột đã biến thành lĩnh vực bạo lực lớn hơn, đỉnh điểm là chiến tranh, một hiện tượng phổ biến. Giáo điều tôn giáo và cách tiếp cận theo chủ nghĩa chính thống đã gây ra những kết quả xấu xí nhất cho trái đất. Bất chấp tất cả những phát triển khoa học và công nghệ, sự chuyên chế của chiến tranh và chủ nghĩa tôn giáo chính thống vẫn không suy giảm.

Chủ đề sẽ được hiểu theo hai khía cạnh khái niệm. Nguyên nhân lớn hơn của sự căng thẳng của chúng ta dường như nằm ở các truyền thống tôn giáo mà chắc chắn là đã biến thành nhiều sự đồng thuận đầy tinh vi và quyền xảo. Sự xuất hiện của họ càng trở nên trầm trọng hơn thay vì là sự trợ giúp cho con người do hậu quả của những gì mà mỗi truyền thống tôn giáo chủ trương mang lại hòa bình thông qua hành vi bất bạo động, công lý, lòng trắc ẩn, tự do, tình anh em, sự chung sống và những đức tính khác. Tôi không biết một giáo luật hay giáo viên tôn giáo nào khuyến cáo bạo lực, hận thù và chia rẽ, nhưng chúng tôi nhận thấy những hành vi được thực hiện nhân danh tôn giáo để cải đạo, để loại bỏ sự ganh đua với sự khẳng định giáo điều và những tuyên bố khác nhau về chân lý để thiết lập tính ưu việt của tôn giáo mà niềm tin và lời dạy của người khác không được chấp nhận.

Trên thực tế, lịch sử truyền thống tôn giáo đầy ắp những hồ sơ tội ác và chiến tranh. Logic đằng sau những tiền nhân lịch sử này là gì và chúng ta nên nhìn nhận những kẻ gây bạo lực và tội ác nhân danh tôn giáo như thế nào. Họ có thể được gọi là những người tôn giáo không? Chúng ta có nên tôn vinh những người đã hy sinh mạng sống của mình để chiến đấu và gây ra những hành động tàn bạo vì việc phổ biến tôn giáo mà họ đã tuyên xưng, hay chúng ta phải nghĩ họ là những tội nhân chứ không phải những người theo tôn giáo, đáng bị lên án vì đã có những hành vi trái ngược với các nguyên tắc cơ bản của tôn giáo của họ?

Một số nhà tư tưởng đương thời cho rằng có nhiều lĩnh vực trong đó lợi ích của những người không theo tôn giáo, những người chống tôn giáo và những người có tôn giáo là giống hệt nhau. Thông thường, những người chống tôn giáo ít phi đạo đức hơn những người tôn giáo. Nhưng quan điểm này không ủng hộ rằng các truyền thống tôn giáo đã không đóng góp gì cho nền văn hóa hòa bình. Chúng ta phải phân biệt giữa các giáo lý tôn giáo thực sự và các khái niệm hỗn hợp của giáo lý tôn giáo, giữa tâm trí tôn giáo thực sự và các giáo điều phi lý và giữa đức tin tôn giáo thực sự và chủ nghĩa tôn giáo chính thống. Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới có thể xác định sự thật rằng bạo lực và tội phạm nhân danh tôn giáo thực sự không phải là hành vi tôn giáo và những người thực hiện chúng không phải là người tôn giáo. Nếu giả định như vậy đáp ứng được sự đồng thuận chỉ trong tình huống đó, chúng ta có thể nói về sự đóng góp của các tôn giáo vào nền văn hóa hòa bình.

Trước khi xem xét sự đóng góp của Phật giáo vào nền văn hóa hòa bình, chúng ta nên giải quyết hòa bình là gì và văn hóa của nó là gì.

Trong Phật giáo, hòa bình không được coi là chỉ là không có chiến tranh hay xung đột. Hòa bình là một trạng thái mà nguyên nhân của sự bất hòa được xóa bỏ. Đức Phật đã tuyên bố hết lần này đến lần khác rằng chỉ có niết bàn là “Hòa bình”. Nó ngụ ý rằng nguyên nhân của sự bất hòa bắt nguồn từ “tâm lý” của hiện hữu, dưới dạng phiền não (klessas). Chừng nào mà phiền não không bị tiêu trừ, thì bất hòa vẫn còn. Văn hóa theo đúng nghĩa của nó là tu tâm có nghĩa là loại bỏ những phiền não và tạp chất làm bẩn tâm trí. Chức năng đích thực của văn hóa là làm cho tâm được trau dồi để thực hiện các hành động tốt (nghiệp thiện).

Các trật tự xã hội và hệ thống chính trị là những công cụ tạo ra sự thay đổi khiến sự thay đổi hình thành nên loại bất hòa này đến loại bất hòa khác, như thể truyền đạt những ảo tưởng nhẹ nhõm, luôn thoáng qua và quản lý các tần số khác nhau của bất hòa và xung đột. Bản thân tâm lý của chúng ta là một kho chứa những suy nghĩ, kinh nghiệm, ảo tưởng, phiền não, ham muốn, chấp trước, sợ hãi và tất cả những thứ còn lại chẳng qua là lớp vỏ của những mâu thuẫn và xung đột.

Chúng ta đã xây dựng một xã hội bạo lực. Môi trường và nền văn hóa mà chúng ta đang sống là sản phẩm của những mâu thuẫn, xung đột, nỗi đau và sự tàn bạo của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta không nhận ra dòng đau khổ, xung đột và bất hòa này. Con người cố gắng tìm kiếm hòa bình trong sự hỗn loạn này và tìm một số phương pháp để đạt được hòa bình trong nó. Điều này là như vậy bởi vì chúng ta không nhận ra bản chất của xung đột và bất hòa vốn có sẵn trong bản thân chúng ta, trong tâm hồn chúng ta, trong con người chúng ta và trong toàn bộ môi trường của chúng ta. Nó cần sự nhạy cảm vô cùng để cảm nhận sự lan tràn của sự bất hòa trong các hình thức tinh vi của sự phân rã, bệnh tật, cái chết và sự tái sinh.

Siddhartha có sự nhạy cảm để nhận ra bản chất phổ biến của đau khổ và ông đã bắt đầu tìm kiếm một giải pháp lâu dài để giải quyết vấn đề đau đớn và có được hòa bình bền vững. Sau khi đạt được Phật quả, ông đã dạy các đệ tử của mình “Siddharama”, luật cao quý, như chính ông đã trải nghiệm trong quá trình (marga) của Phật tính. Ông đã tổng kết lại toàn bộ quá trình biến đổi một con người từ tứ diệu đế. Trong bài giảng đầu tiên của mình, ông nói với các đệ tử của mình rằng chân lý của đau khổ phải được cảm nhận, sự thật về nguyên nhân của đau khổ là phải được diệt trừ, sự thật về sự chấm dứt đau khổ là phải đạt được và do đó, sự thật của con đường là được thực hành. Ông ấy nói với chúng ta rằng tất cả những sự thất vọng phổ quát là sự tạo ra từ tâm trí si mê của chính người ta, và trừ khi và cho đến khi sự si mê (avidya) bị diệt trừ thì mới có thể đạt được hòa bình bền vững.

Từ bức tranh toàn cầu về chiến tranh cho đến những xung đột nội tâm nhỏ nhặt nhất của một cá nhân, tất cả đều là kết quả của sự ảo tưởng của một người. Do ảo tưởng và những ấn tượng trong quá khứ tích tụ trong một thời gian dài, tâm trí của người đó trở nên không thể nhận thức được bản chất thực sự của sự vật. Do đó, người ta quan niệm tôi như một thực thể tồn tại độc lập cố hữu. Do đó, ảo tưởng làm nhầm lẫn các quan niệm của chúng ta trong mối quan hệ với những tồn tại vốn có như vậy của cái tôi. Điều đó càng tạo ra quan niệm về người khác tạo ra sự chia rẽ giữa bản thân và người khác. Sự chia rẽ này là nguyên nhân dẫn đến sự ràng buộc và thù hận hiện hữu trong tâm trí của một người. Vì vậy, tâm trí không bao giờ có thể thoát khỏi xung đột và bất hòa. Không có nỗ lực và phương pháp nào có thể đạt được tự do khỏi xung đột và bất hòa trừ khi nguyên nhân cơ bản của si mê là vô minh (avidya) được diệt trừ. Như vậy, Đức Phật không quá coi trọng các hệ thống chính trị và xã hội. Ông tin chắc rằng không có hệ thống nào dựa trên quan niệm về sự chia rẽ và bất bình đẳng giữa cái tôi và cái khác có thể phát triển để mang lại hòa bình bền vững giữa chúng sinh. Chắc chắn, không một ai trong số những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo có lý trí lại chấp nhận những phiền não, chẳng hạn như hận thù và chấp trước để trở thành những điều tốt đẹp. Chúng được coi là nguyên nhân của sự khốn khổ cần được xóa bỏ. Nhưng vấn đề là hầu hết mọi người thậm chí không biết đúng cách và phương pháp để xóa khổ.

Một tâm hồn văn hóa thực sự có thể phát triển thông qua việc thực hành bốn trạng thái tâm trí cao nhất (catura pramana), gồm: lòng nhân ái, lòng trắc ẩn, niềm vui thông cảm và sự bình đẳng. Bốn trạng thái tâm cao nhất này có ý nghĩa quan trọng nhất đối với việc đạt được hòa bình cho tất cả chúng sinh trên thế giới.

Ngoài ra, Phật giáo đã nhấn mạnh đến việc tu tâm Bồ tát (một chúng sinh trên con đường thành Phật). Một vị bồ tát thực hành nhiều sự hoàn thiện (ba-la-mật) khác nhau về độ lượng, đạo đức, từ bỏ, nhẫn nhục, v.v.

Ngoài ra, tôi phải nhấn mạnh rằng không có tôn giáo nào có thể đảm bảo một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của văn hóa hòa bình. Đôi khi tôi cảm thấy khía cạnh tổ chức của tất cả các tôn giáo không phải lúc nào cũng thuận lợi cho hòa bình. Hệ thống có tổ chức thường khuyến khích sự cố chấp và điều này phải được từ bỏ vì lợi ích của văn hóa hòa bình.

Đức Phật nói, ‘hận thù không bao giờ hết hận thù trên thế gian này; chỉ bằng tình yêu thì hận thù mới chấm dứt’. Đây là một quy luật vĩnh cửu. Ngài dạy chúng ta nếu sự thù hận gặp phải bởi sự thù hận mang đến sự thù hận lớn hơn. Logic là đơn giản như bất cứ ai có thể thấy. Nó là một tinh thể trong suốt mà một ngọn lửa không thể bị dập tắt bởi một ngọn lửa khác; nó chỉ có thể bị dập tắt bởi một thứ có đặc tính ngược lại với ngọn lửa, ví dụ: nước, v.v… tương tự như vậy, hận thù không thể bị xóa bỏ bởi hận thù; nó chỉ có thể bị diệt trừ thông qua bản chất đối lập là ‘tình yêu’ và ‘lòng trắc ẩn’. Vì vậy, Đức Phật đã đặt nó thành yêu cầu cơ bản để các tín đồ của Ngài chấp nhận các tiêu chuẩn sau:

  1. Không xử tệ với người khác, mặc dù bạn đã bị họ xử tệ.

  2. Đừng phẫn hận người khác, mặc dù bạn đã bị họ phẫn hận.

  3. Không đánh người khác, dù bạn đã bị họ đánh.

  4. Đừng tìm lỗi ở người khác, dù họ có lỗi với bạn.

Phần trên được đặt dưới ‘bốn huấn lệnh lành mạnh cho việc xuất gia (pháp Cattvarsramanakara). Cũng giống như cách mà Đức Phật dạy chúng ta trong một phép ẩn dụ rằng sẽ không thể bọc cả trái đất bằng da để bảo vệ bàn chân của người ta khỏi gai đâm xuyên, nhưng che chân bằng giày làm bằng da thì quả thực có thể cứu được bàn chân khỏi bị thương tích. Ngài còn nói với chúng ta rằng một người không thể chiến thắng tất cả kẻ thù. Cách giảng dạy này nuôi dưỡng văn hóa hòa bình và bất bạo động.

Giáo lý Phật giáo không mong đợi bất kỳ xung đột nào, bạo lực, bất kỳ cách nào hoặc bất kỳ hành động xâm lược nào là chính đáng trên cơ sở chủ nghĩa dân tộc, quyền tự vệ hoặc bất kỳ giả thuyết nào như vậy. Chỉ trong những trường hợp ngoại lệ, bạo lực mới là chính đáng và đó là để bảo vệ người khác. Để làm được điều đó, nó cần được nuôi dưỡng lòng từ bi sâu sắc và ý thức hoàn toàn quên mình và hy sinh.

Vì mục tiêu chính và mục tiêu cuối cùng của Phật giáo là đạt được hòa bình vĩnh viễn và tuyệt đối tức là “niết bàn”, nên mọi giáo lý Phật giáo đều góp phần vào văn hóa hòa bình: không chỉ trên việc đạt được niết bàn, mà ngay cả ở giai đoạn thực hành con đường của mình, người ta cũng trau dồi văn hóa khoan dung, không bạo lực và phục vụ người khác. Toàn bộ giáo lý Phật giáo được tóm tắt trong “ba sự huấn luyện”; đào tạo liên quan đến đạo đức, đào tạo liên quan đến thiền định và đào tạo liên quan đến trí tuệ.

Sự huấn luyện liên quan đến đạo đức (adhisilasikas) khiến người ta kiềm chế khỏi mọi loại bạo lực về thể chất và giọng nói vốn làm căng cơ thể chất và giọng nói để duy trì trong hòa bình và hòa hợp.

Việc huấn luyện liên quan đến thiền định (adhisamadhisiksa) làm cho tâm trí thoát khỏi mọi ý nghĩ bạo lực và tâm trí vẫn trong bình an và tĩnh lặng.

Sự huấn luyện liên quan đến trí tuệ (adhiprajnasiksa) thúc đẩy tâm trí nhận thức được thực tại như nó vốn có và khắc sâu tâm trí để diệt trừ mọi loại ô uế để nguyên nhân của mọi bạo lực và bất hòa hoàn toàn bị loại bỏ dẫn đến dòng ý thức chảy hướng tới sự đạt được an lạc-niết bàn.

Phật giáo đã mở đường cho việc thực hiện khái niệm hòa bình trong suốt quá khứ và đã hình thành lý tưởng của vô số người đã đạt được hòa bình trong cuộc sống của họ. Sự đóng góp này vào tâm trí của các cá nhân được phản ánh trong các sự kiện lịch sử. Nếu bạn quay trở lại thời kỳ của Đức Phật, bạn sẽ tìm thấy ví dụ của kẻ giết người tàn nhẫn tên là Angulimala, người đã được chuyển đổi thành một tín đồ yêu chuộng hòa bình của Đức Phật. Vào thời điểm mà thanh kiếm là trọng tài của công lý, nhiều cuộc chiến tranh và xung đột đang nổi lên đã lắng xuống và thay vào đó con người đã tìm thấy hòa bình. Ashoka vĩ đại là một trong những trường hợp chói sáng nhất của lịch sử, một vị vua đã biến đổi một cách đáng kinh ngạc; Từ một kẻ chinh phạt bạo chúa, kẻ thèm khát quyền lực đáng sợ, ông đã trở thành một nhà cai trị ôn hoà, người không chỉ thiết lập hòa bình trong vương quốc của mình mà còn khuyến khích sự chung sống hòa bình với tất cả các quốc gia láng giềng trong một thời gian đáng kể.

Ngay cả trong tình hình thế giới đương thời, có một số người bị tra tấn và bóc lột nhiều nhất, những người này vẫn không theo con đường bạo lực và khủng bố chỉ vì ảnh hưởng của Phật giáo.

Ngày nay người ta ngày càng cảm thấy rằng con đường do Đức Phật chỉ ra nên chia sẻ cho tất cả những ai, thực sự có khả năng sống với ngôn ngữ hòa bình. Đó là cuộc đối thoại sôi nổi của tất cả những người có tư tưởng tôn giáo để cùng nhau làm sống lại những giáo lý tôn giáo của chính họ, hiểu biết lẫn nhau và chia sẻ trong hòa bình, cội nguồn của các giá trị nhân văn.

Contribution Of Buddhism
To The Culture Of Peace

His Eminence Prof. Samdhong Rinpoche

Contribution by religions to the culture of peace is a complex subject which necessitates examination with analytical mind. The intricacy of conflicts has meandered into the field of greater violence culminating into wars which is a pervasive phenomenon. Religious dogma and fundamentalist approach have scarred the earth with ugliest results. Inspite of all our scientific and technological developments the tyranny of war and religious fundamentalism remain unabated.

The theme is to be understood in two conceptual strains. The greater cause of our strain seems to lie with religious traditions which undoubtedly have straggled into many artful consensuses. Their appearance is more exacerbating instead of being a help to man in consequences of what each religious tradition advocates to bring peace through non-violent conduct, justice, compassion, liberty, brotherhood, co-existence and such other virtues. I do not know a religious canon or teacher recommending violence, hatred and division among men, still we find acts committed in the name of religion for conversion, for elimination of rivalries with dogmatic assertion and different claims to truth to establish the superiority of one’s religion for which the beliefs and teachings of others are deprecated.

In fact, history of religious traditions is replete with a record of crime and war. What is the logical behind these historical antecedents and how should we view those who commit violence and crime in the name of religion. Can they be called religious persons? Should we honour those who laid down their lives fighting and perpetuating atrocities for dissemination of their professed religion, or must we think of them to be sinners and not religious persons, deserving open condemnation for committing acts opposed to the basic principles of their religion?

Some contemporary thinkers are of the view that there are many areas in which the interests of the non-religious, the anti-religious and the religious persons are identical. More often than not the anti-religious are less unethical than the religious persons. But this view does not uphold that the religious traditions did not contribute anything to the culture of peace. We have to distinguish between the real religious teachings and the mixed concepts of religious teachings, between the real religious mind and the irrational dogmas and between the real religious faith and the religious fundamentalism. Only in that way, can we establish the fact that violence and crime committed in the name of religious are not, indeed, religious acts and persons who commit them are not religious persons. If such assumption meets the consensus only in that situation we can talk about the contribution of religions to the culture of peace.

Before we look into the contribution of Buddhism to the culture of peace, we should settle what peace is and what its culture is.

In Buddhism, peace is not considered to be mere absence of war or conflict. Peace is a state where the cause of disharmony is eradicated. The Buddha announced time and again that only nirvana is “Peace”. It implies that the cause of disharmony is rooted in the “psyche “of being, in the form of defilements (klessas). So long as defilements are not eliminated, disharmony shall remain. Culture in its true sense is the cultivation of mind is meant removal of defilements and impurities that soil the mind. The true function of culture is to make mind well-cultivated to perform good actions (kusala karmas).

Social orders and political systems are make-shift devices which cause change form one kind of disharmony to another, as if to impart the illusions of relief, which is always fleeting and managing the various frequencies of disharmony and conflicts. Our psyche itself is a repository of thoughts, experiences, illusions, afflictions, desires, attachments, fears and all the rest which is nothing more than a shell of contradictions and conflicts.

We have built a society which is violent. The environment and the culture in which we live is the product of our contradictions, conflicts, pain and brutalities. Yet, we do not realise this stream of misery, conflict and disharmony. Man tries to search for peace within this chaos and find some method to achieve peace within it. This is so because we do not realize the nature of conflict and disharmony which is inbuilt in ourselves, in our psyche, in our being and in our total environment. It needs immense sensitivity to feel the pervasiveness of disharmony in subtle forms of decay, disease, death and rebirth.

Siddhartha had the sensitivity to realize the pervasive nature of misery and he set forth in search of a permanent solution to resolve the problem of pain and obtain sustainable peace. After attainment of Buddhahood he taught his disciples “Siddharama”, the noble law, as he had himself experienced in the process (marga) of Buddhahood. He summed up the entire process of transforming a person from the four noble truths. In his first sermon he told his disciples that the truth of suffering is to be felt, the truth of the cause of suffering is to be eradicated, the truth of the cessation of suffering is to be attained and, therefore, the truth of the path is to be practiced. He tells us that all universal disharmonies is a creation of one’s own deluded mind, and unless and until the delusion (avidya) is eradicated no sustainable peace can be achieved.

From the global canvas of war to the subtlest inner conflicts of a single individual all is the outcome of one’s delusion. Owing to delusion and past impressions accumulated in immeasurable time the person’s mind becomes incapable of perceiving the true nature of things. Due to it one conceives I as an independent inherent existent entity. Thus delusion confuses our conceptions in relation to such inherent existences of I. That further creates the conception of others which generates division between self and others. This division is the cause for attachment and hatred present in one’s mind. Thus mind can never be free from conflict and disharmony. No amount of effort and methodology can attain freedom from the conflict and disharmony unless the basic cause of delusion which is ignorance (avidya) is eradicated. As such the Buddha did not attach much importance to social and political systems. He was convinced that no system which is based on the conception of division and inequality between self and the other can thrive to bring about sustainable peace among the sentient beings. Surely, none among the religious and non-religious beings having a rational mind would accept the defilements, such as hatred and attachment to be as good things. These are held to be cause of misery which should be eradicated. But the problem is that most people do not even know the right way and method of eradicating misery.

A truly cultural mind can develop through the practice of four highest state of mind (catura pramana), viz. loving kindness, compassion, sympathetic joy and equanimity. These four highest states of mind are most significant for the attainment of peace for all the living beings of the world.

Also Buddhism has laid emphasis on the cultivation of mind of Bodhisattva (a being on the path of Buddhahood). A bodhisattva practices various perfections (paramitas) of generosity, morality, renunciation, forbearness etc.

Also I must emphasize that in no religion person can guarantee an environment congenial to the development of culture of peace. I sometimes feel the organized aspect of all religions is not always favorable to peace. The organized system often encourages bigotry and this has to be abandoned in the interest of culture of peace.

The Buddha said, ‘hatred never ceases by hatred in this world; by love alone does hatred cease’. This is an eternal law. He taught us if hatred is encountered by hatred that brings in greater animosity. The logic is simple as anyone can see. It is an clear as crystal that a fire cannot be extinguished by another fire; it can be put out only by a thing which possesses the opposite property of the fire e.g. water etc. likewise hatred cannot be eradicated by hatred; it can only be eradicated through opposite nature which is ‘love’ and ‘compassion’. So the Buddha made it the basic requirement for his followers accept the following norms:

  1. Do not abuse others, though you have been abused by them.
  2. Do not be angry to others, though you have been enraged by them.
  3. Do not beat others, though you have been beaten by them.
  4. Do not find faults in others, though you have been faulted by them.

The above is placed under ‘four wholesome injunctions for monkhood (Cattvarsramanakara dharma). In the same way the Buddha teaches us in a metaphor that it will not be possible to wrap the whole earth with leather to protect one’s feet from piercing thorns, but covering one’s feet with leather made shoes it is verily possible to save the feet from foot injuries. He further tells us that one cannot conquer all the enemies. This kind of teaching cultivates the culture of peace and non-violence.

The Buddhist teachings does not expect any conflict, any violence, any way or any aggression justifiable on the basis of nationalism, self defense or any such hypothesis. Only in exceptional cases is violence justifiable and that is for the protection of others. For that, too, it needs the cultivation of deep-rooted compassion and total sense of selflessness and self-sacrifice.

Since the main and the ultimate object of Buddhism is to attain permanent and absolute peace i.e. “nirvana”, every Buddhist teachings contributes to peace culture: not only on the attainment of nirvana, but even at the stage of practicing its path one cultivates the culture of tolerance, non-violence and service for others. The entire Buddhist teaching is summed up in “three trainings” viz; the training concerning morality, the training concerning meditation and the training concerning wisdom.

The training concerning morality (adhisilasikas) makes one refrain from all kinds of physical and vocal violence which strain the physical and vocal bodies to remain in peace and harmony.

The training concerning meditation (adhisamadhisiksa) makes the mind free from all thoughts of violence and the mind remains in peace and tranquility.

The training concerning wisdom (adhiprajnasiksa) tarins the mind to perceive the reality as it is and inculcates the mind to eradicate every sort of defilement so that the cause of all violence and disharmony is completely eradicated leading to the stream of consciousness flowing toward attainment of the peace-nirvana.

Buddhism has paved the way to implement the concept of peace throughout the past and has envisioned the minds of countless men and women who achieved peace in their lives. This contribution to the minds of the individuals is reflected in historical events. If you turn back to the time of Buddha you will find the example of the ruthless killer named Angulimala who was converted into a peace loving follower of the Buddha. At a time when sword had been the arbiter of justice many wars and conflicts which were surfacing were subsided and men found peace instead. Ashoka, the great is one of the most glaring instances of history whose life was astonishingly and dramatically transformed; from a tyrant conqueror whose lust for power was dreaded he turned to become a peaceful ruler who not only established peace in his own realm but encouraged peaceful co-existence with all neighbor states for considerable time.

Even in the contemporary world situation, there are several most tortured and exploited people who did not follow the path of violence and terrorism mainly due to the influence of Buddhism.

It is now being increasingly felt that the path shown by the Buddha should be shared by all who as humans are capable indeed to the language of peace. It is the onerous talk of all religious minded persons to come together to revitalize their own religious teachings, know each other and share in peace, the source of human values.