Đại lễ Vesak[1] kỷ niệm hành trạng của một trong những nhà sáng lập tôn giáo vĩ đại của Ấn Độ. Mặc dù có rất nhiều nhà hiền triết và những bậc thầy tôn giáo mà Ấn Độ đã ban tặng cho thế giới, từ Sankara của Advaita Vedanta đến Guru Nanak của đạo Sikh…, Đức Phật và truyền thống tâm linh của Ngài đã được đánh giá là một trong số những tôn giáo vượt thời không và kiến tạo một nền văn hóa quan trọng có khả năng thay đổi tích cực nhất của Ấn Độ.
Cuộc đời của Ngài (và những kiếp trước mô tả trong Jatakas), đã được tôn vinh khắp châu Á như một con người kiểu mẫu, vừa là bậc thầy, vừa là nhà lãnh đạo dưới hình thức cakravartin[2] hoặc Quân vương chuyển pháp luân. Phù hiệu của vị vua này, thậm chí đã được Ashoka Đại đếdùng biểu thị cho lá cờ quốc gia của đất nước Ấn Độ vĩ đại ngày nay.
Có lẽ vào dịp Đại lễ Vesak, là thời điểm thích hợp để suy ngẫm về tầm quan trọng và ý nghĩa của nó trong thời đại chúng ta, Thế kỷ 21, trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng và đang đi theo một hướng mà không ai có thể đoán trước được chắc chắn.
Một lần nữa khi cộng đồng Phật giáo toàn cầu tôn vinh cuộc đời của Đức Phật như đã từng bày tỏ suốt hơn 2500 năm qua, thì Hành tinh Trái đất đang ở một trạng thái không còn lý tưởng nữa. Căng thẳng địa chính trị đe dọa phân hóa châu Á và bao trùm thế giới trong chiến tranh. Nền kinh tế toàn cầu phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng khiến cho sự thịnh vượng trong tương lai trở thành một vấn đề không thể đoán trước được. Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, thế hệ trẻ lớn lên trong bối cảnh kỹ thuật số và văn hóa Internet 24/7 mà những các bậc phụ huynh, hướng dẫn chúng không được chuẩn bị trước.
Đây là một vấn nạn quan trọng trong các mối quan tâm lo lắng. Công nghệ, bao gồm cả sự phát triển nhanh chóng của AI chỉ trong những năm gần đây, đã và đang thay đổi cuộc sống của chúng ta và thậm chí có thể thay đổi ý nghĩa và giá trị của con người. Giữa tất cả những thay đổi nhanh chóng và những câu hỏi mang tính hiện sinh này, làm người mang một ý nghĩa gì? Liệu nguồn giải phóng và an ủi tinh thần có thực sự tồn tại, thoát khỏi mọi đau khổ và vô ích có thể Instagrammable[3] không?
Vesak là tất cả những tiết tấu cốt lõi của câu chuyện về Đức Phật: sự ra đời, thành đạo, bài pháp đầu tiên và sự nhập diệt. Ngài sinh ra là Siddhartha Gautama ở Lumbini, Nepal ngày nay, trong một gia đình quý tộc Shakyas. Là một hoàng tử tốt lành và nhân hậu, Ngài sống một cuộc sống sung túc và đầy ân sủng cho đến năm 29 tuổi, người ta kể rằng Ngài lẻn ra khỏi cung điện và chạm trán với bốn cảnh: một ông già, một người bệnh, một xác chết và sau đó là một người hành khất lang thang.
Bị chấn động sâu sắc trước thực tế của thế gian, Ngài đã rời bỏ vợ và đứa con trai sơ sinh để thực hành khổ hạnh cho đến khi suýt chết vì quá kiệt sức. Nhận ra rằng Con đường Trung đạo giữa hai thái cực buông thả quá mức và tự hành hạ bản thân là con đường dẫn đến giải thoát, Ngài ngồi dưới gốc cây Bồ đề ở Bodh Gaya, giác ngộ và đạt được cực lạc Niết bàn ở tuổi 35.
Nhờ đạt được Niết Bàn, Siddhartha Gautama đã trở thành Đức Phật. Với tư cách là vị Phật lịch sử của thế giới này, Ngài giảng dạy Pháp, bao gồm các học thuyết cốt lõi về Tứ Diệu Đế và Bát Thánh Đạo. Lần đầu tiên Ngài giảng dạy giáo lý của mình tại Varanasi, Vườn Nai, bài giảng đánh dấu lần chuyển Pháp Luân đầu tiên. Khi Ngài nhập diệt ở tuổi 80 tại Kushinagar, Ngài đã để lại một Tăng đoàn vĩ đại, một cộng đồng tôn nghiêm, đã định hình lại bối cảnh tâm linh của châu Á, từ Đông Nam Á đến Con đường Tơ lụa cho đến ngay cả Trung Quốc và phần còn lại của phương Đông, Châu Á.
Phật, Pháp và Tăng: đó là những gì chúng Phật tử gọi là tam bảo, trái tim của đạo Phật. Tại Đại lễ Vesak, Phật tử tụng ba câu kinh mà họ đã khi khắc trong tâm: Buddham saranam gacchami, dhammam saranam gacchami, sangham saranam gacchami. Mỗi câu được lặp lại ba lần, với các tuyên bố dutiyam và pattiyam được thêm vào liên tiếp. Đây là một công thức cổ xưa có từ thời Đức Phật. Khi các Phật tử niệm điều này, dù là lần đầu tiên với tư cách là những hành giả mới hay lần thứ một trăm tại Buddha Jayanti, như hàng triệu người sẽ làm vào ngày Đại lễ này, họ đang nói điều gì đó đại thể như,
“Tôi nhận ra rằng sự giàu có, quyền lực và những thú vui nhất thời không thể mang lại cho tôi sự giải thoát hiện sinh.”
“Tôi tìm kiếm sự hiểu biết về thực tại của cuộc sống và vũ trụ.”
“Tôi nhận thức rằng Tam bảo là con đường dẫn đến hạnh phúc thực sự và giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.”
Mặc dù không phải tất cả chúng ta đều quy y Đức Phật một cách nghiêm cẩn, nhưng ý tưởng từ bỏ cái tôi cũng như những thành kiến và bám víu cái tôi như trung tâm là một mục tiêu đáng đeo đuổi. Dù chúng ta nương tựa vào bất kỳ truyền thống tâm linh nào đã chọn hay vào một ý tưởng siêu việt khác, thì sâu thẳm trong trái tim mình, chúng ta đều biết rằng thế giới này về cơ bản là vô thường và bất toại nguyện. Chúng ta cụ thể hóa rất nhiều ảo tưởng và phóng chiếu. Chúng ta tranh giành nhau sự giàu có, địa vị, chức danh, ngôi nhà lớn hơn hay chiếc ô tô hào nhoáng hơn, nhưng như đại dịch COVID đã chứng minh, những khát vọng trần tục của chúng ta có thể rất mong manh, dễ vỡ và dễ dàng bị cuốn trôi nếu chúng ta không may mắn.
Ngay cả khi chúng ta đạt được điều mà chúng ta nghĩ sẽ khiến mình hạnh phúc – vị trí mà chúng ta khao khát và tranh đoạt có được, một chuyến du lịch vòng quanh thế giới, thì sự tham cầu của chúng ta sẽ tan biến sau vài tháng và sự trống rỗng mà cuối cùng tất cả nhân loại đều cảm thấy trong lòng sẽ hình thành. Ngay cả những người thân thiết nhất của chúng ta – đối tác, gia đình, bạn bè – cũng phải đối mặt với cùng một vấn đề như vậy, nhưng chúng ta lại đặt ra những kỳ vọng phi thực tế, rằng số phận của họ, công việc của họ khiến chúng ta hạnh phúc, khiến chúng ta thất vọng và tức giận khi cuối cùng họ không làm được, mọi thứ không như ý.
Điều đó thậm chí còn khó khăn hơn đối với chúng ta trong thế giới đương đại, được bao quanh bởi những hấp lực về vật chất, sự quyến rũ hào nhoáng và những kích thích trên mạng xã hội 24-7. Hơn bao giờ hết, tất cả chúng ta đều cần một nguồn nương tựa đích thực có thể che chở cho chúng ta khỏi giông bão cuộc đời. Đối với nhiều người, điều này là biểu tượng của một truyền thống đức tin. Là một Phật tử, tôi tin rằng mọi chúng sinh đều có hạt giống Phật tánh trong mình – tiềm năng thức tỉnh và giải thoát. Những người khác có thể được truyền cảm hứng từ những lời dạy của các bậc vĩ nhân hoặc nhiều câu chuyện khác.
Nhân Đại lễ Vesak, chúng ta nên tìm hiểu và thâm nhậm ý nghĩa thực sự của lễ hội này trong thời đại của mình và nương tựa vào điều gì đó thực sự lâu dài và chân thực, có giá trị bền vững và mang lại ý nghĩa đích thực cho cuộc sống của chúng ta.
Nó không nhất thiết phải là một con đường tôn giáo chính thức, mặc dù đó là con đường mà chúng ta tin tưởng sâu sắc có thể mang lại sự biến đổi nếu dấn thân một cách chân thành. Nó có thể đơn giản như sự nương tựa vào chính chúng ta – vào tiềm năng thức tỉnh của chính mình. Chúng ta nên có niềm tin vào khả năng hay tiềm năng của chính mình để được đánh thức về thực tại sâu sắc và chân thực của sự tồn tại, để tin tưởng một cách chân thành rằng tâm trí của chúng ta có thể giác ngộ về bản chất thực sự của chúng ta.
Đức Phật đã nhận ra tiềm năng này trong chính Ngài. Khi thế giới của chúng ta phải đối mặt với những thách thức trên mọi lãnh vực, hãy để lòng dũng cảm và sự cởi mở trở thành nơi nương tựa chung mà tất cả chúng ta có thể trao nhau. Chúng ta nên đón nhận cuộc đấu tranh tinh thần trong một thế giới hời hợt và chủ nghĩa vật chất, đồng thời biến cuộc đấu tranh này một nghệ thuật sống.
Nguồn (Source:): The Meaning of Vesak in Our Time
________________________
[1] “Vesak”, ngày rằm tháng 5, là ngày thiêng liêng nhất đối với hàng triệu Phật tử trên khắp thế giới. Vào ngày lễ Vesak cách đây hai thiên niên kỷ rưỡi, vào năm 623 trước Công nguyên, Đức Phật đã ra đời. Cũng chính vào ngày Vesak mà Đức Phật đã đạt được giác ngộ, và cũng chính vào ngày Vesak mà Đức Phật đã viên tịch ở tuổi tám mươi.
Đại hội đồng, bằng nghị quyết 54/115 năm 1999, đã công nhận Đại lễ Vesak trên phạm vi quốc tế để thừa nhận sự đóng góp mà Phật giáo, một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, đã thực hiện trong hơn hai thiên niên kỷ rưỡi và tiếp tục đóng góp cho sự phát triển của nhân loại. tâm linh của nhân loại. Ngày này được kỷ niệm hàng năm tại Trụ sở Liên hợp quốc và các văn phòng khác của Liên hợp quốc, với sự tham vấn của các văn phòng liên quan của Liên hợp quốc và các phái đoàn thường trực, những người cũng mong muốn được tham vấn.
[2] Chakravartin, quan niệm cổ xưa của Ấn Độ về người cai trị thế giới, bắt nguồn từ luân xa tiếng Phạn, “bánh xe” và vartin, “người quay”. Do đó, một chakravartin có thể được hiểu là một người cai trị “có bánh xe lăn khắp nơi” hoặc “chuyển động không bị cản trở”.
Các nguồn Phật giáo và Kỳ Na giáo phân biệt ba loại chakravartin thế tục: chakravala chakravartin, một vị vua cai trị cả bốn lục địa được ấn định bởi vũ trụ học Ấn Độ cổ đại (tức là một vị vua phổ quát); dvipa chakravartin, một người cai trị chỉ cai trị một trong những lục địa đó và do đó, kém quyền lực hơn lục địa đầu tiên; và pradesha chakravartin, một vị vua lãnh đạo người dân chỉ một phần của lục địa, tương đương với một vị vua địa phương. Tài liệu tham khảo đầu tiên về một vị vua thế tục đã đạt được địa vị của một chakravartin chakravala xuất hiện trong các văn bản và tượng đài từ triều đại Mauryan ca ngợi chiến công của Vua Ashoka (thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên). Các nhà triết học Phật giáo và đạo Jain thời kỳ này đã kết hợp khái niệm về vị vua phổ quát với ý tưởng về một vị vua công bằng và là người duy trì luật lệ đạo đức. Ví dụ, trong Phật giáo, chakravartin được coi là đối tác thế tục của một vị phật (“người giác ngộ”), người mà ông có chung nhiều thuộc tính.
[3] “Trong thời đại hời hợt của mạng xã hội, nơi hình ảnh lấn át thực tế, vẻ đẹp độc đáo của lễ hội khiến lễ hội trở nên có một không hai trên Instagram.”
No comments:
Post a Comment