Showing posts with label Doãn Quốc Sỹ. Show all posts
Showing posts with label Doãn Quốc Sỹ. Show all posts

Friday, October 24, 2025

Tâm Thường Định: DOÃN QUỐC SỸ – Người Mở Cửa Trái Tim Cho Cõi Người

 

Từ trái: Tâm Thường Định, nhà văn Trần Kiêm Đoàn, nhà văn Doãn Quốc Sỹ, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, nhà báo Doãn Quốc Hưng (Mùa thu, 2011 tại Tu Viện Lộc Uyển, Escondido, California).

DOÃN QUỐC SỸ – Người Mở Cửa Trái Tim Cho Cõi Người

“Mỗi chúng ta là một que diêm sống... Khi tắt đi, chút khói xanh để lại. Rồi chính chút khói xanh đó cũng tan loãng—như vết chân cát xóa.” — Doãn Quốc Sỹ, Vào Thiền (1970)

1. Kỷ niệm gặp Cụ giữa “Mở Cửa Trái Tim”

Tôi vẫn nhớ, tại khóa tu Mở Cửa Trái Tim vào tháng năm 2011, lần đầu tiên chúng tôi được diện kiến Cụ Doãn Quốc Sỹ bằng xương bằng thịt, dù đã biết đến Cụ từ lâu qua những tác phẩm bất hủ như Vào Thiền*, Con Cá Mắc Cạn, và bộ trường thiên Khu Rừng Lau… Đó cũng là dịp tôi làm quen với anh bạn Doãn Quốc Hưng, con trai út của Cụ.

Buổi trưa hôm ấy, trong không khí ấm cúng tại Tu viện Lộc Uyển (Đại Ẩn Tự, Escondido, California), chúng tôi được hân hạnh dùng cơm riêng thân mật cùng Sư Ông Làng Mai – Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Sư cô Chân Không, Cụ Doãn Quốc Sỹ, nhà văn Trần Kiêm Đoàn, nhạc sĩ Nghiêm Phú Phát, nhà báo Doãn Quốc Hưng, và những thân hữu trong khóa tu. Một ngày mùa thu êm đềm, gió nhẹ, trăng sáng, tiếng chuông chùa ngân nga:

Trăng mai vằng vặc sáng
Tiếng chuông chùa nhẹ buông
Thiền hành đôi gót nhẹ
Khóm trúc lay miệng cười... (Chuông Chùa Lộc Uyển, Tâm Thường Định, 2011)

Trong buổi thiền hành của khoá tu “Mở Cửa Trái Tim” vào sáng sớm hôm ấy, Sư Ông Làng Mai bước nhẹ trên con đường phủ sương, đại chúng im lặng – hơn năm trăm người Việt cùng thở, cùng đi. Một sự im lặng trầm hùng mở ra cánh cửa chánh niệm.  Hôm đó, cũng có Cụ Doãn Quốc Sỹ và chúng tôi biết rằng Cụ Doãn cũng là người thân quen với Sư Ông Làng Mai từ nhiều thập niên trước.

Nhiều năm sau, khi đọc lại những truyện của Cụ viết được con cháu lưu giữ tại trang nhà Doãn Quốc Sỹ, https://doanquocsy.com, tôi lại thấy thấp thoáng dáng Sư Ông trong Cụ, và dáng Cụ trong Sư Ông — hai bậc hiền triết đã sống trọn đời bằng chánh niệm, chữ nghĩa, và lòng từ bi vô biên. Ở Cụ Doãn, chữ nghĩa không chỉ để nói hay để viết, mà để sống và dạy cho con cháu và tha nhân. Văn chương của Cụ không chỉ là nghệ thuật, mà là thiền hành giữa chợ đời, là “vào thiền” trong từng hơi thở giữa những biến động của lịch sử và khổ đau nhân thế.

2. Vạn Hạnh – Nơi thiền và văn hòa quyện

Có lần đến thăm Cụ, tôi được biết Cụ từng bị giam ở Phú Yên rồi trại Gia Trung (cách Pleiku 25km), cùng nhiều văn nghệ sĩ như Trần Dạ Từ, Thanh Thương Hoàng, Nguyễn Viết Khánh, Nguyễn Sỹ Tế… Anh Doãn Quốc Hưng còn kể những giai thoại đi thăm Bố và Thầy Tuệ Sỹ trong thời gian ấy tại trại giam A30 tại Phú Yên. 

Ôi, những nhân tài văn học Việt Nam, như những vì sao sáng, cũng nổi trôi theo vận nước. Khi nói đến Cụ Doãn Quốc Sỹ, không thể không nhắc đến Trường Đại học Vạn Hạnh hay Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức Nha Trang, nơi kết tinh của thiền và văn chương: Minh Châu, Nhất Hạnh, Tuệ Sỹ, Trí Hải, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Phước An, Doãn Quốc Sỹ… Tất cả như những vì tinh tú của bầu trời tư tưởng Việt Nam. Và cho đến bây giờ, những bậc Thầy của tôi đang làm việc với như Hoà thượng Thích Nguyên Siêu, Hoà thượng Thích Quảng Ba cũng đã từng học với Cụ tại Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức Nha Trang, nổi tiếng Việt Nam một thời. Nơi ấy, giới luật không chỉ để tiếp nhận và để hành trì, văn chương không chỉ để học, mà để tỉnh thức. Nơi đó, chữ nghĩa là pháp thoại, và triết học là thiền hành. Chính nơi đó là cảo thơm Việt Nam và chiếc nôi tri thức, nhân bản, và khai minh của nhiều thế hệ Tăng cũng như tục từ đó cho đến bây giờ. 

3. Mỹ học thiền trong văn chương Doãn Quốc Sỹ

Như Perrault của nước Pháp, Andersen của Đan Mạch, Toni Morrison của Mỹ, hay Tolstoy của Nga, Cụ Doãn Quốc Sỹ cũng dựng nên những cõi mộng giữa đời thực, nhưng với hơi thở Việt Nam và tâm từ bi Phật giáo. Cụ viết về cái đẹp không để ru ngủ, mà để đánh thức; viết về nỗi đau không để oán than, mà để chuyển hóa; kể chuyện cổ tích không dành cho trẻ con, mà cho những người đã từng khổ đau nhưng vẫn giữ lòng hiền thiện.

Nếu Perrault và Andersen thần thoại hóa đời thường để gieo mầm đức hạnh, Tolstoy đạo đức hóa tự sự bằng tiếng nói lương tri, hay Toni Morrison với những tác phẩm đầy lòng trắc ẩn khám phá các chủ đề về dân chủ, công lý xã hội và trải nghiệm của con người, thì Cụ Doãn Quốc Sỹ thiền hóa hiện thực Việt Nam: biến khổ đau thành chất liệu khai minh, biến bi kịch thành cơ hội tự chứng.

Ảnh hưởng của Cụ, vì vậy, vượt ra ngoài phạm vi văn giới — chạm vào giáo dục đạo đức và đời sống tỉnh thức.

4. Công án đời thường

Ở tuổi gần trăm, Cụ vẫn “hành thiền” trong từng bước đi, từng giấc ngủ, từng nụ cười. Con gái của Cụ, chị Doãn Tư Liên, kể rằng:

– “Bố, giờ bố còn ngồi thiền như thuở trong tù không?”
– “Không con. Lúc nào bố chẳng hành thiền. Đâu cần phải ngồi đâu.”

Câu trả lời ấy chính là một công án đời thường – lời của một thiền sư nhập thế giữa trần gian mà không hề vướng bụi.

Tôi nhớ Sư Ông Thích Nhất Hạnh từng dạy: Hãy đi như một dòng sông… để đến bờ bến giác.

Sau buổi cơm trưa hôm ấy, tôi còn nhớ Sư Ông Làng Mai đã tiễn Cụ ra ngoài, cả hai bước chậm rãi và thanh thoát, như hai dòng sông trong Đạo và trong Đời đang cùng chảy về biển lớn. Nay Cụ Doãn Quốc Sỹ đã an nhiên tự tại, thong dong, thanh thản ra đi—chảy trọn dòng sông ấy – một dòng sông thiền, chảy từ trang viết đến hơi thở cuối cùng của phút lâm chung. 

Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức.

Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.

5. Tiếng cười và lời đưa tiễn

Lần cuối đến thăm Cụ, dù thính giác đã yếu dần đi nhưng Cụ vẫn minh mẫn, đọc thuộc lòng bài thơ trào phúng của nhạc phụ mình – tức nhà thơ Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu):

Tú rửng mỡ cưỡi xe bình bịch
Máy nổ vang xình xịch chạy như bay
Bóp còi toe như quát tháo giương vây
Khách đường cái vội giãn ngay tăm tắp
Tú nhớ thuở còn đi xe đạp
Một thứ xe chậm chạp hiền lành
Trên đường đông dù chuông bấm liên thanh
Khách đủng đỉnh làm thinh không chịu tránh
Ồ ngán nhỉ ở trên cõi tục
Con người ta bất độc bất anh hùng.

Tiếng cười ấy vừa hóm hỉnh, vừa triết lý – như một bài pháp thiền về vô thường và ngã chấp. Cụ cười hiền như thể căn dặn lại đời: hãy sống nhẹ, sống thật, sống chậm và sống tỉnh thức.

Cụ Doãn Quốc Sỹ đã ra đi nhẹ nhàng, thanh thản, nhưng trái tim Cụ vẫn mở rộng như bầu trời mùa thu ở Tu Viện Lộc Uyển. Văn chương của Cụ là con đường Mở Cửa Trái Tim – nối liền quá khứ và tương lai, huyền thoại và hiện thực – đưa người đọc trở về với hơi thở, bản tâm hiền thiện, thanh tịnh và bao dung.

Chúng ta – những người còn rong chơi nơi cõi Ta Bà – có thể chưa đạt đến vô dư Niết Bàn, nhưng qua nụ cười sảng khoái của Cụ, qua chữ Cụ viết, qua hơi thở Cụ để lại, ta học được cách “vào thiền — thở đi thôi — để hiểu và thương.” Thôi thì xin tiễn Cụ với 3 câu lụt bát:

Người đi như áng mây trôi,
Thong dong cánh hạc qua đồi tử sinh.
Khói kinh phảng phất anh linh

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
Cúi đầu tưởng niệm Cụ Doãn Quốc Sỹ – Nhà văn, nhà hiền triết, và người kể chuyện đạo và đời với lòng từ bi vô biên.

Xin thành kính chia buồn cùng anh Hưng, chị Liên, chị Khánh và đại gia đình họ Doãn.

Tâm Thường Định – Bạch Xuân Phẻ
Sacramento, California – Tháng 10, 2025

*Có lẽ Cụ Doãn Quốc Sỹ viết Vào Thiền không để dạy người, mà để chia sẻ hơi thở tự do, khuyến khích tuổi trẻ chập chững bước 'vào thiền'. Một tác phẩm ngắn gọn, tinh tế và nền tảng – tựa như Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.


Saturday, May 30, 2020

Nói chuyện với nhà văn DOÃN QUỐC SỸ

Nói chuyện với nhà văn DOÃN QUỐC SỸ

Nhà văn Doãn Quốc Sỹ là một trong những nhà văn quan trọng của dòng văn học miền Nam 1954-1975, với những đóng góp to tát vào nền văn học nước nhà.

Tên thật là Doãn Quốc Sỹ. Sinh ngày 17/02/1923 tại xã Hạ Yên Quyết, Hà Đông, ngoại thành Hà Nội. Thuở thanh niên, ông đã từng tham gia Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Sau đó, khi phong trào này để lộ bộ mặt Cộng sản, ông đã rời bỏ kháng chiến. Năm 1954, khi hiệp định Geneva chia đôi đất nước, ông theo làn sóng di cư đem vợ con vào miền Nam sinh sống.

Năm 1946, ông lập gia đình với bà Hồ Thị Thảo, ái nữ của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu.

Doãn Quốc Sỹ có hai sự nghiệp song song: nhà văn và nhà giáo. Ông vẫn thường nói rằng: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Trong cương vị nhà giáo, ông đã dạy tại các trường Trung học Công lập Nguyễn Khuyến (Nam Định, 1951-1952); Chu Văn An (Hà Nội); Hồ Ngọc Cẩn (Sài Gòn, 1961-1962); Trường Sư phạm Sài Gòn, Đại học Văn khoa Sài Gòn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn. Từng là hiệu trưởng trường Trung học Công lập Hà Tiên (1960-1961). Từng đi tu nghiệp về Sư phạm tại Hoa Kỳ (1966-1968).

Với cương vị nhà văn, ông là đồng sáng lập viên nhà xuất bản Sáng Tạo, và tạp chí văn nghệ cùng tên vào năm 1956, cùng với Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh, Ngọc Dũng, mà ông vẫn gọi là “Thất Tinh.” Ông cũng có những bài viết được đăng trên những tạp chí văn nghệ như Sáng Tạo, Văn Nghệ, Bách Khoa, Văn Học, Nghệ Thuật…

Sau ngày Miền Nam thất thủ 30/04/1975, vào tháng Tư năm 1976, Doãn Quốc Sỹ cùng nhiều nhà văn miền Nam khác bị bắt đi tù cải tạo. Ông bị giam tại trại Gia Trung, cách thành phố Pleiku 25 km, cùng với nhiều văn nghệ sĩ như Trần Dạ Từ, Thanh Thương Hoàng, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Nguyễn Sỹ Tế, Chóe…

Đến năm 1980, ông được thả tự do nhờ sự can thiệp của nhiều tổ chức quốc tế. Trong thời gian chờ đợi được con gái là Doãn Thị Ngọc Thanh bảo lãnh đi Úc, ông tiếp tục viết thêm nhiều tác phẩm nữa, trong đó có quyển Đi được ký với bút hiệu Hồ Khanh. Ông đã gửi tác phẩm này sang Pháp để xuất bản tại hải ngoại. Cũng vì lý do này, ông đã bị bắt lần thứ hai vào tháng Năm năm 1984, chỉ trước ngày đi Úc vài tháng, cùng với một số văn nghệ sĩ khác như Duy Trác, Dương Hùng Cường, Hoàng Hải Thủy, Lý Thụy Ý… Ông bị kết án mười năm tù. Ông mãn hạn tù lần thứ hai vào tháng 11 năm 1991.

Năm 1995, ông được con trai là Doãn Quốc Thái bảo lãnh di dân sang Houton, Hoa Kỳ. Hiện nay đang sống tại Quận Cam, California.
*
“Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa. Quân địch không thể giẫm lên khu rừng này mà chiếm được đất. Quân địch cũng không thể san phẳng khu rừng, vì nó bắt rễ tự trong tim óc của con người, chặt đi, lập tức với cảnh máu đào xương trắng, nó lại mọc lên xanh tốt hơn bao giờ hết.”
– Doãn Quốc Sỹ (Trích “Khu Rừng Lau”)

*
Ngày 26/01/2020 (mồng Hai Tết Canh Tý) vừa qua là sinh nhật thứ 97 của ông. Nhân dịp này Việt Báo hân hạnh được ông tiếp chuyện trong một buổi chuyện trò thân mật mà nội dung xin ghi lại dưới đây:

Việt Báo (VB): Sang tuổi 97 mà ông vẫn còn khỏe mạnh, an lạc. Ông có thể nói về bí quyết sống thọ, giữ cho thân an, tâm lạc?
Doãn Quốc Sỹ (DQS): Bí quyết của tôi thật đơn giản: nếp sống thiền. Tức là giữ cho tâm thanh thản, xem mọi chuyện nhẹ nhàng. Mỗi ngày tôi làm vườn, cắt vụn cây lá cành đã bỏ để tái sinh ngay trong vườn. Làm vậy để tập thể dục, mà cũng với niềm vui tinh thần là đang “dọn dẹp nội tâm”. Tôi giúp cho cây lá tái sinh, và tin rằng sau này mình cũng sẽ tái sinh an lành.

VB: Xin ông nói một chút về trường thiên tiểu thuyết Khu Rừng Lau.
DQS: Có nhiều khi đọc lại Khu Rừng Lau, tôi cũng không hiểu tại sao mình có thể hoàn tất được bộ tiểu thuyết ngàn trang này. Tôi nhớ là vào thời đó, có khi tôi ngồi viết như người lên đồng, viết giống như có ông bà tổ tiên nhập vào vậy. Tôi nghĩ rằng tôi chỉ được Trời cho năng khiếu sử dụng ngòi bút của mình. Còn lại, tôi viết như theo lời nhắn nhủ siêu hình của tổ tiên, viết theo hồn thiêng dân tộc để phục vụ tổ quốc.

VB: Với gần một thế kỷ đời người, trải qua những biến động lịch sử khốc liệt nhất của đất nước, dân tộc, trong tư cách một nhà văn, một chứng nhân lịch sử, ông có lời nhắn nhủ gì cho những thế hệ mai sau?
DQS: Hãy luôn luôn yêu nước, thương nòi. Hãy luôn luôn nuôi dưỡng tình thương yêu. Có được căn bản này, thế hệ trẻ sẽ luôn hành động vững chãi theo luân lý truyền thống của dân tộc.

VB: Sau cuộc di cư lịch sử vĩ đại 1954, tại miền Nam ông cùng một số văn nghệ sĩ khác thành lập “nhóm Sáng Tạo.” Và, mặc dù tờ Sáng Tạo có mặt chỉ trên 30 số báo, nhưng nhờ tính khai phóng và những vận động làm mới văn chương đã khiến ảnh hưởng của nhóm lan tỏa sâu rộng đến sinh hoạt văn chương sau đó trong một thời gian rất dài. Theo ông thì nhờ đâu “nhóm” có được cơ duyên như thế? Nhờ vào tài năng xuất sắc của những thành viên trong nhóm? Nhờ vào thời điểm khi người viết cũng như người đọc khao khát một chân trời ngôn ngữ và một tư duy mới về lý tưởng tự do? Hay là nhờ vào các hậu thuẫn chính trị tốt đẹp đã giúp đẩy văn học đến một biên cương mới?
DQS: Theo tôi, miền Nam là vùng đất mới, cho nên là cơ hội thuận tiện cho những ngòi bút trẻ từ miền Bắc di cư vào có dịp thi thố tài năng. Hãy tưởng tượng ở miền Bắc thời đó, đã có rất nhiều cây đại thụ trong văn học nghệ thuật. Thế hệ văn nghệ sĩ trẻ như chúng tôi chắc chắn là sẽ ngần ngại vươn lên hơn do ảnh hưởng “cây cao bóng cả” của thế hệ đi trước. Thành công của nhóm còn là do tinh thần yêu nước, yêu nghiệp cầm bút, và khát vọng đem lại một luồng gió mới cho nền văn học miền Nam.

VB: Trong tác phẩm thuộc dạng khảo luận Người Việt Đáng Yêu, xuất bản năm 1965, ông có viết một câu như sau: “Họ [người phương Bắc] hủy diệt văn hóa chúng tôi bằng cách san thành bình địa những đền đài, miếu mạo, phá hết bia lăng, thu đốt sách vở… Duy có một cái họ không phá nổi: Năng lực sáng tạo của chúng tôi.” Sau hơn nửa thế kỷ, theo ông thì điều này vẫn còn đúng không? Và giá trị câu nói của ông vẫn không hề suy giảm?
DQS: Khả năng dung hóa với nhiều nền văn hóa khác nhau vẫn là một đặc điểm của dân tộc Việt Nam. Nằm ở ngã tư giao lưu của nhiều nền văn hóa, dân tộc Việt không thể nào ngăn chặn sự xâm nhập của nhiều nền văn hóa. Tuy nhiên, người Việt khi đưa hai tay ra đón nhận, chúng ta còn biết chọn lọc những điều hay, loại bỏ những điều không phù hợp của những nền văn hóa ngoại nhập. Nhờ vậy mà nền văn hóa Việt đã không bị diệt vong, mà còn trở nên nhiều màu sắc hơn.

VB: Trong mắt nhìn của ông thì người Việt Nam là một dân tộc có nhiều tính ưu việt, thể hiện qua văn chương bình dân cũng như bác học. Nhưng tại sao trong suốt một thời gian thật dài, nhiều trăm năm, từ Trung đại Phong kiến cho đến Cận đại Thực dân và ngày nay Hiện đại Cộng sản, dân tộc Việt Nam vẫn không biết tự do dân chủ thực sự là gì? Làm sao giải thích được hiện trạng đó? Và quan trọng hơn, hành trạng của chúng ta ở thế hệ ngày nay và mai sau phải như thế nào hầu đem lại những thay đổi mới cho dân tộc?
DQS: Trong vở kịch Trái Cây Đau Khổ tôi đã từng viết, tôi có ý nói rằng đau khổ không nên chỉ nhìn từ góc cạnh tiêu cực. Đau khổ là lò tôi luyện tốt nhất cho đức tính nhẫn, cho sự trưởng thành. Tôi để câu trả lời cho thế hệ trẻ, và tin là thế hệ trẻ sáng suốt hơn tôi trong việc tìm câu trả lời. Lời khuyên cho thế hệ trẻ, tôi đã nhắn nhủ trong phần đầu tiên.

VB: Xin cảm ơn nhà văn Doãn Quốc Sỹ, Việt Báo xin chúc ông một sinh nhật tươi vui, đầm ấm bên cạnh những người thân yêu.

Nguồn: Việt Báo
Ảnh 1: Nhà văn Doãn Quốc Sỹ.
Ảnh 2: Vài tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Doãn Quốc Sỹ.