Thursday, March 17, 2022

Dr. K Sri Dhammananda | Tâm Quảng Nhuận lược dịch: Phật giáo và vấn đề tự do tư tưởng | Buddhism And The Free Thinkers

 

Phật giáo và vấn đề tự do tư tưởng

Tâm Quảng Nhuận lược dịch | theo Purify Mind

Nhiều người được mệnh danh là nhà tư tưởng tự do, thực ra không phải là những nhà tư tưởng “tự do”, mà họ lười suy nghĩ. Chỉ vì không muốn suy nghĩ nghiêm túc và suy ngẫm ý nghĩa về sự tồn tại của mình nên nói rằng mình là những người suy nghĩ tự do. Không có chỗ cho những nhà tư tưởng kiểu này trong Phật giáo. Phật giáo khuyến khích mọi người suy nghĩ tự do nhưng sâu sắc và không thiên lệch.

Ngay sau khi đạt được giác ngộ, khi có nhiều đệ tử, Đức Phật nói: “Này các Tỳ kheo, bây giờ bạn và tôi thoát khỏi trói buộc của con người và thần thánh”. Ở đây, chúng ta có thể tìm thấy manh mối thế nào là một nhà tự do tư tưởng.

Thông thường, mọi người cố gắng giới thiệu các khái niệm, niềm tin và thực hành tôn giáo của họ bằng cách áp đặt các ràng buộc thần thánh và các thông điệp thần thánh hấp dẫn. Đức Phật đã bác bỏ những quan niệm như vậy. Ngài nói rằng mình và các Môn đệ không bị trói buộc bởi thần thánh và con người.

Những ràng buộc này là gì? Chúng là các loại niềm tin, sự thèm muốn, chấp trước, khái niệm, truyền thống và phong tục được tạo ra nhân danh tôn giáo bằng cách khai thác sự sợ hãi và nghi ngờ. Những người bị nô lệ bởi những niềm tin và thực hành như vậy đang ở trong tình trạng trói buộc. Theo cách nào thì Đức Phật là một nhà tự do tư tưởng hay làm thế nào chúng ta có thể tuyên bố rằng Phật giáo là một tôn giáo của giải thoát và trí huệ?

Suy nghĩ tự do và hiểu sự thật

Đức Phật đã ban toàn quyền tự do cho con người để tự do suy nghĩ mà không phụ thuộc vào quan niệm của thần, phật hay bất cứ vị thầy nào để nghiệm ra chân lý. Đó là tự do. Theo một số nhà tư tưởng phương Tây, Phật giáo được gọi là “tôn giáo của tự do và lý trí”. Tuy nhiên, tự do phải được hướng dẫn bởi lý trí. Nếu không, mọi người có thể lạm dụng quyền tự do đó. Ví dụ, nếu một chính phủ trao hoàn toàn quyền tự do cho người dân sống hoặc làm bất cứ điều gì theo ý muốn tự do của họ, tôi chắc chắn rằng trong vòng hai mươi bốn giờ, họ có thể hủy hoại cả đất nước.

Đó là nguy cơ của việc cho tự do mà không phát triển lý trí trước hết trong tâm trí con người. Chúng ta phải tuân theo nguyên tắc tương tự trong việc thực hành tôn giáo. Mặc dù một số người nói rằng ý chí tự do tồn tại để con người phát huy, chúng ta biết rằng nếu không được đào tạo và hướng dẫn thích hợp, việc sử dụng ý chí tự do đó có thể dẫn đến những chuỗi hậu quả tai hại. Một đứa trẻ có thể có ý chí tự do, nhưng nó phải được dạy không chơi với dây điện.

Đức Phật nhấn mạnh rằng tự do không phải là một món quà từ bất kỳ nguồn bên ngoài nào. Nó là bản chất đối với chúng ta. Đối nhân xử thế, tính cách con người, tâm hồn nhân văn là những đặc điểm được phát triển qua nhiều thời kỳ của cuộc đời. Cho dù chúng ta có văn hóa hay vô văn hóa, văn minh hay không văn minh, tôn giáo hay phi tôn giáo, xấu xa hay tử tế, tùy thuộc vào thói quen tinh thần của chúng ta phát triển từ đời này sang đời khác trong quá khứ. Những đặc điểm này không phải do bất kỳ ai đưa ra.

Tôn giáo trở nên quan trọng để hướng dẫn và định hướng lối suy nghĩ của con người bằng cách đưa ra những hướng dẫn thích hợp. Mục đích của tôn giáo là giúp con người rèn luyện tâm trí để phát triển sự hiểu biết và hành động một cách có trách nhiệm về mặt đạo đức. Anh ta làm điều tốt vì anh ta “biết” đó là điều đúng đắn phải làm, không phải vì muốn tránh bị trừng phạt hoặc nhận phần thưởng. Tôn giáo là một trợ giúp cho sự phát triển của cá nhân.

Tại sao chúng ta không nên phụ thuộc vào bất kỳ ai? Nếu chúng ta cố gắng ngăn chặn suy nghĩ xấu xa, ích kỷ của mình vì sợ rằng có ai đó sẽ trừng phạt chúng ta, chúng ta sẽ không bao giờ hướng tâm trí của mình để trau dồi sự hiểu biết, lòng tốt, lòng từ bi. Đôi khi, mọi người cũng làm những việc tốt hoặc cung cấp một số điều tốt cho người khác với mong đợi một phần thưởng lớn. Nếu đây là động lực, họ sẽ không phát triển sự đồng cảm, thấu hiểu ý nghĩa thực sự của những từ này. Họ trở nên ích kỷ, tránh những hành động xấu xa để thoát khỏi sự trừng phạt hoặc làm điều tốt để nhận được phần thưởng. Đây là sự ích kỷ.

Đức Phật không chủ trương điều này. Nếu cả thiên đường và địa ngục đều bị đóng cửa, thì có bao nhiêu người còn tôn giáo? Tuy nhiên, Phật giáo khuyến khích hành vi đạo đức mà không đề cập đến thiên đường hay địa ngục. Đây là sự độc đáo trong lời dạy của Đức Phật.

Tôn giáo của tự do và nguyên lý

Mục đích chính của tôn giáo không phải là để đảm bảo thoát khỏi sự trừng phạt hoặc đạt được phần thưởng mà là để giúp một người trở nên hoàn thiện và chấm dứt đau khổ về thể chất và tinh thần cũng như không bị bất mãn.

Đức Phật cũng muốn nuôi dưỡng con người theo những quy tắc, kỷ luật, tư cách đạo đức và luân lý nhất định. Điều này phải đạt được mà không cần dùng đến những cám dỗ từ những lời hứa của thiên đàng hoặc sợ hãi trước những lời đe dọa của lửa địa ngục. Đó là lý do tại sao tôn giáo này được mô tả như một tôn giáo của tự do và lý trí. Đức Phật khuyến khích chúng ta học hỏi với một tâm hồn cởi mở để khám phá và tìm hiểu thế giới. Chúng ta không thể chấp nhận điều gì ngay lập tức chỉ dựa trên đức tin. Đức Phật nói, “Đừng chấp nhận bất cứ điều gì chỉ qua đức tin vì nó sẽ làm cho bạn khó hiểu sự thật, bởi vì đức tin đó có thể khiến bạn trở thành một tín đồ mù quáng”:.

Loại niềm tin mù quáng này có thể dẫn đến sự cuồng tín tôn giáo. Mọi người phản ứng theo cảm xúc với các nhà chức trách tôn giáo của họ hơn là quyết định một cách hợp lý xem điều gì đó là đúng hay sai bởi vì họ chưa phát triển kiến ​​thức phân tích trong tâm trí để hiểu tại sao nên tuân thủ các thực hành đạo đức nhất định và tại sao nên tránh xa một số thực hành trái đạo đức nhất định.

Ví dụ, khi một cậu bé chưa phát triển hết sự hiểu biết, cha hoặc mẹ sẽ đe dọa cậu. Nếu cậu ta rất tinh quái, họ thậm chí có thể đánh cậu và cảnh cáo không được phạm lỗi. Vì nỗi sợ hãi đó, đứa trẻ có thể ngừng làm những việc nghịch ngợm nhưng lại không được giúp đỡ để nhận ra tại sao nó sai và lỗi ở đâu.

Điều đó chỉ tạo ra nỗi sợ bị trừng phạt. Một lần nữa, khi họ yêu cầu một đứa trẻ làm điều gì đó và nếu nó từ chối, thì cha mẹ sẽ mua chuộc nó với lời hứa thưởng. Đứa trẻ có thể làm điều đó, nhưng một lần nữa mà không hiểu tại sao. Nó sẽ rất dễ trở lại với lối suy nghĩ hoặc hành động sai lầm mà không hiểu. Tương tự như vậy, chúng ta không nên giới thiệu tôn giáo thông qua khen thưởng và trừng phạt, mà không cho phép mọi người hiểu biết đúng đắn.

Nếu chúng ta cố gắng giới thiệu tôn giáo thông qua hình phạt và phần thưởng, mọi người sẽ không hiểu giá trị thực sự và mục đích chính của tôn giáo. Đó là lý do tại sao trong Phật giáo không có sự đe dọa trừng phạt tôn giáo. Bổn phận của một tôn giáo là hướng dẫn, giáo dục và soi sáng cho mọi người.

Trừng phạt là bổn phận của luật pháp đất nước. Tôn giáo không nên đảm nhận vai trò của luật pháp để trừng phạt con người. Nếu không họ sẽ sợ hãi mà không hiểu. Đây là bản chất của lời dạy của Đức Phật và tại sao chúng ta coi Ngài như một nhà tự do tư tưởng.

Tự do Tôn giáo

Vào thời Đức Phật, có một nhóm thanh niên không thể hiểu được cách tự do lựa chọn tôn giáo vì vào thời điểm đó, có hơn sáu mươi hai nhóm tôn giáo ở Ấn Độ. Vì vậy, họ đến gần Đức Phật và nói với Ngài về vấn đề này. Họ nói rằng họ không biết làm thế nào để chọn một tôn giáo thích hợp. Đức Phật không nói rằng Phật giáo là tôn giáo chân chính duy nhất và tất cả các tôn giáo khác đều sai. Sau đó, Ngài đưa ra những hướng dẫn nhất định để những người trẻ này tự do suy nghĩ mà không phụ thuộc vào quyền hạn của các giáo viên hay các nhà lãnh đạo tôn giáo. Lời khuyên này là một khía cạnh quan trọng trong giáo lý của Đức Phật.

Giới trí thức trên khắp thế giới đều đánh giá cao thái độ của Đức Phật vì những lời khuyên giải thoát mà Đức Phật đã đưa ra để mọi người tự do suy nghĩ. Đức Phật không tuyên bố rằng ngài là vị thầy tôn giáo thực sự duy nhất và nếu một người đến chiêm bái và cầu nguyện với ngài, sẽ được cứu, tội lỗi của người ta sẽ được tha thứ, người ta sẽ được lên thiên đàng hoặc cõi niết bàn sau khi chết. Ngài cũng không bao giờ đề nghị rằng chúng ta nên thiếu tôn trọng các tôn giáo khác. Đức Phật đã nói, “hãy tôn trọng những người đáng được tôn trọng”.

Một số người tin rằng nếu họ thờ phượng hoặc tôn trọng một bậc thầy của tôn giáo khác, là phạm tội. Điều này là do có một số nhà tôn giáo cảnh báo rằng nếu tín đồ của họ bước vào một nơi thờ phượng khác, hoặc đọc một số sách tôn giáo khác hoặc nếu họ nghe một bài nói chuyện về tôn giáo khác, họ sẽ phạm tội và sẽ bị trừng phạt trong địa ngục. Họ muốn chứng tỏ rằng họ bị dị ứng với các tôn giáo khác. Điều này tạo ra sự sợ hãi và khiến mọi người không biết gì. Phật giáo không khuyến khích thái độ không khoan dung này. Một lần nữa, Đức Phật nói, “Hãy chấp nhận sự thật bất cứ khi nào nó có sẵn. Hãy ủng hộ mọi người không phân biệt tôn giáo của họ”.

Việc bịt mắt đánh lừa người vô tội là sai. Bằng cách tạo ra sự phân biệt đối xử, họ tuyên truyền những ý tưởng rất không lành mạnh nhân danh tôn giáo. Do đó, nhiều người đã coi tôn giáo là một mối phiền toái. Thiện chí, đoàn kết, hòa hợp và tương quan giữa nhân loại bị hủy hoại do thái độ thù nghịch như vậy. Đôi khi, các thành viên trong cùng một gia đình được chia thành các nhóm khác nhau do ảnh hưởng của thái độ tôn giáo như vậy.

Các tín đồ Phật giáo chưa bao giờ được khuyến khích áp dụng những thái độ thù địch như vậy để truyền bá Phật giáo trong suốt 2.500 năm qua. Đó là lý do tại sao các Phật tử không tổ chức các phương pháp có vấn đề để chuyển đổi – những người theo tôn giáo khác thành Phật giáo. Các Phật tử không nghĩ rằng việc cải đạo người khác là rất quan trọng, vì nghĩ rằng những người theo tôn giáo khác là mang tội.

Chúng ta phải chấp nhận những bổn phận và nghĩa vụ được dạy trong tôn giáo không phải là luật mà là một sự lựa chọn tự do. Chúng ta phải hành động theo niềm tin của chính mình và theo cách sống của chúng ta. Chúng ta không được chấp nhận một cách mù quáng các luật tôn giáo đã được soạn sẵn do các nhà chức trách tôn giáo đưa ra. Không nên chấp nhận tôn giáo vì sợ hãi mà với tâm hồn rộng mở, biết tận dụng cuộc sống để phục vụ tha nhân và hiểu được ý nghĩa của sự tồn tại.

Ngày nay, trên khắp thế giới, mọi người đang đấu tranh để tuyên truyền niềm tin tôn giáo của riêng họ. Họ đang chiến đấu, nuôi dưỡng lòng ghen tị và tạo ra sự thù hận đối với các tôn giáo hiện có khác. Có những người đã thực hành tôn giáo của họ trong hơn hai hoặc ba nghìn năm như một phần của di sản văn hóa hoặc lối sống của họ. Di sản phong phú, tâm lý học, triết học phong phú, cuộc sống đáng kính và vô hại, và đạo đức đã giúp họ có một cuộc sống cao quý.

Các tín đồ Phật giáo tin rằng dù mọi người có tôn giáo khác nhau hay họ tuyên bố không theo tôn giáo nào, nếu họ là những người tốt, có văn hóa và nếu họ không làm hại người khác và nếu họ có sự hòa nhã, họ được coi là đáng kính theo quan điểm của Phật giáo. .

Vấn đề lớn nhất mà chúng ta đang phải đối mặt là chúng ta có quá nhiều phong tục tập quán được người đi trước du nhập vào theo cách nghĩ của họ lúc bấy giờ. Họ có quan điểm riêng của họ. Trước đây, khoa học kỹ thuật và tri thức thế gian về cuộc sống và thế giới, vũ trụ rất kém. Bị thúc đẩy bởi sự sợ hãi và thiếu hiểu biết, họ bắt đầu các loại nghi thức và nghi lễ khác nhau.

Về sau những tập tục này đã trở thành truyền thống. Những truyền thống này sau đó đã được chính thức hóa thành nhiều nền văn hóa khác nhau. Là Phật tử, chúng ta có thể chấp nhận những thực hành này như một phần của các nền văn hóa khác nhau của chúng ta.

Nhưng chúng ta không được cảm thấy mình bị ràng buộc phải chấp nhận và thực hành tất cả những truyền thống này. Chúng ta tôn trọng văn hóa và truyền thống nhưng đồng thời phải cố gắng tìm hiểu xem chúng có ý nghĩa hay không và liệu chúng có tốt cho chúng ta cũng như cho người khác hay không. Nếu chúng tốt cho cả hai bên, thì chúng ta phải chấp nhận chúng. Nếu không, chúng ta nên loại bỏ chúng và áp dụng những cách mới phù hợp với lối sống hiện đại của chúng ta.

Cách Chọn Tôn Giáo

Khi chọn một tôn giáo, chúng ta phải tránh những tin đồn thất thiệt. Mọi người đến và kể cho chúng ta nghe đủ loại câu chuyện hấp dẫn về các năng lực siêu tự nhiên khác nhau của các bậc thầy, đạo sư, thầy giáo, các thực hành tôn giáo, các vị thần và nữ thần của họ. Họ phóng đại và làm đẹp những sự việc hoặc câu chuyện và đến nói với chúng ta rằng hãy chấp nhận niềm tin của họ. Lời khuyên của Đức Phật là không chấp nhận những gì người khác nói mà không cân nhắc kỹ lưỡng. Chúng ta có một bộ óc con người để suy nghĩ nhưng vì những điểm yếu của chúng ta nên chúng ta không cho bộ óc đó suy nghĩ thiên lệch.

Đức Phật khuyên chúng ta không nên chấp nhặt bất cứ điều gì nếu không cân nhắc mọi lý lẽ một cách vô tư. Nếu chúng ta không làm vậy, sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ biết rằng những gì chúng ta chấp nhận một cách vội vàng là sai.

Người ta không được lệ thuộc vào bất kỳ cuốn thánh điển nào mà không nghiên cứu nó một cách đúng đắn. Một số người nói rằng thánh điển của họ là đúng và những người khác là sai. Họ cũng nói rằng đó là một thông điệp thần thánh, được ghi lại bởi cơ quan tôn giáo và chúng ta nên chấp nhận nó mà không cần thắc mắc. Lời khuyên của Đức Phật là không nên chấp nhận bất cứ điều gì được ghi trong thánh điển mà không xem xét kỹ lưỡng. Bạn có thể tìm thấy một vị thầy tôn giáo khác đã thốt ra những lời như vậy không?

Theo quan niệm của Phật giáo, người ta có thể ghi bất cứ thứ gì vào sách của mình và sau này được giới thiệu là thánh điển với những thông điệp thần thánh. Mọi người chấp nhận những điều này mà không có bất kỳ câu hỏi. Các nhà chức trách tôn giáo sử dụng quyền lực của họ để kiểm soát con người như thể họ là những đứa trẻ nhỏ. Họ có sẵn các khái niệm tôn giáo của họ. Vì vậy, họ giao những khái niệm của họ để mọi người chấp nhận và tin tưởng. Vì vậy, mọi người không có cơ hội sử dụng lý trí hoặc lý trí thông thường của mình để hiểu sự việc một cách đúng đắn.

Lời khuyên tiếp theo của Đức Phật là đừng chấp nhận bất cứ điều gì chỉ qua suy luận suông. Mặc dù chúng ta khuyên mọi người không nên chấp nhận bất cứ điều gì mà không có lý luận, nhưng Đức Phật nói rằng chúng ta không được sử dụng lý luận đơn thuần. Lý luận của chúng ta là rất hạn chế. Ngay cả trẻ nhỏ cũng có thể suy luận theo cách suy nghĩ của chúng. Chúng ta có thể suy luận ra một số điều trong khả năng tư duy của mình. Khi chúng ta so sánh lý luận của chúng ta với lý luận của những nhà tư tưởng hay nhà khoa học vĩ đại, thì trong con mắt của những người trí thức cao đó, lý luận của chúng ta không chính xác.

Khi chúng ta so sánh lý luận của những người trí thức đó với cách lý luận của những vị thầy tôn giáo khai sáng, chúng ta có thể hiểu rằng lý luận của những người trí thức cũng không hoàn hảo.

Đó là lý do tại sao Đức Phật nói, hãy chấp nhận sự thật trong khả năng của bạn nhưng đừng tuyên bố nó là sự thật tuyệt đối ngay lập tức. Cho phép tâm trí của bạn suy luận mọi thứ. Cho phép nó phát triển, phát triển. Đừng đóng cửa tâm trí của bạn ngay lập tức. Những gì bạn đã chấp nhận sau này có thể thay đổi theo kinh nghiệm và sự trưởng thành cũng như hiểu biết đúng đắn.

Lời khuyên tiếp theo là đừng chấp nhận bất cứ điều gì thông qua lập luận logic. Lập luận phụ thuộc vào khả năng, kiến ​​thức và kỹ năng và một thái độ tài năng nhưng không dựa trên sự thật và thực tế. Lập luận có thể khơi dậy cảm xúc và chủ nghĩa vị kỷ.

Ba Bản Chất

Mục đích chính của tôn giáo là tập trung nhiều hơn vào cách trau dồi lối sống con người cao quý, hành vi đạo đức, kỷ luật, để duy trì hòa bình, hạnh phúc và niềm tin trong tâm trí, và thúc đẩy sự giải phóng khỏi sợ hãi, lo lắng, giận dữ, hận thù và si mê hơn là dành nhiều thời gian hơn cho việc thờ cúng, cầu nguyện và thực hiện một số nghi thức, nghi lễ.

Con người có ba đặc điểm. Đó là: bản chất động vậtbản chất con người và bản chất thần thánh hoặc siêu phàm. Tôn giáo là quan trọng để chế ngự hoặc để kiểm soát bản chất thú vật trong con người. Chúng ta không thể đạt được điều này nếu chỉ thờ phượng. Nếu con người sống chỉ để kiếm ăn, tìm kiếm sự bảo vệ và sinh sản, thì không có gì khác biệt giữa động vật và con người.

Tuy nhiên, con người khác với động vật ở chỗ anh ta có thể được dạy để phát triển một trí tuệ siêu việt. Tôn giáo là một yếu tố mạnh mẽ giúp anh ta trong nhiệm vụ này.

Có một đặc tính phi thường trong tâm trí con người được gọi là Pháp.

Pháp dựa trên những phẩm chất nhân đạo của chúng ta. Là con người, chúng ta phải trau dồi đạo đức xấu hổ và kiêng sợ đạo đức. Nó là gì? Kiêng sợ những điều xấu xa, gian ác, độc ác, nguy hiểm phải phạm vào, đó gọi là sự kiêng sợ về mặt đạo đức. Mặt khác, là con người, chúng ta nghĩ rằng chúng ta làm một số điều xấu, trái đạo đức là điều đáng xấu hổ. Đó gọi là sự xấu hổ về mặt đạo đức. Để duy trì phẩm giá con người, để đánh giá cao trí thông minh của con người, chúng ta phải phát triển sự xấu hổ về mặt đạo đức và sự kiêng sợ về mặt đạo đức.

Chúng ta có rất nhiều tôn giáo trên thế giới và rất nhiều nơi thờ tự. Ít nhất ở phương Đông, các nhà thờ, nhà thờ Hồi giáo, đền thờ và nơi thờ tự đều đông đúc. Họ nói, tôn giáo đang tiến triển tốt. Ở đâu cũng thấy người ta cầu nguyện, cúng bái và đốt nhang đèn, giấy tờ nhưng có bao nhiêu người trong số những người thờ phượng đó giữ được sự xấu hổ và sợ hãi đạo đức trong họ? Nếu không có những đức tính tự nhiên, đáng ngưỡng mộ này, thì liệu có tôn giáo đích thực không? Nhiều người trong số những người này tuyên bố tôn giáo của họ một cách rầm rộ thực sự thậm chí còn thiếu phẩm chất nhân đạo, chứ chưa nói đến lòng sùng đạo tôn giáo.

Tầm quan trọng của nguyên tắc Tôn giáo

Tôn giáo có thể phát triển phẩm chất nhân đạo theo nhiều cách. Những phẩm chất này là gì? Chúng ta phải có hiểu biết để duy trì phẩm giá con người và cư xử như một con người. Chúng ta phải học cách sống mà không làm phiền hoặc làm hại người khác, điều quan trọng hơn nhiều đức tính khác. Trau dồi thiện chí và sự hiểu biết. Dù có cầu nguyện hay không, chúng ta cũng phải trau dồi tính nhẫn nại, khoan dung, từ bi và chân thành.

Ngày nay có bao nhiêu con người trên thế giới này thực sự có lòng trung thực trong họ? Một tôn giáo thực sự có thể trau dồi những phẩm chất này. Khoa học, công nghệ hay năng lượng hạt nhân có thể thay đổi toàn bộ thế giới nhưng năng lượng như vậy cũng không thể thay đổi tâm trí con người. Ai có thể thay đổi nó? Chúng ta biết rằng ngay cả một vị thần cũng khó thay đổi ý định của chúng ta. Không một ngoại lực nào khác có thể làm được điều đó. Chúng ta phải thay đổi suy nghĩ của chính mình. Theo Đức Phật, nếu có ai trên đời này có thể thay đổi tâm trí, thì đó chính là bản thân họ, không ai khác.

Chúng ta có thể được cung cấp ý tưởng về cách làm điều đó. Chúng ta có thể được cho biết làm thế nào để rèn luyện tâm trí. Chúng ta phải trau dồi tâm trí thông qua sự kiên định và lòng quyết tâm. Đó là lý do tại sao kiến ​​thức là quan trọng. Bằng cách tuân theo các kỷ luật tôn giáo, nhiều thay đổi diễn ra trong tâm trí vì sự tốt đẹp hơn của chúng ta. Trước hết, các nguyên tắc tôn giáo rất quan trọng cho dù chúng được rao giảng ở đâu. Cho dù đó là Phật giáo, Thiên chúa giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo không có sự khác biệt.

Nếu mọi người có thể trau dồi những đức tính tốt, mọi người sẽ có thể hưởng thiên đàng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào. Thiên đường không được dành riêng cho hoặc độc quyền bởi một nhóm tôn giáo cụ thể. Nó nên được mở cho tất cả những người có phẩm chất tốt.

Phật giáo quan niệm thiên đường (Niết Bàn) là nơi một người được hạnh phúc, thịnh vượng, may mắn và thỏa mãn trong một thời gian dài. Theo một cách nào đó, chúng ta có thể nói rằng những thú vui trên trời chỉ đơn giản là một phần mở rộng của những thú vui mà chúng ta tìm kiếm trên đất. Nhưng sự phát triển tâm linh hoặc một trạng thái tinh thần siêu phàm quan trọng hơn những thú vui trần tục.

Chúng ta không nên đợi cho đến khi những đức tính thiêng liêng từ trời xuống để thanh tẩy chúng ta. Chúng ta phải nuôi dưỡng chúng bằng cách diệt trừ bất kỳ bản chất động vật nào chúng ta có trong chúng ta. Bằng cách phát triển bản chất con người của chúng ta, chúng ta có được bản chất thần thánh hoặc trạng thái siêu phàm. Nó là một sự phát triển dần dần. Thiên tính có nghĩa là dẫn đầu một cuộc sống cao quý, trong sáng. Hành vi bình thường của con người là không chắc chắn và không thể đoán trước được và rất khó để tin tưởng vào một con người khác. Hầu như hàng ngày, chúng ta cảm thấy sợ hãi, nghi ngờ, căng thẳng hơn vì con người, hơn là động vật, ác quỷ hoặc ma.

Tôn giáo là điều quan trọng để trau dồi những phẩm chất đó chống lại những thái độ không đáng tin cậy và ích kỷ của con người. Điều gì tạo nên bản chất cao siêu? Đức Phật dạy rằng có bốn trạng thái tâm chúng ta phải phát triển: Metta, Karuna, Mudita, Upekkha. Bốn phẩm chất này phải có để đạt được thành tựu cao nhất đó trong tâm trí. Nó chỉ đơn giản có nghĩa là chúng ta phải trau dồi thiện chí và đức hạnh mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào đối với bất kỳ ai hay bất kỳ thứ gì.

Đạo Phật dạy Metta (thiện lương). Cơ đốc giáo dạy về tình yêu. Đạo Hồi dạy tình anh em. Ấn Độ giáo dạy về tính hợp nhất trong mỗi con người. Nhiều người có những phẩm chất này nhưng họ chỉ dành chúng cho đồng loại của họ, những người thuộc phe, nhóm của họ, có thể nói như vậy. Họ mở rộng thiện chí, tình bạn và tình anh em đối với cộng đồng của họ hoặc đối với những người theo tôn giáo của họ, nhưng không đối với những người khác.

Đó không phải là cách Đức Phật dạy chúng ta để mở rộng thiện chí và lòng từ bi. Ngài nói rằng chúng ta phải thể hiện thiện chí, sự hòa hợp và cảm thông đối với mọi sinh vật mà không có bất kỳ sự phân biệt nào và không chỉ đối với những người thân thiết với chúng ta. Trên thực tế, Đức Phật nói rằng chúng ta phải tha thiết phát triển một trái tim tràn đầy tình yêu thương – như thế một người mẹ dành cho đứa con duy nhất của mình đối với mọi thứ hiện hữu.

Sự cần thiết phải có đức tin tôn giáo

Nhiều người tự nhận mình là những người có tư tưởng tự do vì họ không muốn chọn một tôn giáo. Họ chỉ đơn giản là từ chối có ý kiến ​​về những vấn đề quan trọng như sự tồn tại của họ và thậm chí tự hào về nó. Đây không phải là một trạng thái lành mạnh. Tất nhiên, mỗi người có quyền tự do lựa chọn tôn giáo của riêng mình theo niềm tin của mình.

Để làm được điều này, phải tìm thời gian để nghiên cứu và tìm hiểu. Tuy nhiên, không nên lên án bất kỳ tôn giáo cụ thể nào chỉ vì ta không thể hiểu hoặc đồng ý với nó. Cũng không nên ở lại mãi mãi mà không có một tôn giáo. Thay vào đó nên tìm ra một tôn giáo phù hợp cho bản thân vì có những tôn giáo hợp lý và thực tiễn trên thế giới này, được những người thông minh chấp nhận. Một người không có tôn giáo được ví như một con thuyền nhỏ bị cô lập giữa bão biển.

Sự giải thích về mục đích sống và sự cứu rỗi tùy thuộc vào tôn giáo. Bằng cách thực hành một tôn giáo hợp lý, người ta có thể rèn luyện bản thân để sống như một người có văn hóa và cuối cùng có thể đạt được mục đích của cuộc sống. Sự giàu có, kiến ​​thức học vấn, tên tuổi, quyền lực và những thứ tô điểm khác không thể mang lại cho anh ta sự an tâm và hạnh phúc. Một người không có tôn giáo sẽ cảm thấy mình thiếu một thứ gì đó, đặc biệt là trong giai đoạn cuối của cuộc đời. Tôn giáo là người bạn duy nhất có thể mang lại cho mình sự hài lòng và an ủi cho đến giây phút cuối cùng.

Nếu tất cả những người được gọi là tự do tư tưởng thực sự suy nghĩ tự do, họ phải duy trì thái độ đó trong tất cả các khía cạnh khác của cuộc sống của họ. Tại sao họ muốn thể hiện mình là những người có tư tưởng tự do chỉ đối với tôn giáo?

Một số người cảm thấy rằng nếu họ có thể sống như những người có văn hóa mà không theo bất kỳ tôn giáo nào, thì họ không cần thiết phải có một tôn giáo nào cả. Những người như vậy nên nhớ rằng chính tôn giáo đã dạy loài người sống như những người có văn hóa. Tuy nhiên tôn giáo không có nghĩa là nhãn hiệu tôn giáo đơn thuần mà là các nguyên tắc tôn giáo. Không có lối sống đúng đắn nào mà tôn giáo không ảnh hưởng. Do đó con người không được quên tôn giáo. Chỉ riêng tôn giáo có thể lật ngược xu hướng của chủ nghĩa duy vật ích kỷ và hướng dẫn con người đến mục tiêu cống hiến và phục vụ nhân loại một cách quên mình. Lợi ích của việc tôn giáo hướng dẫn thuộc về tinh thần bên trong của nhân cách con người.

Tôn giáo và văn hóa không thể tách rời nhau. Khi các thực hành và niềm tin tôn giáo thâm nhập vào tâm trí của người dân trong nhiều thế kỷ, họ quên đi tôn giáo nhưng vẫn tiếp tục thực hành những quy tắc ứng xử này như một phần văn hóa của họ.

Nghiên cứu một Tôn giáo

Người ta thường nói rằng các tôn giáo đã thất bại trong việc ngăn chặn chiến tranh. Có lẽ sẽ đúng hơn nếu nói rằng nhiều người theo đạo đã không thực hiện được các nguyên tắc tôn giáo mà họ phải tuyên xưng. Đôi khi, ngay cả những người được gọi là lãnh đạo tôn giáo đã đi đến mức khuyến khích giết người mà không cần phải biện minh cho bản thân bằng cách tuyên bố rằng họ là những cuộc Thánh chiến do thiên đường trừng phạt.

Chiến tranh là chiến tranh cho dù đó là vì lợi ích của đất nước hay dân tộc, văn hóa hay di sản, và ngôn ngữ hay tôn giáo; chiến tranh nhân danh tôn giáo là hành động nham hiểm nhất; bởi vì chính tôn giáo nên dạy chúng ta không giết người và bảo vệ sự thánh thiện của mọi sinh mạng. Người ta không nên đánh giá thành tích hay phẩm chất của một tôn giáo chỉ bằng cách xem một số thực hành và niềm tin sai lầm được những người thiếu hiểu biết áp dụng nhân danh tôn giáo. Những lời dạy ban đầu của những người thầy vĩ đại được mở rộng cho tất cả mọi người.

Thật khó để tìm thấy một thái độ duy nhất của con người mà không liên quan đến tôn giáo. Những người không tuyên bố có một tôn giáo nào trên thực tế tuân theo một cách vô thức các nguyên tắc tôn giáo nhất định được tìm thấy trong mọi tôn giáo.

Không có tôn giáo nào được đưa vào thế giới này để đánh lừa nhân loại. Những người sáng lập ra mọi tôn giáo đã tiết lộ những chân lý nhất định để hướng dẫn con người đến đích của mình. Nhưng những môn đồ của những người thầy vĩ đại đó đôi khi áp dụng nhiều phương pháp và cách giải thích có vấn đề khác nhau của riêng họ để giới thiệu Thông điệp của Bậc thầy của họ. Do đó, người ta tùy thuộc vào việc lựa chọn tôn giáo cụ thể của họ mà họ cảm thấy gần với thực tế hơn.

Tôn giáo không cản trở sự tiến bộ vật chất của con người nếu chúng ta thực sự có thể hiểu và thực hành một tôn giáo đúng đắn. Nhưng tôn giáo không khuyến khích con người chạy theo ảo ảnh của những thú vui trần tục hão huyền để tìm hạnh phúc cho mình.

Chúng ta đã thấy rằng nhiều điều ác đã được thực hiện dưới danh nghĩa tôn giáo, và thậm chí ngày nay vẫn có thể xảy ra sự cuồng tín của một loại tôn giáo giả để kích động con người phạm tội ác chống lại loài người.

Thời gian dành cho việc tín ngưỡng Tôn giáo

Một số người có thể nói rằng họ không có thời gian để cống hiến cho tôn giáo vì họ có rất nhiều cam kết xã hội và chính trị và cá nhân khác phải đáp ứng. Câu nói sau đây sẽ là câu trả lời cho những người như vậy: – “Một người gác lại tôn giáo của mình vì anh ta muốn tham gia vào xã hội cũng giống như một người cởi giày khi sắp dấn thân vào một cuộc hành trình.”

Một người tham gia sâu vào các hoạt động khác nhau của xã hội hàng ngày đến mức quên đi tôn giáo của mình là phạm sai lầm. Vì vậy, anh ta cần được hướng dẫn nhiều hơn từ tôn giáo.

Người ta không cần phải từ bỏ thế gian để thực hành tôn giáo. Chạy trốn khỏi những nghĩa vụ của cuộc sống hầu như không có ích gì trong một thế giới hiện đại, nơi mà mọi người phải làm việc để kiếm tiền nuôi mình. Chúng ta thực sự được định sẵn để làm việc, và chúng ta phải có can đảm đối mặt với nó và cố gắng thoát khỏi những vấn đề mà nó mắc phải mà không gây hại cho bất kỳ ai.

Một số người sợ hãi các tôn giáo. Những điều này nói chung là do các phương pháp nghi vấn khác nhau được một số nhà truyền giáo áp dụng trong việc truyền bá niềm tin của họ. Họ làm điều đó một cách đáng nghi vấn và hung hăng và với sự kiên trì quá mức đến mức gây ra sự phiền toái cho cộng đồng. Có một số người cho rằng vì họ và một mình họ sở hữu chân lý tuyệt đối và phương tiện cứu rỗi, họ không nên dung thứ cho quan điểm của người khác. Nhiều tội ác đã được thực hiện nhân danh những học thuyết vô căn cứ như vậy. Trên thực tế, việc đề cao của sự không khoan dung chẳng qua là vỏ bọc cho những niềm tin giáo điều không thể đáp ứng ánh sáng của những phê bình hợp lý.

Một số tôn giáo đã không đưa ra một câu trả lời xác đáng cho vấn đề “Tại sao chúng ta đau khổ trên thế giới này”. Họ khuyên chúng ta nên tin vào điều gì đó mà chúng ta không thể đồng ý. Những gì chúng ta muốn là chọn một tôn giáo mà ở đó chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời thực sự cho các vấn đề của mình. Tôn giáo không phải là một vấn đề của đức tin mù quáng.

Sự không liên kết đôi khi được truyền bá dưới lớp áo của tôn giáo. Nhiều người nghĩ rằng tôn giáo thuộc về chùa hay nhà thờ và các thầy tu chứ không phải là môn học dành cho gia đình, hay giáo dân. Đối với nhiều người, tôn giáo được coi là chỉ phù hợp với người già chứ không thích hợp với người trẻ, đối với phụ nữ chứ không phải đàn ông, với người nghèo, không phải người giàu.

Đối với họ, tôn giáo chỉ có thể được tìm thấy trong bìa một số cuốn sách ẩm mốc chứ không thể tìm thấy trong những bông hoa nở rất tươi trên cánh đồng. Những ý tưởng này là kết quả của sự cẩu thả và lười biếng của họ trong các vấn đề liên quan đến tôn giáo.

Ngày nay nhiều người nói về tự do tôn giáo; nhưng khi chúng ta khảo sát thế giới sẽ thấy rằng tự do tôn giáo thực sự không được thực hiện ở hầu hết các nơi trên thế giới.

Tự do tôn giáo thực sự không chỉ có nghĩa là mọi người phải có quyền tự do thực hành tôn giáo của mình mà họ còn phải được tự do lựa chọn bất kỳ tôn giáo nào để theo niềm tin của họ. Rất tiếc là ít người có quyền tự do này. Có nhiều vật cản khác nhau cản đường họ và các mối đe dọa từ mỗi nơi.

Trên thực tế, mọi người phải có quyền tự do lựa chọn bất kỳ tôn giáo nào nếu họ không thể đồng ý với những lời dạy của tôn giáo mà họ đã thuộc về. Những kẻ gây trở ngại cho thái độ tự do tôn giáo này thực sự cướp đi ý chí tự do của con người và do đó cản trở sự bình an nội tâm của con người.

 Tín ngưỡng và thực hành tôn giáo không được tước đoạt hoặc làm ô nhục nhân phẩm, học vấn và trí tuệ con người.

 

Source:

Buddhism And The Free Thinkers

By Dr K Sri Dhammananda

Many so-called free thinkers are actually not “free” thinkers, but they are lazy to think. Just because they do not want to think seriously and ponder about the meaning of their existence they say they are free thinkers. There is no room for these kinds of thinkers in Buddhism. Buddhism encourages people to think freely but deeply and without bias.

Immediately after gaining enlightenment, when there were many disciples, the Buddha said, “Monks, now you and I are free from human and divine bondages”. Here, we can find a clue to what a free thinker is.

Usually, people try to introduce their religious concepts and beliefs and practices by imposing divine bondages and appealing divine messages. The Buddha has rejected such concepts. He said he and his Disciples are free from divine and human bondage.

What are these bondages? They are various kinds of beliefs, cravings, attachments, concepts, traditions and customs created in the name of religion by exploiting fear and suspicion. People who are enslaved by such beliefs and practices are in bondage. In what way was the Buddha a free thinker or how can we claim that Buddhism is a religion of freedom and reason?

FREEDOM TO THINK FREELY AND TO UNDERSTAND THE TRUTH

The Buddha has given full freedom for man to think freely without depending on the concept of a god, a Buddha or any teacher to understand the truth. That is freedom. According to some western thinkers Buddhism is known as. “the religion of freedom and reason”. Freedom however must be guided by reason. Otherwise, people can abuse that freedom. For instance, if a government gives full freedom for people to live or to do anything according to their free will I am sure that within twenty four hours, they can ruin the whole country.

That is the danger of giving freedom without first developing reason in the minds of people. We must follow the same principle in practising religion. Although some people say that free will exists for man to exert, we know that without proper training and guidance the use of that free will can lead to disastrous con-sequences. A child may have free will, but it has to be taught not to play with a live electric wire.

The Buddha emphasises that freewill is not a gift from any external source. It is intrinsic to us. Human behaviour, human character, humanistic minds are characteristics which are developed over many life times. Whether we are cultured or uncultured, civilised or uncivilised, religious or irreligious, good or bad, wicked or kind, depends on our mental habits which we developed life after life in the past. These characteristics are not given by anybody.

Religion becomes important to guide and direct man’s way of thinking by giving proper guidelines. The purpose of religion is to help a human being train his mind so that he develops understanding and acts in a morally responsible way. He does good because he “knows” that is the right thing to do, not because be wants to avoid punishment or receive rewards. Religion is an aid to individual development.

Why should we not depend on anybody? If we are going to stop our evil, wicked, selfish thinking fearing that there is somebody to punish us, we will never give a chance for our mind to cultivate understanding, kindness, compassion. People also sometimes do good deeds or provide some service to others in expectation of a big reward. If this is the motivation, they will not develop sympathy, understanding accord.ing to the true meaning of these words. They become selfish avoiding evil deeds to escape punishment or do good to get rewards. This is selfishness.

The Buddha did not advocate this. If heaven and hell were both closed down, how many people would remain religious? Buddhism however encourages moral behaviour without reference to heaven or hell. This is the uniqueness in the Buddha’s teaching.

A RELIGION OF FREEDOM AND REASON

The main purpose of religion is not to ensure escape from punishment or gain a reward but to help one become perfect and to end physical and mental suffering and be free from unsatisfactoriness.

The Buddha also wanted to cultivate humanity according to certain moral and ethical codes, discipline, and character. This is to be achieved without resorting to temptations provided by promises of heaven or to fear by threats of hell fire. That is why this religion is described as a religion of freedom and reason. The Buddha encouraged us to learn with an open mind to investigate and to understand the world. We must accept nothing at once on mere faith. The Buddha says, “Do not accept anything through mere faith because it will make it difficult for you to understand the truth, because that faith can make you a blind follower.

This kind of blind faith can lead to religious fanaticism. People react emotionally to their religious authorities rather than deciding rationally whether something is true or false because they have not developed analytical knowledge in their minds to understand why they should uphold certain moral practices and why they should keep away from certain immoral practices.

For instance, when a boy can not under-stand things properly, a father or mother threaten him. If he is very mischievous, they can even beat him and warn him not to make mistakes. Because of that fear, the child may stop doing mischievous deeds but he is not helped to realise why it is wrong and where the mistake is.

That only creates fear of punishment. Again, when they ask a child to do something and if he refuses, then, the parents will bribe him with the promise of a reward. The child may do it, but again without understanding why. It will be easy for him to revert to the wrong way of thinking or action without understanding. Similarly, we should not introduce religion through reward and punishment, without allowing people to have proper understanding.

If we try to introduce religion through punishment and rewards, people will not understand the real validity and main purpose of religion. That is why in Buddhism there is no threat of religious punishment. The duty of a religion is to guide, educate and enlighten people.

Punishment is the duty of the law of the land. Religion should not undertake the role of the law to punish people. Otherwise, there will be fear but not understanding. This is the nature of the Buddha’s teaching and why we regard him as a free thinker.

RELIGIOUS FREEDOM

In the Buddha’s time, there was a group of young people who could not understand how to choose a religion freely because at that time, there were more than sixty two religious groups in India. So they approached the Buddha and told him about their problem. They said that they did not know how to select a proper religion. The Buddha did not say that Buddhism was the only true religion and that all other religions were wrong. Then he gave certain guidelines for these young people to think freely without depending on the authority of teachers or religious leaders. This advice is an important aspect of the Buddha’s doctrine.

Intellectuals all over the world appreciate the Buddha’s attitude because of the liberal advice that the Buddha gave for people to think freely. The Buddha did not claim that he is the only true religious teacher and if one came and worshipped and prayed to him, one would be saved, one’s sins would be forgiven, one would end up in heaven or nirvana after death. He also never suggested that we should disrespect other religious teachers. ü He said, “respect those who are worthy of respect”.

Some people believe that if they worship or respect another religious teacher, they commit a sin. This is because there are some religionists who warn that if their followers step into another place of worship, or read some other religious book or if they listen to another religious talk, they commit a sin and will be punished in hell. They want to show that they are allergic to other religions. This creates fear and keeps people ignorant. Buddhism does not encourage this kind of intolerant attitudes. Again, the Buddha says, “Accept the truth whenever it is available. Support everybody irrespective of their religions”.

It is wrong to blindfold and mislead innocent people. By creating discrimination they propagate very unhealthy ideas in the name of religion. Because of that, many people have come to regard religion as a nuisance. Goodwill, unity, harmony and rela-tionships amongst humanity is destroyed due to such hostile attitudes. Sometimes, members of the same family are divided into different groups through the influence of such religious attitude.

Buddhists have never been encouraged to adopt such hostile attitudes to spread Buddhism over the last 2,500 years. That is why Buddhists do not organise questionable methods to convert – the followers of other religion into Buddhism. Buddhists do not think that it is very important to convert others, by thinking that the followers of other religion are sinners.

We have to accept the duties and obligations taught in religion not as law but a free choice. We have to act according to our own conviction and according to our way of life. We must not blindly accept certain ready made religious laws given by the religious authorities. Religion should not be accepted because of fear but with an open mind to know how to make use of life to serve others and to understand the meaning of existence.

Today, all over the world, people are fighting to propagate their own religious beliefs. They are fighting, harbouring jealousy, and creating hatred towards other existing religions. There are people who had been practising their religion for more than two or three thousand years as part of their cultural heritage or way of life. The rich legacy, rich psychology, philosophy, respectable and harmless life, morals and ethics have helped them to lead a noble life.

Buddhists believe that whether people have different religious labels or even if they claim not to have any religion, if they are good, cultured people and if they do not harm others and if they have gentleness, they are considered respectable from the Buddhist point of view.

The biggest problem that we are facing is that we have so many traditions and customs introduced by our forefathers according to their way of thinking at that time. They had their own perspectives. In the past, science and technology and worldly knowledge about life and the world and the universe was very poor. Motivated by fear and ignorance they started various kinds of rites and rituals and ceremonies.

Later these practices became traditions. These traditions were then formalised into various cultures. As Buddhists, we can accept these practices as part of our different cultures.

But we must not feel we are bound to accept and practice all these traditions. We respect culture, and tradition but at the same time must try to find out whether they are of any significance or meaningful and whether they are good for us as well as for others. If they are good for both sides, then we must accept them. If not, we should feel free to discard them and adopt new ways which are relevant to our modern way of life.

HOW TO CHOOSE A RELIGION

When choosing a religion, we must avoid hearsay. People come and tell us all sorts of fascinating stories about various super-natural powers of their masters, gurus, teachers, religious practices, gods and goddesses. They exaggerate and beautify the incidents or stories and come and tell us to accept their beliefs. The Buddha’s advice is not to accept what they say without considering it carefully. We have a human mind to think but because of our weaknesses we do not give a chance for that mind to think without bias.

The Buddha advised us not to accept anything without weighing every argument impartially. If we do not, sooner or later we will come to know that what we accepted in a hurry is wrong.

One must not to depend on any holy book without studying it properly. Some people say that their holy books are true and others are wrong. They also say that it is a divine message, recorded by religious authority and we should accept it without question. The Buddha’s advice is not to accept any of those things which are recorded in the holy books without carefully consideration. Can you find another religious teacher who uttered such words?

According to the Buddhist concept people can record anything in their books and later introduce them as holy books with divine messages. People accept these things without any question. Religious authorities use their power to control human beings as if they are small children. They have their ready-made religious concepts. So they hand over their concepts for people to accept and believe. Therefore, people have no chance to use their common sense or reasoning to understand things properly.

The next advice of the Buddha is not to accept anything through mere reasoning. Although we advise people not to accept anything without reasoning, the Buddha says we must not use mere reasoning. Our reasoning is very limited. Even small children can reason according to their way of thinking. We can reason out certain things within our thinking capacity. When we compare our reasoning with that of the great thinkers or scientists, then in the eyes of those high intellectuals, our reasoning is not accurate.

When we compare the reasoning of those intellectuals with enlightened religious teachers’ way of reasoning, we can understand that the intellectuals’ reasoning is also not perfect.

That is why the Buddha says, accept the truth within your capacity but do not claim it as absolute truth at once. Allow your mind to reason things out. Allow it to grow, develop. Do not close your mind immediately. What you have accepted later can change according to experiences and maturity and proper understanding.

The next advice is not to accept anything through logical argument. Argument depends on ability, knowledge and skill and a talented attitude but not on truth and fact. Argument can arouse emotion and egoism.

THE THREE NATURES

The main purpose of religion is to concentrate more on how to cultivate a noble human way of life, moral conduct, discipline, to maintain peace, happiness and confidence in the mind, and to promote liberation from fear, worry, anger, hatred and delusion rather than devoting more time for worshipping, praying and performing some rites and rituals.

Human beings have three characteristics. They are: the animal nature, the human nature and the divine or sublime nature. Religion is important to suppress or to control the animal nature in the human. We cannot achieve this by only worshipping. If human beings also live only to eat, to seek protection and to procreate, then there is no difference between animals and humans.

However, the human being is different from the animal in that he can be taught to develop a superior mind. Religion is a powerful factor to help him in this task.

There is an extraordinary characteristic in the human mind that is called Dharma.

The Dharma is based on our humane qualities. As human beings, we have to cultivate moral shame and moral fear. What is it? Fear of evil, wicked, cruel, dangerous things to be committed, that is called moral fear. On the other hand, as human beings we think it is shameful thing for us to do some bad, immoral things. That is called moral shame. To maintain human dignity, to give due credit to human intelligence, we have to develop moral shame and moral fear.

We have so many religions in the world and so many places of worship. In the East at least, the churches, mosques, temples and places of worship are crowded. They say, religion is progressing well. Everywhere we see people, praying and worshipping and burning joss sticks and papers but how many people are there amongst those worshippers who maintain moral shame and moral fear in them? If these natural, ennobling qualities are absent, is there true religion? Many of these people who proclaim their religion so loudly actually even lack humane qualities, let alone religious piety.

THE IMPORTANCE OF RELIGIOUS PRINCIPLES

Religion can develop humane qualities in many ways. What are these qualities? We must have understanding to maintain human dignity and behave as human beings. We must learn how to live without disturbing or harming others which is more important than many other qualities. Cultivate goodwill and understanding. Whether we pray or not, we have to cultivate patience, tolerance, compassion and sincerity.

How many human beings are there in this world today who truly have honesty in them? A real religion can cultivate these qualities. Science, technology or nuclear energy can manage to change the whole world but such energy also can not change the human mind. Who can change it? We know that it is difficult even for a god to change our mind. No other external force can do that. We have to change our own minds. According to the Buddha, if there is anybody in this world who can change the mind, it is the individual himself, no one else.

We can be given ideas on how to do it. We can be told how to train the mind. We have to cultivate the mind through under-standing and determination. That is why knowledge is important. By following the religious disciplines many changes take place in the mind for our betterment. There-fore, religious principles are important no matter where they are preached. Whether it is Buddhism, Christianity, Hinduism, Islam makes no difference.

If people can cultivate good qualities, everyone should be able to enjoy heaven without any discrimination. Heaven is not reserved for or monopolised by one particular religious group. It should be open to everybody who has good qualities.

The Buddhist concept of heaven is where one is happy, prosperous, fortunate and satisfactory for a long period. In one way we can say that the pleasures of heaven are simply an extension of the pleasures we seek on earth. But spiritual development or a sublime state of mind is more important than worldly pleasures.

We should not wait until divine qualities come down from heaven to purify us. We have to cultivate them by eradicating any animal nature we have in us. By developing our human nature we gain the divine nature or sublime state. It is a gradual development. Divine nature means leading a noble, pure life. The normal human behaviour is un-certain and unpredictable and it is difficult to trust another human being. Almost everyday, we experience more fear, suspicion, tension because of human beings, rather than animals, devils or ghosts.

Religion is important to cultivate those qualities against unreliable and selfish human attitudes. What constitutes the sublime nature? The Buddha taught that there are four mental states we must develop: Metta, Karuna, Mudita, Upekkha. These four qualities must be there to gain that highest achievement in the mind. It simply means we must cultivate goodwill and virtue without any discrimination towards anybody or anything.

Buddhism teaches Metta (goodwill). Christianity teaches love. Islam teaches brotherhood. Hinduism teaches oneness in every human being. Many people have these qualities but they reserve them only for their own kind, those who belong to their club, so to speak. They extend goodwill, friendship and brotherhood towards their own community or towards the followers of their own religion, but not for others.

That is not how the Buddha taught us to extend goodwill and compassion. He said we must radiate goodwill, harmony and sympathy towards every living beings without any discrimination and not only towards those who are close to us. In fact the Buddha says we must earnestly develop a heart full of love – like that a mother feels for her only child towards everything that exists.

THE NEED TO HAVE A RELIGION

Many people claim to be free thinkers because they do not want to choose a religion. They simply refuse to have an opinion about such important matters as their existence. and are even proud of it. This is not a very healthy state of affairs. Of course, each person is at liberty to choose his own religion according to his convictions.

To do this, he must find time to study and investigate. Nevertheless he should not condemn any particular religion just because he cannot understand or agree with it. Neither should he remain forever without a religion. He should find out a suitable religion for himself since there are existing rational and practicable religions in this world, accepted by intelligent people. A man without a religion is likened to an isolated small boat in a stormy sea.

An explanation of the purpose of life and salvation depends on religion. By practising a rational religion one can train oneself to live as a cultured person and finally be able to achieve the aim of life. His wealth, academic knowledge, name, power and other embellishments cannot give him his peace of mind and happiness. A person without a religion will feel that something is lacking in him more particularly during the latter part of his life. Religion is the only friend which can give him satisfaction and consolation up to his last moment.

If all those so-called free thinkers do really think freely, they must maintain that attitude in all other aspects of their lives. Why do they want to represent themselves as free thinkers only with respect to religion?

Some people feel that if they can live as cultured people without following any religion, there is no necessity for them to possess a religion. Such people should remember that it was religion that taught mankind to live as cultured people. However religion does not mean mere religious labels but religious principles. There is no righteous way of life which religion has not influenced. Therefore man must not forget religion. Religion alone can turn the tide of selfish materialism and guide man towards the goal of selfless dedication and service to mankind. The benefits of religious instruction belong to the inner spirit of the human personality.

Religion and culture cannot be separated. When religious practices and beliefs penetrate the minds of the people for centuries they forget the religion but continue to practise these codes of behaviour as part of their culture.

MISJUDGING A RELIGION

It has often been said that religions have failed to prevent war. Perhaps it would be more correct to say that many religionists have failed to put into actual practice the religious principles which they are supposed to profess. At times even so-called religious leaders have gone to the extent of encouraging killing without the least compunction justifying themselves by claiming they are Holy wars sanctioned by heaven.

War is war whether it is for the sake of the country or nation, culture or heritage, and language or religion; war in the name of religion is the most sinister act; because religion itself should teach us not to kill and to protect the sanctity of all forms of life. One should not judge the merits or demerits of a religion simply by watching certain ill-conceived practices and beliefs adopted by ill-informed people in the name of religion. The original teachings of the great teachers are open to everybody.

lt is very hard to find a single attitude of man with which religion is not involved. Those who do not claim to have a religion do in fact unconsciously observe certain religious principles which are to be found in every religion.

No religion was introduced into this world to mislead humanity. The founders of every religion revealed certain truths to guide man towards his destination. But the followers of those great teachers sometimes adopted various questionable methods and interpretations of their own to introduce their Masters’ Messages. It is up to the people therefore to choose their particular religion which they feel is closer to reality.

Religion does not hinder the material progress of man if he really can understand and practise a proper religion. But religion does not encourage man to run after the mirage of illusory worldly pleasures to find his happiness.

We have seen already that much evil has been done in the name of religion, and that even today it is still possible for fanaticism of a pseudo-religious kind to incite man to commit grievous crimes against humanity.

DEVOTING TIME TO RELIGION

Some people might say that they have no time to devote to religion since they have so many other social and political and personal commitments to meet. The following statement would serve as an answer to such people:- “A man who puts aside his religion because he is going to join society is like one who takes off his shoes because he is about to embark on a journey.”

A man who involves himself deeply in various activities of everyday society to the extent of forgetting his religion is making a mistake. Therefore, he needs more guidance from religion.

One need not abandon the world to practise religion. Running away from the duties of life is hardly of any use in a modern world, where every man and woman has to work to earn his or her keep. We are indeed destined to work, and we must have the courage to face it and try to get rid of the problems that it entails without causing harm to anybody.

Some people are scared of religions. These are generally due to the various questionable methods adopted by certain missionaries in propagating their beliefs. They do it in such a questionable and aggressive manner and with such undue persistence as to constitute a public nuisance. There are some who hold that since they and they alone are in possession of the absolute truth and the means of salvation, they should not tolerate the views of others. Many crimes have been committed in the name of such unfounded doctrines. In reality the exaltation of intolerance is nothing but a cover for dogmatic beliefs that cannot meet the light of reasoned criticism.

Certain religions have not given a proper answer to the problem “Why we suffer in this world”. They advise us to believe in something which we cannot agree with. What we want is to choose a religion in which we can find the real answer to our problems. Religion must not be a matter of blind faith.

Irreligion is sometimes propagated under the garment of religion. Religion, many people think, belongs to the temple or the church and the priests and is not a subject for the home, or the laymen. To many, religion is considered as only suitable to the old folks but not the young, to the women folks not the men, to the poor, not the rich.

To them religion could only be found within the covers of some musty books but not among the flowers that bloom so freshly in the fields. These ideas are the results of their negligence and laziness in matters concerning religion.

Today many people talk of religious freedom; but when we survey the world over it will be seen that real religious freedom is not practised in most parts of the world.

Real religious freedom does not only mean that people should have the freedom to practise their own religion but that they should also be given the liberty to choose any religion to follow according to their own convictions. Very unfortunately few people have this freedom. There are various obstructions in their way and threats from every quarter.

In fact people must have the freedom to choose any religion if they cannot agree with the teachings of the religion to which they already belong. Those who cause obstruction to this attitude of religious freedom really rob man of his free will and thereby hinder his inner peace.

Religious beliefs and practices should not deprive or disgrace human dignity, education and human intelligence.

By Dr K Sri Dhammananda

Thursday, March 10, 2022

Tâm Thường Định: Mạnh dạn với Công nghệ kỹ thuật để Phổ biến Giáo pháp | On Being Brave: Technology and the Dissemination of the Dharma

Mạnh dạn với Công nghệ kỹ thuật để Phổ biến Giáo pháp

Tâm Thường Định dịch Việt | Theo BDG

Bài tiểu luận này được phổ biến lần đầu tiên trên ấn phẩm tháng Tư năm 2020, của bản tin “84000: Dịch Lời Đức Phật” (84000: Translating the Words of the Buddha), một sáng kiến toàn cầu phi lợi nhuận nhằm chuyển ngữ những lời dạy của Đức Phật đến tất cả mọi người.

Nhân dịp chúng ta kỷ niệm 10 năm thành lập “84000” và tha thiết tìm những phương thức có thể để truyền bá lời Đức Phật dạy đến nhiều đối tượng nhất qua các ngôn ngữ riêng của họ, vị chủ tịch sáng lập của chúng ta, Dzongsar Khyentse Rinpoche, đã chia sẻ về tiềm năng lợi lạc của công nghệ ngày nay đang phát triển và cách nó có thể — và nên — được đưa vào sử dụng hiệu quả.

Chính Đức Phật đã dạy rằng các văn bản, biểu tượng và giáo lý về đại bi (mahākaruṇā), duyên khởi (pratītyasamutpāda), và tánh không (śūnyatā) là vô cùng quý giá dưới bất kỳ hình thức nào mà chúng có thể biểu lộ.

Chỉ liên hệ hoặc kết hợp với những văn bản và giáo lý như vậy mà không cần đọc hay suy ngẫm về ý nghĩa sâu xa của chúng, mà chỉ đơn giản bằng cách đặt chúng trong một ngôi đền hoặc trong phòng của mình; hay đeo chúng, hoặc đơn giản là tôn trọng chúng bằng cách đặt lên đầu hoặc đi nhiễu quanh chúng — tất cả những điều đó được cho là tạo ra công đức lớn hơn nhiều so với việc bày tỏ lòng tôn kính đối với hàng ngàn vị phật tối thắng.

Tuy nhiên, vào thời cổ đại, những văn bản như vậy cực kỳ khó tiếp cận. Chúng ta chỉ cần nhớ lại những chuyến đi gian khổ của Vairotana và Huyền Trang đến Ấn Độ để nhận ra rằng việc tìm kiếm Giáo Pháp chân chính thậm chí có thể nguy hiểm đến tính mạng. Và ở cấp độ thực tế nhất, đã mất bao lâu để ghi chép các văn bản bằng tay trên những chiếc lá cọ mỏng manh một cách cẩn thận, chưa nói đến việc phân phát chúng theo những cách mà có thể khó khăn cho một số đối tượng kém may mắn hơn.

Với mỗi bước tiến của công nghệ, các đệ tử của Đức Phật đã tận dụng triệt để việc khắc đá, in khắc gỗ, thư pháp và in giấy để bảo tồn và chia sẻ giáo lý của Đức Phật một cách rộng rãi và hiệu quả hơn. Trên thực tế, các Phật tử là những người đi tiên phong trong việc sử dụng công nghệ này: Kinh Kim Cang Bát Nhã thế kỷ thứ chín trong bản dịch tiếng Trung Quốc được tìm thấy tại Đôn Hoàng vẫn là ví dụ sớm nhất được biết đến trên thế giới về in khối[1].

Trong thời đại ngày nay, con người hiện đại chúng ta thật may mắn khi được tiếp cận ngay với bộ sưu tập khổng lồ về trí tuệ của Đức Phật và có thể chia sẻ kho báu này theo cách chưa từng có trước đây. Thật tuyệt vời khi toàn bộ thế giới, từ những góc xa xôi và xa xôi nhất, giờ đây có thể tiếp cận những lời của Đức Phật chỉ bằng một cái bấm ngón tay!

Song, chúng tôi cảnh cáo về việc lạm dụng phương tiện truyền thông xã hội và sự lan truyền nhanh chóng của tin xấu, thông tin sai lệch, bạo lực và những lời đồn đại ác ý. Nhưng liệu chúng ta có đủ thông minh một chút bằng cách khuyến khích những phương pháp tương tự chống lại những xu hướng tiêu cực đó, nói lên sự thật của Giáo Pháp và tạo ra lợi ích bất ngờ?

Chúng ta có thể tưởng tượng một thiếu niên trên tàu điện ngầm, muốn trở nên thật ngầu và có lẽ quá nhút nhát để lấy ra một cuốn kinh quá cồng kềnh trong ba lô của mình, thay vào đó đọc về śūnyatā và lòng trắc ẩn trên điện thoại thông minh của mình? Hãy tưởng tượng bạn mệt mỏi với cuộc trò chuyện vô nghĩa, lui vào phòng tắm trong vài phút và đọc một đoạn kinh trên điện thoại của bạn. Hoặc thay vì duyệt web mua sắm trực tuyến trên máy tính của bạn, dành vài giây lật xem một bài kinh…

Nếu Đức Phật đã đúng trong việc tuyên bố giá trị và sức mạnh của những lời dạy này dưới bất kỳ hình thức nào mà chúng xuất hiện, thì không ai có thể phủ nhận công đức và trí tuệ to lớn từ những cuộc gặp gỡ hiện đại với chân lý chân chính!

Tất nhiên, vì lý do cá nhân của nghệ thuật và lòng sùng kính, chúng ta vẫn có thể sao chép một cuốn kinh bằng chữ viết đẹp và trân trọng một bản in trên điện thờ và giá sách của chúng ta. Nhưng cũng có mọi lý do để dũng cảm và hiểu biết trong việc tận dụng tối đa những cơ hội to lớn mà công nghệ hiện đại mang lại.

Thật vậy, tất cả chúng ta nên đón nhận những khả năng mới này với niềm vui và nhiệt huyết lớn nhất, vì biết rằng hiện nay chúng ta có thể bảo tồn và hoằng pháp một cách rộng rãi và hiệu quả, và chúng ta có thể phổ biến những lời Phật dạy một cách nhanh chóng hơn, dễ dàng hơn và thuận tiện hơn cho nhiều chúng sinh hơn bao giờ hết trong lịch sử nhân loại.

Dzongsar Khyentse Rinpoche, tháng 3 năm 2020

_________________________

[1] In khối là một kỹ thuật in phù điêu sử dụng vật liệu chạm khắc (thường là gỗ, vải sơn hoặc cao su) để truyền mực lên vải hoặc giấy. Khối đóng vai trò như một loại tem, với sản phẩm cuối cùng là hình ảnh phản chiếu của tác phẩm chạm khắc.


On Being Brave: Dzongsar Khyentse Rinpoche
on Technology and the Dissemination of the Dharma

Dzongsar Khyentse Rinpoche

This essay was first published in the April 2020 issue of the newsletter of 84000: Translating the Words of the Buddha, a non-profit global initiative to translate the words of the Buddha and make them available to all. It has been reproduced here with permission. Click here to subscribe to the newsletter.

As we celebrate our 10th anniversary and look forward to the ways in which we can bring the words of the Buddha to the widest possible audiences in languages they can understand, our founding chair, Dzongsar Khyentse Rinpoche, shares with us the beneficial potential of today’s continually evolving technology and how it can—and should—be put to good use.

The Buddha himself taught that texts, representations and teachings on great compassion (mahākaruṇā), dependent arising (pratītyasamutpāda), and emptiness (śūnyatā) are extremely precious in whatever form they may manifest.

Just relating or associating with such texts and teachings without even reading or contemplating their profound meaning, but simply by having them in a temple or in one’s room, wearing them, or simply respecting them by placing them on one’s head or circumambulating them—all that is said to create merit far greater than paying homage to thousands of buddhas for aeons.

And yet, in ancient times, such texts were extraordinarily difficult to access. We need only recall Vairotsana’s and Xuanzang’s arduous trips to India to realize that the search for the true Dharma could even be life-threatening. And at the most practical level, how incredibly long it took to painstakingly inscribe texts by hand on fragile palm leaves, let alone to distribute them in ways that inevitably restricted their use to the fortunate few.

With each advance in technology, needless to say, the Buddha’s disciples took full advantage of stone carving, woodblock printing, calligraphy, and paper printing to preserve and share the Buddha’s teachings more widely and effectively. In fact, Buddhists were pioneers in this use of technology: the ninth century Vajracchedika Sutra in the Chinese translation found at Dunhuang remains the world’s earliest known example of block printing.

How incredibly fortunate we modern people are in this day and age to have instant access to a vast collection of the Buddha’s wisdom and to be able to share that treasure in a way never before possible. How amazing that the entire world, from its remotest and most far-flung corners, can now access the Buddha’s words with the click of a finger!

Yes, we rightly bemoan the misuse of social media and the rapid spread of bad news, misinformation, violence, and malicious gossip. But can’t we be a bit smart by applauding these same methods as ways to counter those negative trends, to tell the truth of the Dharma and to create untold benefit?

Can’t we imagine a teenager on the subway, wanting to be cool and perhaps too shy to take out a sutra text too bulky for his backpack, instead reading about śūnyatā and compassion on his smartphone? Imagine tiring of meaningless party conversation, retiring to the bathroom for a few minutes and reading a paragraph from a sutra on your phone. Or web browsing online shopping on your computer and momentarily flipping to a sutra. . . .

If the Buddha was right in proclaiming the value and power of these teachings in whatever form they appear, then no one can deny the tremendous merit and wisdom from even such sporadic modern encounters with the genuine truth!

Of course, for personal, artistic and devotional reasons, we may still copy a sutra in beautiful handwriting and cherish a print copy on our shrine and bookshelf. But there is also every reason to be brave and savvy in taking full advantage of the enormous opportunities afforded by modern technology.

In fact, we should all embrace these new possibilities with the greatest joy and enthusiasm, knowing that we can now preserve and propagate the Dharma so widely and effectively, and that we can make the Buddha’s words available more quickly, more easily, and more conveniently to more beings than ever before in human history.

Dzongsar Khyentse Rinpoche, March 2020


Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Sự hợp nhất của người Thầy và Môn đệ | The Oneness of Mentor and Disciple

 

Sự hợp nhất của người Thầy và Môn đệ

Tâm Quảng Nhuận dịch Việt | Theo Soka Gakkai

Trong bất kỳ lĩnh vực nào, một người hỗ trợ sự phát triển của người khác có thể được coi là người Thầy (cố vấn). Trong Phật giáo, quan tâm đến hạnh phúc và sự phát triển của con người, mối quan hệ thầy trò là nền tảng. Nền tảng của mối quan hệ giữa người thầy và người đệ tử trong Phật giáo là sự cam kết chia sẻ cùng nhau làm việc vì hạnh phúc của con người, giải thoát họ khỏi đau khổ.

Kinh Pháp Hoa, kinh Phật là nền tảng của Phật giáo Nichiren, chứa đựng một mô tả ngụ ngôn sống động về thời điểm mà các đệ tử của Đức Phật thực hiện lời cam kết này. Kinh mô tả làm thế nào, trong một dịp khi Đức Phật Thích Ca đang thuyết giảng, trái đất mở ra và vô số các vị bồ tát hiển hách (những người đã lấy hành động từ bi làm nền tảng của chúng sinh) xuất hiện. Những người được gọi là “Bồ tát của Trái đất” này kiên quyết tiếp tục thực hiện những lời dạy của Đức Thích Ca Mâu Ni sau khi Ngài nhập diệt, trong thời đại khó khăn và suy đồi sắp tới. Họ nguyện sẽ nỗ lực hết mình để cứu mọi người khỏi đau khổ trong thời kỳ xã hội và tinh thần vô cùng hỗn loạn này, đối mặt với bất cứ khó khăn nào mà họ có thể gặp phải.

Ảnh tượng hoành tráng này miêu tả sự cam kết sâu sắc của người Thầy và đệ tử để làm việc vì hạnh phúc của mọi người trong suốt thời gian. Đó là một phép ẩn dụ cho sự chuyển đổi của các đệ tử của Đức Phật từ những người thụ động tiếp nhận giáo lý thành những người cam kết tiến lên trên con đường hành động từ bi mà Đức Phật đã tiên phong.

Xác định một con đường

Phật giáo là một triết học với mục đích nâng cao vị thế của con người. Tiền đề trung tâm của nó là mỗi người có khả năng bẩm sinh để chiến thắng trong bất kỳ hoàn cảnh nào mà họ thấy mình, để vượt qua bất kỳ nguồn đau khổ nào, biến nó thành nguồn tăng trưởng và sức mạnh. Đó là một triết lý được thiết lập dựa trên niềm tin rằng luôn tồn tại trong cuộc sống của mỗi chúng ta tại mỗi thời điểm là nguồn dự trữ vô tận của lòng dũng cảm, trí tuệ, lòng trắc ẩn và năng lượng sáng tạo.

Người Thầy làm cho người đệ tử nhận thức được, và tiếp tục nhắc nhở họ về tiềm năng sâu xa này, tạo cho môn đệ niềm tin vào những khả năng chưa thực hiện được của chính họ. Chính cuộc sống của người Thầy, ít nhất cũng giống như cách giảng dạy của họ, đã cung cấp nguồn cảm hứng này. Lý tưởng trừu tượng về sự giác ngộ được thể hiện hữu hình trong tính cách và hành động của người Thầy.

Cuộc sống của người Thầy tập trung vào việc trao quyền cho người khác, mô hình hóa thực tế rằng tiềm năng và hạnh phúc cao nhất của chúng ta được nhận ra thông qua hành động vì người khác. Như Daisaku Ikeda viết, “Sự giác ngộ và hạnh phúc của cả bản thân và người khác: Một người Thầy thực sự trong Phật giáo là người khiến chúng ta ghi nhớ khát vọng này.”

Con đường phát triển nhân tính của chính mình mà Phật giáo vạch ra – “con đường giác ngộ” – nằm ở sự cân bằng giữa việc có can đảm đối mặt với những thách thức của chính mình, phấn đấu trưởng thành và phát triển như một con người, trong khi hành động vì lợi ích khác. Vào một thời điểm quyết định quan trọng của sự do dự, nghĩ về tấm gương của một người Thầy có thể giúp một người thực hiện một bước can đảm và vượt qua những giới hạn của một người. Những lời dạy và tấm gương của người Thầy giúp người đệ tử tiếp tục tiến bộ trên con đường giác ngộ đầy khó khăn này — khó khăn vì xu hướng đối kháng mạnh mẽ của trái tim con người đối với sự tự mãn, sợ hãi, kiêu ngạo và lười biếng. Ikeda bình luận:

Một người Thầy giúp bạn nhận ra điểm yếu của bản thân và dũng cảm đối mặt với chúng.

Việc người Thầy là một mô hình thực hành của Phật giáo không có nghĩa là người đệ tử cố gắng bắt chước tính cách của người Thầy, mà là để học hỏi từ tấm gương của người Thầy, hoặc cách sống, và đưa cách tiếp cận đó vào cuộc sống để phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của họ, thể hiện qua những phẩm chất có tính cách độc đáo của riêng họ. Bằng cách nội tâm hóa tinh thần của người Thầy theo cách này, người môn đệ trưởng thành và phát triển vượt ra khỏi những giới hạn tự nhận thức của họ.

Mối quan hệ thầy – trò trong Phật giáo là một con đường dũng cảm khám phá bản thân, không bắt chước hay xu nịnh.

Trong Phật giáo, trách nhiệm cuối cùng thuộc về người đệ tử. Người Thầy luôn chuẩn bị sẵn sàng để giảng dạy. Người đệ tử phải lựa chọn tìm kiếm và học hỏi, đồng thời sẽ phát triển đến mức độ mà anh ta hoặc cô ta nỗ lực để tiếp thu và hành động trên cơ sở những lời dạy của người Thầy.

Một người Thầy đúng nghĩa

Tiêu chí nào phân biệt một người Thầy chân chính trong Phật giáo? Đầu tiên là định hướng hoặc động lực cơ bản của người thầy — lý tưởng mà người đó đã cống hiến cả đời. Lý tưởng cao cả nhất, cao cả nhất là cam kết giúp tất cả mọi người, không trừ ai, vượt qua đau khổ và trở nên hạnh phúc. Hơn nữa, một người thầy chân chính là người có nỗ lực tìm kiếm chân lý và phát triển trí tuệ liên tục trong suốt cuộc đời của họ. Thái độ này có thể trái ngược với thái độ của một giáo viên tin rằng họ đã học tất cả những gì họ cần biết và chỉ cần phân phối kiến ​​thức của họ theo cách một chiều. Loại giáo viên đó cũng có khả năng cố gắng nâng cao vị thế của họ bằng cách che khuất sự thật và biến kiến ​​thức thành một đặc ân, thay vì cung cấp miễn phí cho tất cả mọi người.

Mong muốn cuối cùng của một người Thầy chân chính là được các đệ tử của họ vượt qua. Quá trình phát triển và kế thừa không có kết thúc này là điều cho phép một truyền thống sống phát triển và thích ứng với những thay đổi của thời đại. Trong Kinh Pháp Hoa, nó được biểu thị bằng sự thật rằng các vị Bồ tát của Trái đất có vẻ ngoài lộng lẫy hơn cả người thầy của họ, Thích Ca Mâu Ni.

Xác định các chức năng tương ứng của người Thầy và người đệ tử, người ta có thể nói rằng vai trò của người Thầy là hướng tới một lý tưởng và phương tiện hiệu quả nhất để đạt được thành tựu của nó, trong khi người đệ tử cố gắng thực hiện lý tưởng này trên một quy mô lớn hơn những gì đã đạt được, bởi người Thầy.

Lý tưởng được chia sẻ và cuộc đấu tranh chung để hiện thực hóa nó, tạo nên sự gần gũi sâu sắc trong cuộc sống của người thầy và người đệ tử — điều mà Phật giáo mô tả là “sự hợp nhất” giữa người Thầy và người đệ tử. Đây là huyết mạch của Phật giáo và là phương tiện mà khát vọng sống một cuộc đời được thực hiện đầy đủ và cho phép người khác làm điều tương tự được truyền và phát triển từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nếu không có sự cam kết chung này và sự nỗ lực phấn đấu của đệ tử trong tinh thần giống như người Thầy, thì người Thầy sẽ đơn giản trở thành đối tượng của sự tôn kính và Phật giáo sẽ mất đi sức mạnh chuyển hóa của nó.

Tăng trưởng và liên tục

Mối liên hệ sâu sắc giữa người Thầy và đệ tử, và đặc biệt là mối quan hệ giữa ba vị chủ tịch đầu tiên của Soka Gakkai, là điều đã duy trì sự phát triển của tổ chức. Mỗi vị chủ tịch kế nhiệm đã mở rộng tầm nhìn của người tiền nhiệm trong việc chăm chỉ phát triển một phong trào có thể tiếp cận, đón nhận và trao quyền cho sự đa dạng lớn nhất của mọi người. Daisaku Ikeda (1928–), chủ tịch thứ ba của Soka Gakkai, đã hợp tác chặt chẽ với vị lãnh đạo thứ hai Josei Toda (1900–58) trong thời kỳ hậu Thế chiến thứ hai để trao quyền cho hàng triệu người Nhật Bản, giúp họ có thể cải thiện hoàn cảnh một cách tích cực. Bản thân Toda đã bị bỏ tù cùng với người cố vấn của mình, chủ tịch sáng lập Tsunesaburo Makiguchi (1871-1944), vì từ chối thỏa hiệp làm tổn hại đến tính toàn vẹn của giáo lý Phật giáo dưới áp lực của chính phủ quân phiệt Nhật Bản.

Ikeda đã mở rộng và quốc tế hóa tầm nhìn về trao quyền cho mọi người mà ông thừa hưởng từ những người Thầy này, đưa nó vượt ra ngoài phạm vi của một phong trào tôn giáo và phát triển một phong trào toàn cầu nhằm thúc đẩy hòa bình, văn hóa và giáo dục.

Ikeda đã mô tả hành động của mình là một nỗ lực để truyền cảm hứng cho những người khác với ý thức về những khả năng mà một người có thể hoàn thành trên cơ sở tinh thần người thầy-đệ tử. Ông thường xuyên bày tỏ quyết tâm mở ra những con đường mới để tham gia vào các vấn đề xã hội và toàn cầu mà các thế hệ tương lai có thể phát triển đầy đủ. Ông viết:

Mối quan hệ giữa người thầy và người đệ tử, có thể được ví như mối quan hệ giữa cây kim và sợi chỉ. Người thầy là cây kim và môn đệ là sợi chỉ. Khi may, kim sẽ dẫn đường xuyên qua vải, nhưng cuối cùng thì điều đó không cần thiết nữa, và nó là sợi chỉ tồn tại và giữ mọi thứ lại với nhau.

Cam kết vì hạnh phúc của tất cả mọi người là trọng tâm của Phật giáo. Nhưng chính nhờ mối quan hệ của người Thầy và người đệ tử, thông qua các mối quan hệ giữa đời sống với nhau, khát vọng của một người sẽ kích thích người khác, lý tưởng này đã được đưa ra khỏi lĩnh vực của lý thuyết trừu tượng và trở thành hiện thực trong cuộc sống của mọi người.

Source:

The Oneness of Mentor and Disciple

Courtesy January 2010 issue of the SGI Quarterly.

In any field, a person who aids the development of another may be regarded as a mentor. In Buddhism, which is concerned with human happiness and development, the mentor-disciple relationship is fundamental. The foundation of the relationship between mentor and disciple in Buddhism is the shared pledge to work together for the happiness of people, to free them from suffering.

The Lotus Sutra, the Buddhist scripture that is the basis of Nichiren Buddhism, contains a vivid allegorical description of the moment when the Buddha’s disciples make this pledge. The sutra describes how, during an occasion when Shakyamuni Buddha is preaching, the earth splits open and a multitude of resplendent bodhisattvas (individuals who have made compassionate action the foundation of their being) emerge. These so-called “Bodhisattvas of the Earth” are firmly resolved to continue to live out Shakyamuni’s teachings after his passing, in the difficult and corrupted age to come. They vow to exert themselves to save people from suffering in this period of great social and spiritual turmoil, facing head-on whatever hardships they may encounter.

This grand, cinematic description portrays the profundity of the shared commitment of mentor and disciple to working for people’s happiness throughout time. It is a metaphor for the transformation of the Buddha’s disciples from passive recipients of the teachings to people committed to advancing on the path of compassionate action pioneered by the Buddha.

Defining a Path

Buddhism is a philosophy with the aim of empowering people. Its central premise is that each person has the innate capacity to triumph in any circumstances in which they find themselves, to surmount any source of suffering, transforming it into a source of growth and strength. It is a philosophy established on the conviction that there exist within the lives of each of us at each moment inexhaustible reserves of courage, wisdom, compassion and creative energy.

The mentor makes the disciple aware, and continues to remind him or her, of this profound potential, giving the disciple confidence in their own unrealized possibilities. It is the mentor’s own life, at least as much as their teaching, that provides this inspiration. The abstract ideal of enlightenment is made tangible in the mentor’s character and action.

The mentor’s life is focused on the empowerment of others, modeling the fact that our own highest potential and happiness are realized through taking action for others. As Daisaku Ikeda writes, “The enlightenment and happiness of both self and others: A true mentor in Buddhism is one who enables us to remember this aspiration.”

The path of developing one’s own humanity that Buddhism maps out—the “path of enlightenment”—lies in the balance of having the courage to squarely confront one’s own challenges, striving to grow and develop as a person, while taking action for the sake of others. At a crucial moment of indecision, thinking of a mentor’s example can help one take a courageous step and break through one’s limitations. The mentor’s teachings and example help the disciple continue to progress on this difficult path of enlightenment—difficult because of the powerful countervailing tendencies of the human heart toward complacency, fear, arrogance and laziness. Ikeda comments: “A mentor helps you perceive your own weaknesses and confront them with courage.”

That the mentor is a model of Buddhist practice does not mean that the disciple strives to imitate the mentor’s persona, but rather to learn from the mentor’s example, or way of life, and to bring that approach to life to bear on their own particular circumstances, expressed through the qualities of their own unique character. It is by internalizing the mentor’s spirit in this way that the disciple grows and develops beyond their self-perceived limitations. The mentor-disciple relationship in Buddhism is a courageous path of self-discovery, not imitation or fawning.

In Buddhism, ultimate responsibility lies with the disciple. The mentor is always prepared to teach. The disciple must choose to seek and learn, and will develop to the extent that he or she works to absorb and take action on the basis of the mentor’s teachings.

A Genuine Mentor

What criteria distinguish a genuine mentor in Buddhism? First is the fundamental orientation or motivation of the teacher—the ideal to which that person has dedicated their life. The highest, most noble ideal is the commitment to enable all people, without exception, to overcome suffering and become happy. Furthermore, a genuine teacher is one whose own efforts to seek truth and develop wisdom are continual throughout their lives. This attitude could be contrasted with that of a teacher who believes they have learned all they need to know and need only dispense their knowledge in a one-sided manner. That kind of teacher is also likely to try to boost their standing by obscuring the truth and turning knowledge into a privilege, rather than making it freely available to all.

The ultimate desire of a genuine mentor is to be surpassed by their disciples. This open-ended process of growth and succession is what allows a living tradition to develop and adapt to changing times. In the Lotus Sutra, it is signified by the fact that the Bodhisattvas of the Earth are even more splendid in appearance than their mentor, Shakyamuni.

Defining the respective functions of mentor and disciple, one could say that the role of the mentor is to point toward an ideal and the most effective means of its achievement, while the disciple strives to realize this ideal on an even greater scale than has been achieved by the mentor.

The shared ideal, and the shared struggle to realize it, create a profound closeness in the lives of mentor and disciple—what Buddhism describes as the “oneness” of mentor and disciple. This is the lifeblood of Buddhism and the means by which the aspiration to live a fully realized life and enable others to do the same is transmitted and developed from one generation to the next. In the absence of this shared commitment and the effort on the disciple’s part to strive in the same spirit as the mentor, the mentor would simply become an object of veneration and Buddhism would lose its transformative power.

Growth and Continuity

The deep connection between mentor and disciple, and in particular the relationship between the Soka Gakkai’s first three presidents, is what has sustained the development of the organization. Each successive president has expanded on the vision of his predecessor in painstakingly developing a movement able to reach out to, embrace and empower the greatest diversity of people. Daisaku Ikeda (1928–), third Soka Gakkai president, worked closely with second president Josei Toda (1900–58) in the post-World War II period to empower literally millions of Japanese people, enabling them to positively transform their circumstances. Toda himself had been imprisoned alongside his mentor, founding president Tsunesaburo Makiguchi (1871–1944), for refusing to compromise the integrity of the teachings of Buddhism under pressure from Japan’s militarist government.

Ikeda has broadened and internationalized the vision of people’s empowerment he inherited from these mentors, taking it beyond the scope of a religious movement and developing a global movement for the promotion of peace, culture and education.

Ikeda has described his actions as an effort to inspire others with a sense of the possibilities that one person can accomplish on the basis of the mentor-disciple spirit. He has frequently expressed his determination to open new avenues for engagement with social and global issues that can be fully developed by future generations. “The relationship between mentor and disciple,” he writes, “can be likened to that between needle and thread. The mentor is the needle and the disciple is the thread. When sewing, the needle leads the way through the cloth, but in the end it is unnecessary, and it is the thread that remains and holds everything together.”

The commitment to the happiness of all people is at the heart of Buddhism. But it is through the relationship of mentor and disciple, through life-to-life connections, one person’s aspiration igniting another’s, that this ideal is brought out of the realm of abstract theory and made a reality in people’s lives.

Wednesday, March 9, 2022

Yushi Mukojima (2020) | Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Tinh Thần “Không Phe Cánh” | The Spirit Of “No Side”

 

Chiến dịch tranh cử Tổng thống Hoa Kỳ, vốn thu hút rất nhiều sự chú ý trên toàn thế giới, cuối cùng đã kết thúc vào ngày bầu cử tháng 11 năm ngoái. Do đại dịch COVID-19, các vấn đề của cuộc bầu cử này bao gồm một số lượng kỷ lục các lá phiếu được gửi qua đường bưu điện, sự cố kỹ thuật, sự nhầm lẫn tại một số điểm bỏ phiếu vì thiếu công nhân và các trường hợp bất thường khác. Vì những lý do này, phải mất nhiều thời gian hơn bình thường để tổng số phiếu bầu ở một số bang, vì vậy tất cả kết quả không thể được xác định trong vài ngày. Đó là một tình huống chưa từng có. Tôi biết rằng nhiều người vui mừng với kết quả cuối cùng trong khi những người khác thất vọng sâu sắc. Nhưng cho dù chúng tôi ủng hộ ứng cử viên nào, chúng tôi đều có chung một hy vọng, đó là sự thịnh vượng và hòa bình của Hoa Kỳ cũng như hạnh phúc của công dân nước này. Tất cả những người sống trên đất nước này đều mong muốn một xã hội tốt đẹp và hài hòa hơn.

Chắc chắn, nước Mỹ vẫn còn chia rẽ về nhiều vấn đề xã hội. Sự bất hòa nảy sinh về các chủ đề như xung đột tôn giáo, phân biệt đối xử khuyết tật, cuộc khủng hoảng người di cư và tị nạn cũng như các mối quan tâm về BLM và LGBTQ, trong số những chủ đề khác. Những người có giá trị khác nhau về các chủ đề này thường mâu thuẫn với nhau. Thật không may, từ những gì chúng tôi đã chứng kiến ​​trong bản tin, một thực tế đáng buồn là những người ở hai phía đối lập đôi khi lạm dụng và thậm chí sử dụng bạo lực với nhau ở nơi công cộng.

Trong thời kỳ hỗn loạn chính trị – xã hội gần đây, những người bị ảnh hưởng nặng nề nhất là trẻ em. Có quá nhiều người trẻ lo lắng và sợ hãi về sự phân biệt đối xử và bạo lực. Họ không thấy hy vọng vào tương lai của nước Mỹ. Bây giờ cuộc bầu cử đã kết thúc, chúng ta nên cố gắng tôn trọng và chấp nhận những khác biệt mà chúng ta có với những người khác. Chúng ta phải nhận ra tầm quan trọng của mỗi chúng ta trong việc nhận ra bản sắc xã hội của mỗi người và bảo vệ quyền con người. Đây là cách chúng ta có thể tạo ra một xã hội tử tế và chu đáo. Tôi tin rằng tư duy này là cách duy nhất để đoàn kết, không chia rẽ, dân tộc này.

World Cup bóng bầu dục: “Không có phe”

Năm ngoái, World Cup bóng bầu dục do Nhật Bản đăng cai tổ chức đã thành công tốt đẹp. Football phổ biến hơn nhiều ở Hoa Kỳ, nhưng bóng bầu dục có một khía cạnh vượt trội so với các môn thể thao đồng đội khác. Đó là tinh thần của “No Side.”

Bóng bầu dục rất thể chất với nhiều pha va chạm. Các cơ thể được điều hòa tốt tiếp xúc với nhau nhiều lần, và đôi khi các cầu thủ đánh nhau. Trong trò chơi, mỗi đội chơi quyết liệt cố gắng đánh bại đối thủ của mình. Nhưng một khi trò chơi kết thúc, không có bên thắng hay bên thua. Dù trận đấu diễn ra quyết liệt đến đâu, một khi trận đấu kết thúc, tất cả người chơi đều rời bỏ khái niệm đội của mình so với đội khác. Họ chỉ có lời khen cho nhau vì sự chăm chỉ của họ. Bằng cách thể hiện tinh thần này, tất cả các cầu thủ có thể tôn trọng sâu sắc thêm tình bạn của họ.

Đây là truyền thống tuyệt vời của No Side và là khía cạnh hấp dẫn nhất của bóng bầu dục.

Phật giáo: Trung đạo & Không có phe cánh

Trong Phật giáo, chúng ta có giáo lý về Con đường Trung đạo, điều này cho thấy tầm quan trọng của việc thực hành tâm đúng đắn, không bám quá chặt vào một trong hai thái cực. Tâm trí đúng đắn này có điểm chung với tinh thần “Không có phe”. Chúng ta nên thực hành tinh thần này trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Ví dụ, trong chiến dịch tranh cử tổng thống, có lẽ chúng ta đã nhiệt tình ủng hộ một đảng chính trị. Và vì sự khác biệt trong các giá trị của chúng ta, chúng ta có thể đã tranh cãi với một người ủng hộ một bên khác. Nhưng bây giờ cuộc bầu cử đã kết thúc, chúng ta nên tôn trọng và chấp nhận nhau bất kể nguyên tắc nào mà chúng ta có thể vẫn chưa chia sẻ với những người khác. Ngay cả khi khó chịu hoặc thậm chí ghét người đó, chúng ta cũng không nên chăm chăm vào sự khác biệt của mình mà hãy cố gắng để họ qua đi. Đừng gieo vào lòng thù hận. Hận thù không bao giờ có thể tạo ra bất cứ điều gì mang tính xây dựng.

Tất cả mọi người đều như nhau

Trong đạo Phật có câu “onshin byodo”, nghĩa là không phân biệt ghét và yêu. Nó có nghĩa là tất cả những người chúng ta yêu hoặc ghét phải được coi là bình đẳng mà không có ngoại lệ. Nó mô tả một trạng thái vượt ra ngoài tình yêu và sự thù hận. Nó thực sự mô tả trạng thái giác ngộ của Đức Phật và là một lời dạy quan trọng khiến chúng ta nhận ra tầm quan trọng của việc coi mọi người đều bình đẳng mà không có sự phân biệt hay thiên vị. Chúng ta có xu hướng nhìn mọi thứ theo tính hai mặt: bạn với thù, công lý với bất công, v.v. Nhưng tâm từ bi của Phật A Di Đà bao trùm tất cả mọi người một cách bình đẳng, không có ngoại lệ.

Tất nhiên, chúng ta, những người bình thường thực sự khó có thể phát triển tư duy này. Nhưng nếu chúng ta cố gắng xoa dịu lòng căm thù của mình đối với người khác và đi đến hòa hiệp với họ theo một cách nào đó, chúng ta sẽ có thể chấp nhận họ là đồng loại.

“Không có phe” dạy về “Con đường trung đạo”

Tinh thần “No Side” là con đường đúng đắn để khuyến khích toàn dân tộc cùng hòa hợp. Đây là cách chúng ta có thể vượt qua rào cản giữa các chủng tộc, tôn giáo, văn hóa và mọi thứ khác. Đây là một thế giới tràn ngập lòng tốt và sự tôn trọng và không có sự phân biệt hay thù hận.

Bất kể đảng chính trị nào nắm quyền, nếu chúng ta kiên định giữ vững tinh thần “Không bên nào” hoặc “Con đường trung đạo”, chúng ta có thể tạo ra một cộng đồng an ổn và thoải mái, trong đó mỗi chúng ta vẫn tôn trọng các giá trị của người khác và bảo vệ quyền công dân của người khác. Điều này cho chúng ta thấy cách nhận ra “thế giới thấu cảm”, nghĩa là “Khi bạn đau, tôi cũng đau; khi bạn hạnh phúc, tôi cũng hạnh phúc”. Nó đề cập đến thế giới của Nembutsu đầy lòng tốt, sự tôn trọng và lòng biết ơn.

Tinh thần “Không bên nào” này là giáo lý của Con đường Trung đạo, nền tảng của Phật giáo khuyến khích chúng ta không quá dính mắc vào hai thái cực. Nó cho chúng ta thấy rằng cách sống đối xử tôn trọng với người khác, cũng như với chính mình là quan trọng và quý giá như thế nào.

Bây giờ cuộc bầu cử đã kết thúc và bởi vì tất cả chúng ta đều mong muốn sự đoàn kết và hòa hợp cho Hoa Kỳ, tôi chân thành hy vọng rằng mỗi người chúng ta sẽ cố gắng thể hiện tinh thần “Không có phe cánh”. Đặc biệt với lời hứa với những bé thơ sợ hãi ở khắp mọi nơi rằng bằng cách thực sự tôn trọng lẫn nhau, chúng ta có thể tạo ra một xã hội tử tế và đầy hy vọng để đoàn kết, không chia rẽ, dân tộc này.

Tại Gassho (2020),

Yushi Mukojima 

THE SPIRIT OF “NO SIDE”

Yushi Mukojima | Mountain View Buddhist Temple

The U.S. Presidential campaign, which attracted a great deal of attention worldwide, finally ended on election day last November.  Due to the COVID-19 pandemic, this election’s issues included a record number of mailed-in ballots, technical problems, confusion at some polling places because of lack of workers, and other unusual circumstances.  For these reasons, it took longer than normal to total the votes in some states, so all the results could not be determined for several days.  It was an unprecedented situation.  I know that many people rejoiced in the end results while others were deeply disappointed.  But whichever candidate we supported, we each have the same hope, and that is for prosperity and peace of the U.S. and the happiness of its citizens.  All those who live in this country wish for a better and more harmonious society.

Certainly, America remains divided on many social issues.  Discord arises on topics like religious conflicts, disability discrimination, the migrant and refugee crisis, and BLM and LGBTQ concerns, among others.  Those whose values differ on these topics are often in conflict.  Unfortunately, from what we have witnessed in the news, the sad reality is that those on opposite sides sometimes abuse and even use violence against one other in public.

During this recent socio-political chaos, the ones who are being affected most painfully are the children.  There are too many young people who are anxious and fearful about discrimination and violence.  They don’t see hope in America’s future.  Now that the election is over, we should try to respect and accept the differences we have with others.  We must realize how important it is for each of us to recognize one’s social identity and to protect human rights.  This is how we can create a society that is kind and thoughtful.  I believe this mindset is the only way to unite, not divide, this nation.

Rugby World Cup:  ”No Side”

Last year, the Rugby World Cup was hosted by Japan and it was a great success.  Football is far more popular in the U.S., but rugby has one aspect superior to other team sports.  It is the spirit of “No Side.”

Rugby is very physical with lots of collision plays.  Well-conditioned bodies come in contact repeatedly, and sometimes players get into fist fights.  During the game, each team plays fiercely trying to beat its opponent.  But once the game is over, there is “No Side” of winners or losers.  No matter how fiercely the game was played, once it is finished, all players step away from the concept of their team versus another team.  They only have praise for one another for their hard work.  By showing this spirit, all the players can respectfully deepen their friendships.

This is the wonderful tradition of No Side and is the most attractive aspect of rugby.

Buddhism:  Middle Way & No Side

In Buddhism, we have the teaching of the Middle Way, which shows how important it is to practice right mind which doesn’t cling too hard to either side of extremes.  This right mind has something in common with the spirit of “No Side.”  We should practice this spirit in our daily lives.  For example, during the presidential campaign, we probably enthusiastically supported one political party.  And because of the differences in our values, we may have argued with someone who supported another party.  But now that the election is over, we should respect and accept one another regardless of any principles that we may still not share with others.  Even if we are upset with or even hate that person, we shouldn’t dwell on our differences, but just try to let them go.  Do not give into hatred.  Hatred can never create anything constructive.

Everyone is Equal

In Buddhism, there is a phrase, onshin byodo, which means not to discriminate between hate and love.  It means that all those we love or hate should be regarded as equals without exception.  It describes a state that is beyond love and hatred.  It actually describes the state of the Buddha’s enlightenment and is an important teaching that makes us realize the importance of seeing everyone as equals without discrimination or bias.  We tend to see all things in duality: friend versus enemy, or justice versus injustice, and so on.  But Amida Buddha’s compassionate mind embraces all people equally with no exceptions.

Of course, it is really hard for us, ordinary people to develop this mindset.  But if we try to calm our hatred against others and come to a compromise with them in some way, we should be able to accept them as fellow humans.

“No Side” Teaches “Middle Path”

The spirit of “No Side” is the right path to encourage the entire nation to stand together in harmony.  This is how we can get beyond the barriers between races, religions, cultures, and everything else.  This is a world filled with kindness and respect and without discrimination or hatred.

Regardless of which political party assumed power, if we firmly hold this spirit of “No Side” or the “Middle Way,” we can create a safe and comfortable community in which each of us still respects another’s values and protects another’s civil rights.  This shows us how to realize “the empathic world,” meaning “When you are in pain, I am also in pain; when you are happy, I am also happy.”  It refers to the world of Nembutsu filled with kindness, respect and gratitude.

This spirit of “No Side” is the teaching of the Middle Way, the basis of Buddhism that encourages us not to be too attached to either side of extremes.  It shows us how important and precious the way of life is that treats others, as well as ourselves, with respect.

Now that the election is over and because we all desire solidarity and harmony for the U.S., I sincerely hope that each of us will try to demonstrate the spirit of “No Side.”  Especially with its promise to fearful children everywhere that by truly respecting one another, we can create a kind and hopeful society to unite, not divide, this nation.

In Gassho,

Rev. Yushi Mukojima