Saturday, April 2, 2016

Lãnh Đạo Trong Chánh Niệm – 5 Nghệ Thuật Lãnh Đạo Cho Hàng Huynh Trưởng

Thư Pháp: Võ Việt Tuấn
Lãnh Đạo Trong Chánh Niệm –
5 Nghệ Thuật Lãnh Đạo Cho Hàng Huynh Trưởng *  
(Mindful Leadership with the Emphasis on Awareness Practice)
                                           Ni Sư Thích Nữ Thuần Tuệ
                                      & Htr. Tâm Thường Định

Đây là lời dẫn của Ni Sư Thích Nữ Thuần Tuệ và Ni Sư đã hoan hỷ cho phép in trong tập sách này.
“Bài nói chuyện này được trao đổi trong kỳ trại Huấn luyện A Dục năm 2015.
Lãnh đạo là một nghệ thuật. Lãnh đạo trong chánh niệm là sự tu tập. Lãnh đạo chính mình là sự xoay về tự thân.
Người đứng trên là người cần phải thấp mình. Hướng dẫn người lại chính là thuận theo ý người, lấy ý người làm ý mình, lấy lợi ích người làm tâm nguyện mình. Người anh chị trưởng sống cho đàn em, vì niềm vui các em. Nói thì có vẻ quá lý tưởng, nhưng chỉ cần một tấm lòng thương yêu và bao dung, một trí sáng yên tĩnh, thì mọi con đường có thể cùng chung bước dài lâu.
Quên mình thì mới có thể vì người, lại phù hợp với lời Vô ngã Phật dạy. Nên lãnh đạo cũng chính là rèn luyện chính mình, tự tu tập và cùng thành tựu.
Lãnh đạo chính mình mới là việc khó làm và cần làm. Lãnh đạo được chính mình thì tự nhiên nói ai cũng nghe, cũng thuận. Đó là đem tâm lãnh đạo.”

C
hánh niệm, tiếng Pali là Sammàsati, là nhớ nghĩ chân chính, sự tỉnh giác, biết rõ các pháp một cách trọn vẹn. Chánh niệm, một trong tám chi phần quan trọng của Bát chánh đạo, vốn được xem là con đường tám lối (lanes) đưa đến sự an vui và giải thoát, là chân lý thứ 4 (Đạo đế) trong Tứ Diệu Đế.
Theo Phật giáo Nguyên Thủy, Chánh niệm là trái tim của thiền tập và sự biết rõ những gì phát sanh ngay trong mỗi giây phút của hiện tại - bây giờ và ở đây. Hay nói một cách khác, chánh niệm là sự nhận thức, biết rõ (tuệ tri) được những gì đang có mặt, đang xảy ra. Có thể nói, chánh niệm là năng lượng của sự tự chú tâm quan sát bản thân và ý thức được những gì đang diễn ra xung quanh mình và bên trong mình. Chánh niệm đưa chúng ta quay trở lại với giây phút hiện tại. Giây phút hiện tại là điều duy nhất chúng ta đang thực sự có - Bây giờ và ở đây.
Chánh niệm, theo truyền thống Phật giáo, là điều cần thiết cho sự phát triển của chánh định, là phương tiện nhận chân và bảo trì các nguyên tắc đạo đức trong cuộc sống. Chánh niệm có nhiều chức năng, chức năng đầu tiên là sự rõ biết mọi sự việc, đối tượng đang tiếp xúc trong phút hiện tại. Chức năng thứ hai là rõ biết những sanh khởi nơi tâm mình. Dần dần, Chánh niệm đưa hành giả đến Chánh định và cuối cùng là Trí huệ viên mãn.
Còn lãnh đạo, theo định nghĩa của chúng tôi là hướng dẫn người khác trong tinh thần cho đi mà không nhận lại, giúp ích cho mình và giúp người khác không có tính phân biệt. Thông thường, một nhà lãnh đạo tốt thường có bốn điểm tương đồng như sau.
1. Tạo một tầm nhìn hướng thiện, có định hướng, có khả năng truyền cảm hứng trong chánh niệm và ảnh hưởng tốt đến tương lai.
2. Thúc đẩy và trao truyền định hướng và cảm hứng đó bằng sự thực tập chánh niệm cho mình và những người đồng hành với tầm nhìn lý tưởng.
3. Đem niềm vui, sự lợi lạc và an bình đến với mình và với người ngay trong hiện tại và cho cả tương lai.
4. Sáng suốt và khéo léo hướng dẫn, sắp xếp các việc.

Tuy nhiên khi chúng ta nói đến Lãnh đạo trong chánh niệm là nói đến sự đồng hành, đồng sự qua cách suy nghĩ, lời nói và việc lành trong sáng, hướng thiện, nhân bản, và từ tâm - làm an lạc cho mình và cho người vượt giới hạn của không gian và thời gian. Trong tinh thần trên, chúng tôi xin chia sẻ đề tài nghệ thuật LÃNH ĐẠO TRONG CHÁNH NIỆM cho người huynh trưởng trong tổ chức GĐPT nói riêng và cho các giới nói chung.
Nghệ thuật lãnh đạo này gồm có 5 điểm chính.
1. Biết lắng nghe (deep listening) và thông cảm
2. Sáng suốt trong quyết định
3. Sống hòa hợp, ít làm thương tổn người
4. Thân giáo
5. Tấm lòng người lãnh đạo
Trước tiên chữ huynh trưởng có nghĩa là người anh, người chị lớn, người đi trước, đang có trách nhiệm bảo bọc đàn em. Trách nhiệm thì cần sáng suốt và định tĩnh. Bảo bọc đàn em thì cần tình thương yêu và lòng bao dung. Hai điều này làm nên một người huynh trưởng mẫu mực. Huynh trưởng là những người đang sinh hoạt, có bổn phận, trách nhiệm và lý tưởng phục vụ cho tổ chức Áo Lam. Nói đúng hơn, huynh trưởng là những nhà lãnh đạo đang dìu dắt, hướng dẫn và un đúc đàn em cũng như có nhiệm vụ và dấn thân vào những hoạt động của đơn vị, xã hội trong nhiều lãnh vực từ văn hóa đến giáo dục. Mà lãnh đạo là cả một nghệ thuật và tấm lòng. Đây là một ví dụ điển hình.
Một lần nọ, có vị Tổng thống đang nói về khả năng lãnh đạo tại Học viện Quân đội Hoa Kỳ, ông lấy một mẫu dây trong túi ra đặt lên bàn. Ông bảo một số sinh viên lên bảng, thử đẩy sợi dây dọc cái bàn. Nhiều sinh viên khác cũng thử. Họ hầu như không tìm ra bất kỳ giải pháp nào để đẩy cụm dây ngang qua cái bàn một cách dễ dàng. Mỗi khi họ đẩy cụm dây, chúng cong lại, uốn éo và rối mù. Ai cũng thử đẩy, rồi tất cả đều lắc đầu.
Vị Tổng Thống quan sát tất cả sinh viên và cười. Ông nhấc cụm dây lên, đặt chúng trở lại đầu bàn ngay ngắn rồi lấy ngón tay trỏ kéo một đầu của các sợi dây dọc theo bàn. Tất cả các sợi dây dường như đều ngoan ngoãn hơn, đi theo ngón tay ông. Vị Tổng Thống bây giờ nhẹ nhàng bảo: “Mỗi con người như một sợi dây này. Nếu chúng ta dẫn dắt họ, họ sẽ đi theo. Nhưng nếu chúng ta cố đẩy họ, họ sẽ rối tung lên và không làm gì hết.”
Để thành tựu tư cách một người huynh trưởng, chúng ta cần có sự rèn luyện chính mình bao gồm nội điển, ngũ minh pháp và tam giáo (Thân, Khẩu, Ý Giáo). Như một người không biết đường thì không thể chỉ đường. Hay một người không có tiền, thì không thể cho ai tiền. Mình không thể cho những gì mình không có. Muốn giúp người, giúp các em nhỏ, anh chị huynh trưởng trước tiên cần thành tựu chính mình.
Ai cũng muốn mình tốt, dễ thương và giỏi. Nhưng mỗi chúng ta sẽ thường tự thấy mình rất dở và nhiều chứng tật. Một huynh trưởng mà nhiều chứng tật và thiếu khả năng, thiếu tấm lòng thì đàn em ít nghe lời. Chúng ta có khả năng giả vờ như tốt, nhưng lâu ngày rồi cũng sẽ lộ ra những chứng tật.
Con đường ngắn nhất để thành tựu chính mình là con đường thực hành chánh niệm. Tâm trí chúng ta suốt ngày rong ruổi. Chánh niệm là dẫn tâm về với thấy biết hiện tại, gọi là đưa tâm về nhà. Chánh niệm là thật sự tiếp xúc với người mình đang tiếp xúc, với công việc mình đang làm. Chánh niệm là cảm nhận bằng trái tim, không nhận thức bằng tư tưởng.
Trong nghệ thuật Lãnh đạo trong chánh niệm có những chi tiết như sau.
I. BIẾT LẮNG NGHE (DEEP LISTENING) VÀ THÔNG CẢM
1. Biết im lặng
Xin hãy nghe hết câu, không phản ứng ngay, không nhảy bổ đến kết luận. Có tâm thông cảm với nỗi khó khăn của người khác. Có câu chuyện như thế này, xin được chia sẻ. “Nói Và Nghe”. Nguyệt Am (Gettan) thường nói với đồ chúng của Sư rằng: “Khi anh có miệng để nói thì anh không có tai để nghe. Khi anh có tai nghe thì anh không có miệng nói, hãy suy nghĩ cẩn thận về điều này.”
Biết thông cảm:
Cuộc sống thường có hai mặt, mặt nổi và mặt chìm. Mặt được phơi bày và mặt bị ẩn khuất.
Thêm một ví dụ: Có lần một người hàng xóm than phiền với một cụ già:
“Nhà bên cạnh vừa mua dàn Karaoke. Trời ơi, đứa nhỏ con gái trong nhà hát thiệt là kinh khủng, nó hát ngang như cua bò, còn thằng con trai thì gào thét đinh tai nhức óc. Nghe mệt mỏi làm sao!”
Cụ già bình thản trả lời: “Tôi cũng thấy vậy, nhưng nếu mấy đứa đó mà đi ăn nhậu chơi bời, trộm cắp phá phách làng xóm thì còn đáng lo hơn. Đúng là việc chúng nó làm, chúng ta phải chịu đựng khổ sở, nhưng dù sao như vậy cũng an toàn hơn…”
Một ví dụ khác: Trưa hôm đấy, khi các bạn nhỏ khác ở nhà trẻ đã đi ngủ, chợt cậu bé John lại gần cô giáo, thì thầm:
- Thưa cô Roberts, em có thể đi uống nước được không ạ.”
(Miss Roberts, May I drink water?”)
Cô Roberts lúc ấy cũng đang thiu thiu ngủ, đột nhiên bị đánh thức, nên trả lời hơi chút khó chịu.
- Được rồi (Allowed).
- Thưa cô Roberts, em có thể đi uống nước được không ạ?
Cô lại nghe John hỏi, lần này cậu nói to hơn một chút.
- Được rồi (Allowed), giọng cô Roberts đã hơi gắt lên
Lần nữa, John lại nhắc lại câu hỏi, lần này to hơn lần trước.
- Thưa cô Roberts, em có thể đi uống nước được không ạ?
Cô Roberts bực dọc gắt lên:
- Được rồi (Allowed)
Lần này, John hét to lên:
- THƯA CÔ ROBERTS, EM CÓ THỂ ĐI UỐNG NƯỚC ĐƯỢC KHÔNG Ạ?
Nghe thấy tiếng John hét, các bạn khác bỗng giật mình thức giấc, còn cô Roberts thì thực sự nổi điên lên, quát John:
- John, có phải em muốn phá cô hay không?
Cậu bé John sợ sệt trả lời:
- Dạ không, thưa cô. Chính cô bảo em nói to (aloud) lên đấy chứ ạ!
Ở câu chuyện phía trên đã có chuyện gì xảy ra? Tại sao John lại hiểu nhầm ý của cô Roberts? Lý do ở đây rất đơn giản, khi cô giáo nói “Allowed”, có ý là cho phép, thì John đã nghe thành “Aloud”, nên cậu bé nghĩ rằng cô giáo bảo mình nói to hơn. Trường hợp này được gọi là “Homophone”, hay trong tiếng Việt của chúng ta, còn được gọi là hiện tượng đồng âm khác nghĩa. Thông thường chúng ta sẽ dựa vào văn cảnh (context) và nội dung của từ ngữ ở trước và sau (co-text) của từ đồng âm để xác định nghĩa của chúng, nhưng trong trường hợp này cậu bé chỉ được nghe duy nhất một từ nên xảy ra nhầm lẫn.
Nói chung, người lãnh đạo cần nhớ:
“Đừng muốn kiểm soát người khác”.
“Đừng muốn người khác suy nghĩ như ta.”
“Đừng trông cậy người khác làm cho ta hạnh phúc.”
Phải hiểu rằng tốt hơn là khi chúng ta đáp ứng được những nhu cầu cấp thiết nhất, thay vì xoáy vào những điểm yếu lớn nhất của nhau. Hẳn quý vị còn nhớ câu nói bất hủ của cố tổng thống Abraham Lincoln: “I destroy my enemies when I make them my friends” / “Ta không còn kẻ thù khi ta biến họ thành bạn bè của mình.”
2. Lãnh đạo là chia sẻ
Hãy lấy câu chuyện Những Cuộc Đời Được Thay Đổi này như một ví dụ: Vào năm 1921, Lewis Lawes trở thành trưởng trại tù Sing Sing, trại nổi tiếng khắc nghiệt. 20 năm sau, khi Lewis Lawes nghỉ hưu, trại trở nên nổi tiếng nhân đạo. Nhưng khi được hỏi về sự thay đổi này, ông nói tất cả đều nhờ Catherine, vợ ông.
Ai cũng ngăn cô chớ bao giờ bước chân đến đó, nhưng khi trận đấu bóng rổ đầu tiên trong tù được tổ chức, cô và 3 đứa con nhỏ cùng ngồi xuống bên những tù nhân. “Chồng tôi và tôi sẽ chăm sóc những con người này, và tôi tin chính họ sẽ chăm sóc cho tôi. Tôi không có gì để lo lắng cả.”
Cô thấy có một người mù bị kết tội giết người. Nắm bàn tay anh, cô hỏi: “Anh có biết đọc chữ nổi (Braille) không?” “Chữ nổi là gì?” Và cô dạy cho anh biết đọc. Khi phát hiện có người vừa câm vừa điếc, cô học cách sử dụng ngôn ngữ người câm để dạy cho họ. Catherine được xem như bà thánh sống ở Sing Sing trong những năm từ 1921-1937.
Bà chết vì tai nạn xe hơi. Sáng hôm sau, Lewis Lawes không đi làm, người phó thay ông. Ngày tiếp, quan tài Catherine vẫn còn tại nhà, cách nhà tù khoảng 1 cây số. Người phó trại thấy đám đông tội nhân khắc khổ, dữ dằn tụ tập trước cổng chính. Trên những gương mặt là nước mắt. Ông hiểu họ thương mến Catherine vô cùng. “Thôi được, các anh hãy đi, chỉ cần tối nay các anh về điểm danh đầy đủ.” Rồi ông mở cổng cho đoàn phạm nhân bước đi, không cần lính gác, suốt 1 cây số để đến ngỏ lòng yêu kính lần chót trước Catherine. Và tất cả tù nhân đã trở về trại tối đó, không thiếu một ai.
3. Không vội phán xét
Phán xét người khác chỉ là phóng ảnh của tâm. Nên biết dừng lại.
a) Bố mẹ cãi nhau, lấy câu chuyện này như một ví dụ. Bố mua con chim sáo, nhốt trong lồng, treo ngoài vườn. Mẹ mua con mèo, thả trong bếp. Trưa, chẳng hiểu thế nào, khi bố về, con sáo không còn trong lồng, con mèo của mẹ đang phơi nắng ngoài sân. Bố đổ cho con mèo. Mẹ bảo không phải. Lại cãi nhau. Bố bỏ đến cơ quan. Mẹ về bà ngoại, mang theo bé út đang thút thít khóc. Chiều, người hàng xóm mang con sáo bay lạc sang trả, nhà chỉ còn bà vú già.
b) Nồi Cơm Nhan Hồi là một ví dụ khác. Một lần Khổng Tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Trong đám học trò đi với Khổng Tử có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai học trò yêu của Khổng Tử. Trong thời Đông Chu, chiến tranh liên miên, các nước chư hầu loạn lạc, dân chúng phiêu bạc điêu linh, lầm than đói khổ… Thầy trò Khổng Tử cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi và cũng có nhiều ngày phải nhịn đói, nhịn khát. Tuy vậy, không một ai kêu than, thoái chí; tất cả đều quyết tâm theo thầy đến cùng. May mắn thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú từ lâu đã nghe danh Khổng Tử, nên đem biếu thầy trò một ít gạo… Khổng Tử liền phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc thổi cơm. Tại sao Khổng Tử lại giao cho Nhan Hồi - một đệ tử đạo cao đức trọng mà Khổng Tử đã đặt nhiều kỳ vọng nhất - phần việc nấu cơm? Bởi lẽ, trong hoàn cảnh đói kém, phân công cho Nhan Hồi việc bếp núc là hợp lý nhất.
Sau khi Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, Nhan Hồi thổi cơm ở nhà bếp, Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên, đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ. Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống… thấy Nhan Hồi từ từ mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay và nắm lại từng nắm nhỏ… Xong, Nhan Hồi đậy vung lại, liếc mắt nhìn chung quanh… rồi từ từ đưa cơm lên miệng…
Hành động của Nhan Hồi không lọt qua đôi mắt của vị thầy tôn kính. Khổng Tử thở dài… ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Học trò nhất của ta mà lại đi ăn vụng thầy, vụng bạn, đốn mạt như thế này ư? Chao ôi! Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là tan thành mây khói!”
Sau đó, Tử Lộ cùng các môn sinh khác mang rau về… Nhan Hồi lại luộc rau… Khổng Tử vẫn nằm im đau khổ… Một lát sau rau chín. Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên nhà trên; tất cả các môn sinh chắp tay mời Khổng Tử xơi cơm. Khổng Tử ngồi dậy và nói rằng: “Các con ơi! Chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề đường xa vạn dặm, thầy rất mừng vì trong hoàn cảnh loạn lạc, dãi nắng dầm mưa, đói khổ như thế này mà các con vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, các con vẫn yêu thương đùm bọc nhau, các con vẫn một dạ theo thầy, trải qua bao nhiêu chặng đường đói cơm, khát nước… Hôm nay, ngày đầu tiên đến đất Tề, may mắn làm sao thầy trò ta lại có được bữa cơm. Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ. Thầy nhớ đến cha mẹ thầy… cho nên thầy muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ thầy, các con bảo có nên chăng?
Trừ Nhan Hồi đứng im, còn các môn sinh đều chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nên ạ!”
Khổng Tử lại nói: “Nhưng không biết nồi cơm này có sạch hay không?”
Tất cả học trò không rõ ý Khổng Tử muốn nói gì nên ngơ ngác nhìn nhau. Lúc bấy giờ Nhan Hồi liền chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch.”
Khổng Tử hỏi: “Tại sao?”
Nhan Hồi thưa: “Khi cơm chín con mở vung ra xem thử cơm đã chín đều chưa, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Con đã nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Sau đó con liền xới lớp cơm bẩn ra, định vứt đi… nhưng lại nghĩ: Cơm thì ít, anh em lại đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô hình trung làm mất một phần ăn, anh em hẳn phải ăn ít lại. Vì thế cho nên con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy và tất cả anh em…
“Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi… bây giờ, con xin phép không ăn cơm nữa, con chỉ ăn phần rau. Và… thưa thầy, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ!”
Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật! Chao ôi! Suýt tí nữa là Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ!”
II. SÁNG SUỐT TRONG QUYẾT ĐỊNH
Người đi đầu đồng nghĩa là người gương mẫu và trí tuệ, mới có thể hướng dẫn an toàn và lợi ích. Khi tâm thường trong chánh niệm, tức ít nghĩ ngợi vẩn vơ, thực sự tiếp xúc với hoàn cảnh hiện tại thì tự thấy ra vấn đề.
Ví dụ, trong câu chuyện Đoàn người đi buôn. Đường xa nắng cháy, khát khô cả cổ không đủ nước uống. Chợt gặp đầu làng một cây đầy trái chín, vàng ươm mọng nước. Cả đoàn reo lên, trèo cây hái trái. Người trưởng đoàn ngăn lại:
- Các anh không nên ăn trái này. Nếu nó là quả lành thì ở khu dân cư này người ta đã hái sạch. Trái chín đẹp như vậy mà còn y nguyên, hẳn là không tốt.
Người trong đoàn nghe có lý, đi thẳng không hái trái.
Đoàn thương buôn khác cũng đi ngang cây này. Mọi người vội vàng hái trái ăn cho đỡ khát. Không lâu sau, cả đoàn bị trúng độc vì ăn nhằm trái độc, nằm lăn trên đất.
Người trưởng đoàn có trí tuệ, tầm nhìn xa mới có thể bảo vệ người trong đoàn được an toàn.
Đức Phật còn dạy chúng ta rằng:
1) Nêu vấn đề đúng thời. Tạo điều kiện để họ nhận ra. Người đang lúc không vui ít muốn lắng nghe (Như chuyện bà Gotami chết con, Phật không khuyên giải, ngài chỉ bảo bà đi xin hạt cải của nhà không người chết, và để tự bà thấy ra lẽ thật.)
2) Chỉ đề cập đến sự kiện, tránh giải thích hay buộc tội theo tự suy, ức đoán. Tránh cường điệu, phóng đại, thêu dệt.
3) Nói lời ôn nhu.
4) Nói vì lợi ích người nghe. Tập trung vào mặt tích cực trong giải pháp giải quyết vấn đề. Đừng phê bình mà không có đường hướng giải quyết
5) Nói với lòng từ bi, không nói với tâm giận tức.
Phật dạy: “Lại nữa, Xá Lợi Phất, dù ông theo năm phương pháp đối thoại này, vẫn còn một số người không tán đồng những điều ông nói (do sở tri chướng nơi họ).”
III. SỐNG HÒA HỢP, ÍT LÀM THƯƠNG TỔN NGƯỜI
1. Nhận ra bản ngã
Khi tâm có chánh niệm, cái ngã không có điều kiện xuất hiện. Bản ngã gây nên va chạm và đổ vỡ, vì cái ngã của ai cũng là số một, không cái ngã nào chịu đứng dưới cái ngã nào. Để bảo vệ và củng cố cái ngã mình, người ta không ngại làm tổn thương nhau. Và không phải ai cũng nhận ra mình đang làm tổn thương người khác.
Muốn sống chung hòa hợp, những cái ngã nên lui về một chút, nên nhường nhau một chút. Một trong những cách sống của chúng tôi là: “trên kính, dưới thương, ngang nhường”.
2. Đúng và sai
Đừng chắc chắn trăm phần trăm là mình đúng. Đây là nguyên nhân của cãi cọ và tranh đấu. Điều đó chỉ đúng với chính mình thôi, người khác chưa chắc đã thấy như vậy. Bớt xác quyết đúng - sai sẽ bớt tranh cãi, bớt giận hờn, đổ vỡ.
Tôn trọng quan điểm của người khác. Biết rằng người khác có chỗ hợp lý của họ. Như vậy mới có thể sống chung và làm việc chung lâu dài.
Hòa thượng Trúc Lâm từng dạy: “Thường chúng ta có thói quen cho rằng cái gì mình nghĩ cũng là chân lý. Vì vậy mình nghĩ thế này, người khác nghĩ thế kia, mình liền sân giận, có khi cãi vã và đi tới ẩu đả nhau.
      Hòa thượng kể: “Những năm tôi ở trên núi, thấy xa xa có cụm mây đen theo chiều gió thuận thổi đến hướng của mình, tôi cứ đinh ninh đám mây đó sẽ mưa nên dọn đồ đạc bên ngoài vô. Một hồi gió thổi tạt hướng khác, trời không mưa. Như vậy cái nghĩ của mình chưa bao giờ đúng trăm phần trăm. Chúng ta thường cho rằng mình nghĩ đúng, đó là nhân của sự tranh cãi hay nói cách khác là nhân của đấu tranh.”
Trong kinh, Phật có dạy một câu thật chí lý: Người biết tôn trọng chân lý là người nghĩ điều gì thì nói: “Đây là cái nghĩ của tôi”, ngang đó dừng. Nếu nói cái nghĩ của tôi đúng thì đã bậy rồi vì không tôn trọng chân lý. Chỉ thêm chữ “đúng” thì có tranh cãi.
3. Duy trì tâm an tĩnh, vui tươi.
Không thấy gì là quan trọng quá. Tập suy nghĩ theo hướng tích cực, thấy được những mặt tốt của vấn đề, những tính cách tốt của người mình đang tiếp xúc. Trân trọng những gì mình đang có, không đòi hỏi mọi việc phải luôn theo ý mình. Như vậy tự nhiên chúng ta dễ thấy lòng mình an tĩnh vui tươi, mới có thể hòa hợp, tạo nên bầu không khí an vui cho tập thể.
IV. THÂN GIÁO
Trong bài “Thân Giáo: Có thể là một giải pháp cho tất cả”, chúng tôi cũng nhấn mạnh: Giáo lý của Đức Phật được đặt trên nền tảng Từ bi và Trí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài. Thân giáo là bài pháp vô giá và công dụng nhất mà Ngài đã sống và truyền đạt. Thân giáo là lối hành xử trong đời sống hằng ngày. Sự tiến hóa và hòa bình của nhân loại một phần lớn là do giáo lý giác ngộ rốt ráo của Ngài. Ngày nay, Đạo Phật vẫn là những giải pháp cho nhân loại. Chúng tôi cũng đưa ra bảy phương cách thực tiễn, đó là:
1. Thiết lập một mindset (tâm/tư duy) thánh thiện.
2. Thấu rõ nguyên lý Nhân duyên, Nghiệp quả
3. Làm tốt bối cảnh quanh mình trước
4. Đồng Lợi - Lợi người lợi mình: (Mutual Respect/Benefit)
5. Có mặt cho nhau - (Presencing as in the Theory U)
6. Sức mạnh của đoàn kết (Collaboration with other organizations for sustainable change)
7. Hành giả - Be a Buddhist Practitioner.
Nhìn chung, lãnh đạo cần được sự đồng thuận, hợp tác trên nền tảng từ bi và nhân bản. Điều này chỉ có khi có lòng kính tin và thương mến. Nên người huynh trưởng cần vững vàng, có thể là chỗ nương tựa và học hỏi của đàn em.
Muốn khuyên, muốn dạy dỗ ai,
Trước tiên hãy tự sửa nơi chính mình.
Đích thân gương mẫu thực hành
Rồi sau mới dạy điều lành, điều hay!
Sửa mình quả thật khó thay!
(Kinh Pháp cú 159)
Sự tu tập bản thân, thể hiện từ hành động bản thân. Sự Hành thiện đến từ giới luật và tinh tấn, bền chí thực tập. Phật vì từ bi và nguyện lực mà thành tựu hóa độ chúng sanh.
1. Tu tập chánh niệm:
Làm việc gì biết việc đó. Ý thức việc mình đang làm. Thân đâu tâm đó.
Ví dụ:
a) Trong mỗi hành vi cử động trong ngày đều phải tự mình tỉnh thức rõ biết, như bước chân đi thì tỉnh táo nhận biết chân nào đưa trước.
b) Tâm thức duy trì tỉnh giác có thể giúp ngăn ngừa bệnh Alzheimer. Cuộc sống buông lung, thất niệm, hay quên sẽ rất khó thành tựu được bất cứ điều gì.
2. Tu tập tỉnh thức:
a) Nhận biết Tánh biết qua 6 căn: Thấy biết hiện tiền - Rõ ràng thường biết.
b) Tỉnh thức để kịp thấy ra vọng tưởng có những khuynh hướng chấp ngã và thiếu hiền thiện.
c) Tỉnh thức trong phút hiện tiền: thư giãn (relax) thân và tâm.
3. Trí tuệ và từ bi: Hai cánh giúp con chim bay.
4 Lãnh đạo chính mình:
Biết tự trọng và tạo ra sự kính trọng nơi mọi người mới có thể lãnh đạo. Người ta nghe mình do thương yêu và kính trọng chứ không chỉ vì quyền hạn.
5. Hương tỏa từ hoa:
Phải vun bồi nội lực, tu dưỡng tự thân, được như vậy thì hữu xạ tự nhiên hương.
6. Không có thành quả từ trời rơi xuống:
Thiên tài là sự tích lũy của nhiều kiếp trước hoặc trải qua nhiều năm tháng ngay trong đời này, được rèn luyện trở thành tập quán tốt đẹp.
V. TẤM LÒNG NGƯỜI LÃNH ĐẠO
Người lãnh đạo phải luôn cân nhắc: Sự thông hiểu, thương yêu, đoàn kết là quan trọng, hay đúng sai là quan trọng?
Một tín đồ người Ấn Độ đi bộ đến chùa Thánh ở Hymalaya. Đường đi thì xa xôi, đường núi vô cùng khó đi, không khí thì loãng. Ông ta tuy mang theo đồ đạc rất ít, nhưng vẫn cất bước không nổi, vừa đi vừa thở hổn hển. Ông ta đi rồi nghỉ, nghỉ rồi lại đi… không ngừng nhìn về phía trước, hy vọng mục tiêu đi đến sẽ sớm xuất hiện. Thình lình ông thấy phía trước có một bé gái chưa đầy 10 tuổi, trên lưng cõng một em bé khác đang từ từ bước từng bước về phía trước. Cô bé thở hổn hển, mồ hôi đầm đìa, nhưng hai tay vẫn quàng chặt lấy đứa trẻ trên lưng.
Tín đồ người Ấn Độ đi đến bên cô bé, rất đồng cảm nói:
- Cháu của ta, cháu cũng giống như ta, cháu nhất định mệt rồi, cháu cõng nặng quá!
Cô bé nghe xong, không vui, trả lời:
- Cái ông cõng là sức nặng, nhưng cái cháu cõng không phải là sức nặng, nó là em trai của cháu.
Người cảm thấy gánh nặng vì không có tình yêu.
Chính Tình Yêu cho ta sự nhẹ nhàng. Mọi thứ chỉ có ý nghĩa khi nó giúp cho ta sống cho một tình yêu chân chính, cho một lý tưởng rõ rệt, cho một cuộc đời có ý nghĩa.
Tình yêu nào cũng cần có sự hy sinh. Hy sinh là gánh nặng nếu tình yêu đó không thật. Thế giới sẽ hạnh phúc biết bao nếu mọi đôi vai đều biết kề nhau chung vác những trách nhiệm và bổn phận để làm cho thế giới đẹp hơn.
Trong gia đình, cộng đồng, tập thể, tôn giáo… đều cần phải như vậy.
Mọi người sẽ đi trọn kiếp nhân sinh này với “gánh nhẹ nhàng” vì có nhau, vì nhau, trong một thế giới yêu thương huynh đệ cùng chung hướng về một niềm tin cao cả.
Từ những chia sẻ trên, bài thơ này có thể là sắc thái của việc lãnh đạo cần thiết này trong tổ chức Gia đình Phật tử.
Lãnh đạo trong chánh niệm
Biết lắng nghe, thông cảm
Bình tĩnh mọi vấn đề
Sống hòa hợp đề huề
Sáng suốt trong quyết định
Không sân si dua nịnh
Tứ Nhiếp Pháp luôn hành
Giữ tâm đẹp trong lành
Là lãnh đạo chánh niệm
KẾT LUẬN
Ngày nay, sự phát triển kỹ thuật và khoa học đi rất nhanh so với phát triển tâm linh. Mỗi người con Phật, dù là Huynh trưởng hay đoàn sinh, xuất gia hay tại gia, trai hay gái, già hay trẻ, trong tổ chức GĐPT hay không đều phải học và thực hành và áp dụng những lời Phật dạy một cách nghiêm túc để chuyển hóa chính ta và những người xung quanh. Chúng ta phải sửa đổi những thói hư tật xấu, những tập khí không tốt để chúng ta từng bước hướng thiện. Ngoài ra, chúng ta cần phải nhiệt thành, làm tròn trách nhiệm và chức năng của mình trong mọi hoàn cảnh khi có thể. Từ sự ý thức vai trò, bổn phận và trách nhiệm của người huynh trưởng, với tấm lòng của người đầu đàn, anh chị huynh trưởng cố thực hành chánh niệm sẽ tự mình lan tỏa năng lực, trí tuệ và từ bi hầu hướng dẫn cho đàn em ngày càng vững mạnh. Nghệ thuật lãnh đạo trong chánh niệm cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó. Vậy chúng ta hãy bắt đầu, bạn nhé!

Ni Sư Thích Nữ Thuần Tuệ
Htr. Tâm Thường Định

*Bài này đã được trình bày cho Trại Huấn Luyện A Dục Lộc Uyển của Miền Liễu Quán, năm 2016. Bài này có thể là bài học chính thức cho trại Huấn Luyện từ đây trong tổ chức GĐPT.


Thursday, March 31, 2016

Truyện ngắn: TỪ BỎ HAY RỜI XA!


photos: BXK
Truyện ngắn: TỪ BỎ HAY RỜI XA!



Cú điện thoại Viper reo! “Alo”.

- Alo! Bé Tư đó hả?

- Dạ, con đây. Chú Lưu có khoẻ không?

- Khoẻ chứ sao không. Chú khoẻ như con trâu vậy!

- Ủa sao không phải là “phẻ re như con bò kéo xe” hả chú, hehe!

- Ở hải ngoại, ai cũng đi cày hết, nên thành trâu hết rồi con ơi! Lưu đùa.

- Chú vui quá. Ủa sao chú không trả lời email của con? Bé Tư trách móc.

- Ò, thì chú gọi về thăm con và để trả lời câu hỏi hơi hắc búa của con đây vì chú không thể tài nào giải thích qua mail hoặc facebook inbox được. Câu hỏi “Tại sao dân Việt Nam mình ngày càng muốn rời ra đất nước nếu không nói là từ bỏ quê hương?” Đó là một câu hỏi rất hay và có chiều sâu. Thực ra câu hỏi đó không phải chỉ một mình con hỏi, có lẽ là có nhiều thế hệ. Mới đây, chú đọc một câu chuyện của tác giả Nguyệt Quỳnh, trong đó có đoạn:

Cứ mỗi năm cuộc tranh giành quyền lực ở cấp lãnh đạo thượng tầng lại lập đi lập lại, và càng ngày mức độ càng gay gắt. Tôi tự hỏi không biết các vị lãnh đạo có từng bao giờ quan tâm để nhận biết ra rằng từ lâu nhiều người dân VN đã thầm lặng bỏ nước ra đi!

Điều đáng giật mình là - ngày nay người ta rời bỏ quê hương mình không một chút vấn vương luyến tiếc. Quê hương là nơi chốn thiêng liêng, nơi thân thuộc, nơi có cha mẹ, anh em, bằng hữu, có cả một trời thơ ấu; nhưng vì sao người VN lại tìm mọi cách để rời bỏ đất nước mình?

         Cháu là tầng lớp trẻ, trí thức của Việt Nam. Thế hệ trẻ trưởng thành như các cháu cần phải tìm ra cho được câu trả lời, Lưu tâm sự:

Bé Tư tiếp lời,

- Chú ơi. Tụi cháu bận rộn với miếng cơm manh áo. Tuổi trẻ chúng cháu cũng không cần tìm câu trả lời chi cho mệt. Cái xã hội này đào tạo chúng con như vậy, ăn chơi thoả mái; lo chi việc nước việc nhà.

-  Cháu nên xét lại. "Đừng bao giờ làm khách trên quê hương của mình cháu nhé.”

Chú Lưu nhấn mạnh từng chữ.

- Cháu đâu có làm khách, cháu chỉ muốn những gì tốt nhất cho cháu và gia đình thôi vì thế cháu cũng đang tìm cách qua bên Âu Châu hay Mỹ quốc học đây. Chú có cách nào giúp cháu không, bảo lãnh kết hôn giả, du học hay tỵ nạn gì đó cũng được?

- Ò, thì ra con cũng muốn “tỵ nạn giáo dục”. Chú Lưu nửa đùa nửa thật

- “Tỵ nạn giáo dục” là gì vậy chú? Bé Tư hỏi.

- Năm vừa rồi, bạn của chú cũng tìm mọi cách để đưa đứa con gái yêu duy nhất ra ngoại quốc chỉ vì muốn con mình ‘tỵ nạn giáo dục’.

- Tại sao là phải ‘tỵ nạn giáo dục’ hả chú? Con chỉ biết là người Việt Nam, chúng ta đã cho nhiều cuộc tỵ nạn hay di tản, ví dụ như những cuộc tản cư trong thời chiến, rồi đất nước chia đôi vào năm 1954 mà người Nam ra Bắc gọi là tập kết, và người Bắc vào Nam gọi là Bắc 54, v.v… Con chỉ biết sau biến cố 30 tháng 4, mà chúng con gọi là ngày giải phóng miền Nam; chú gọi là ngày mất nước. Sau đó thì nhiều người Việt Nam chế độ cũ đi ‘tỵ nạn chính trị’. Thập niên sau đó, thì nhiều người Việt Nam đi ‘tỵ nạn kinh tế’, rồi bây giời thì có chuyện, ‘tỵ nạn giáo dục?’ Sao người mình bỏ xứ đi vậy Chú?

- Bé Tư thương. Thực ra, người Việt đang rời xa Quê hương thân yêu chứ không phải từ bỏ Quê hương đâu con. Có thể là số người Việt không có thích chính sách lãnh đạo đương thời hoặc bất đồng với chính quyền không đem lại những gì họ mong muốn, nên họ tìm cách ra đi, nhưng không có nghĩa là từ bỏ Quê hương.

          Như các cháu học sử đó, triều đại nào, chính quyền nào rồi cũng mai một cũng bị thay thế, chỉ có Quê hương Tổ quốc là vẫn còn đó. Chú chính là nhân chứng sống đây, bao nhiêu năm sống xa xứ mà vẫn theo dõi, vẫn hy vọng vẫn sẻ chia, hoặc bức xúc nhiều điều trên quê hương mình. Cháu biết không? Những năm 90 làm việc ở Á Châu, chú mơ ước đến 25 năm sau (2015), về hưu, sẽ về lại quê nhà, sống những ngày còn lại của đời mình, nơi đã được sinh ra.

          Bài viết của Nguyệt Quỳnh đã giúp an ủi tâm hồn chú và trả lời câu hỏi : "Tại sao giấc mơ kia không thành hiện thực." Lần về  thăm nhà 1990, sau 15 năm tha hương, trước những đổi thay qúa lớn, chú ngậm ngùi viết bài thơ dài, khóc cho thân phận, trong đó có mấy câu:

..."Mắt thấy rộng một trời Âu, bể Á

Mờ bóng quê Cha thất thểu đường về

Ðứng giữa trời nhìn núi cao, biển rộng

Mới hay mình lạc mất một tình quê...



Xưa mơ bình nguyên bên kia dãy núi

Giờ nhìn thấy sông ngập mặt tuyết băng

Xưa gối quê hương trong từng giấc ngủ

Giờ nhìn quê hương ánh mắt xa xăm..."

          Đã 25 năm rồi đó cháu mà đọc lại chú cứ tưởng như vừa mới viết ra để chia sẻ với cháu và cả những người con Việt xa tổ quốc.

- Bài thơ hay quá chú ơi. Nhưng sao mà buồn tủi và ngậm ngùi vậy chú. Bé Tư thở nhẹ.

          Tự nhiên chú Lưu bỗng nghẹn lời vì cô bé đã gọi đúng tên giấc mơ của mình nay xưa.

          Lưu thầm nghĩ, nếu tuổi trẻ Việt Nam biết nhạy cảm như thế này thì hay biết mấy!



Cát Sương 

Thursday, March 24, 2016

ĐỒI XƯA THUNG LŨNG HOA VÀNG

Cỏ xanh hồng mắt ta về
Tiếng cười con trẻ đề huề yêu thương
Hoa vàng óng ánh vạt sương