Wednesday, July 23, 2025

Tâm Quảng Nhuận: Huynh Trưởng GĐPT | Bài 6B-2: Quy Chế Huynh Trưởng: Chương I: Cấp Bậc

 

Chương thứ nhất

Mục I: Cấp Bậc

Ðiều 1: Tất cả Huynh Trưởng[1] Gia Ðình Phật Tử Việt Nam, tùy theo thời gian thâm niên, khả năng và đạo đức đều được xếp vào các cấp Huynh Trưởng theo thứ tự cấp bậc: Tập – Tín – Tấn – Dũng.

Mục II: Cấp Tập

Ðiều 2: Thể thức gia nhập hàng Huynh Trưởng[2]:

  1. Ðoàn viên Gia Ðình Phật Tử có cấp Trung Thiện trở lên[3].
  2. Nam Nữ Phật Tử từ 19 tuổi trở lên, sinh hoạt trong Ðoàn trên một năm[4].
  3. Nam nữ Thanh niên từ 20 tuổi trở lên, được Gia Ðình Phật Tử mời[5] hay hai Huynh Trưởng[6] giới thiệu, và phải trúng cách Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng A Dục[7].

Ðiều 3: Tu học: Chương Trình Tu Học Huynh Trưởng Bậc A[8] và Bậc B[9], trúng cách Trại A Dục.

Ðiều 4: Thời gian: ba năm Huynh Trưởng kể từ ngày gia nhập[10].

Ðiều 5: Thể thức xếp cấp: Ban Huynh Trưởng Cấp Gia Ðình đề nghị lên Ủy Ban Quản Trị Huynh Trưởng Cấp Tỉnh[11] và Ban Hướng Dẫn Tỉnh ra quyết định liệt vào hàng Huynh Trưởng Cấp Tập, và tổ chức Lễ Thọ Cấp.

Mục III: Cấp Tín

Ðiều 6: Ðiều kiện: Phải là Huynh Trưởng Cấp Tập[12].

Ðiều 7: Tu Học: Chương Trình Tu Học Huynh Trưởng Bậc C[13], trúng cách Trại Huyền Trang[14].

Ðiều 8: Thời gian: Sau ba năm sinh hoạt cấp Tập[15].

Ðiều 9: Thể thức xếp cấp: Ban Hướng Dẫn Tỉnh đề nghị lên Ban Hướng Dẫn Trung Ương xét[16].
– Ban Hướng Dẫn Trung Ương ra quyết định công nhận vào hàng Huynh Trưởng cấp Tín.
– Ban Hướng Dẫn Tỉnh tổ chức Lễ Thọ Cấp.

Mục IV: Cấp Tấn

Ðiều 10: Ðiều kiện: Phải là Huynh Trưởng sinh hoạt 5 năm cấp Tín[17].

Ðiều 11: Tu học: Chương Trình Tu Học Huynh Trưởng Bậc D, trúng cách Trại Huấn Luyện Vạn Hạnh[18].

Ðiều 12: Thời gian: 5 năm sinh hoạt cấp Tín, có tối thiểu 35 tuổi đời và 15 năm làm Huynh Trưởng[19].

Ðiều 13: Thể thức xếp cấp: Một Hội Ðồng Huynh Trưởng trên cấp tại Cấp Tỉnh xét hồ sơ, bình nghị gởi lên Ban Hướng Dẫn Trung Ương[20].
– Một Hội Ðồng Huynh Trưởng trên cấp tại Cấp Trung Ương xét hồ sơ, bình nghị đề nghị của Ban Hướng Dẫn Trung Ương chuyển qua[21].
– Ban Hướng Dẫn Trung Ương ra quyết định công nhận vào hàng Huynh Trưởng cấp Tấn.
– Ban Hướng Dẫn Trung Ương tổ chức Lễ Thọ Cấp Bậc[22].

Mục V: Cấp Dũng

Ðiều 14: Ðiều kiện: Phải là Huynh Trưởng sinh hoạt 10 năm Cấp Tấn[23]

Ðiều 15: Tu học: Trình bày luận án do Viện Hóa Ðạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất[24] chấp thuận, hoặc là một dự án được một Hội Ðồng Ðặc Biệt chấp thuận (Hội Ðồng này do Ban Hướng Dẫn Trung Ương mời).

Ðiều 16: Thể thức xếp cấp: Hội Ðồng Huynh Trưởng Cấp Dũng xét[25] và Ban Hướng Dẫn Trung Ương ra quyết định liệt vào hàng Huynh Trưởng Cấp Dũng.

Tổng Quan – Ý Nghĩa của Cấp Bậc

Cấp bậc Huynh Trưởng (Tập – Tín – Tấn – Dũng) không đơn thuần là một cơ chế phân hạng quản trị, mà là một lộ trình tu tập và phụng sự được thiết lập với chiều sâu Phật học và tinh thần sư phạm. Con đường ấy phản ánh sự vận hành của Bồ Tát đạo trong đời sống thực tiễn, dẫn dắt mỗi người từ tâm sơ phát – khởi tâm vì lý tưởng giáo dục và phụng sự thanh thiếu nhi – cho đến tâm viên mãn, nơi Huynh Trưởng trở thành người lãnh đạo gương mẫu, hiến trọn đời mình cho sự nghiệp gieo hạt giống giác ngộ trong thế hệ trẻ.

Ở mỗi cấp bậc, Huynh Trưởng không những tiến bộ về năng lực tổ chức mà còn trưởng thành về nội tâm, rèn luyện cả ba phương diện: Giới – Định – TuệGiới giúp giữ gìn phẩm hạnh và đạo đức, là hàng rào bảo hộ trước mọi cám dỗ của bản ngã. Định mang đến sự an tĩnh, sáng suốt trong khi đối diện với khó khăn, mâu thuẫn và thử thách của tổ chức. Tuệ là ánh sáng của trí hiểu, giúp Huynh Trưởng đưa ra những quyết định đúng đắn, hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lý tưởng giáo dục và thực tiễn cuộc sống.

Chính vì vậy, hệ thống cấp bậc này được xem như một quá trình thanh lọc – không phải để tôn vinh quyền lực, mà để gạn lọc những tâm hồn chân thật, những người thực sự sống vì Đạo và vì đàn em. Mỗi Huynh Trưởng bước vào con đường này đều được rèn luyện qua nhiều tầng thử thách, từ việc thực hành Bồ Tát hạnh trong các hoạt động đời thường, đến việc hun đúc tầm nhìn rộng mở và năng lực dẫn dắt.

Nếu một người Huynh Trưởng không có nền tảng đạo tâm vững chắc, không tu tập và thực hành theo đúng tinh thần “vị tha – vô ngã”, thì mọi danh vị, cấp bậc chỉ còn là hình thức rỗng. Ngược lại, một Huynh Trưởng có Giới, Định, Tuệ đầy đủ sẽ tự nhiên tỏa sáng như một tấm gương sống, dẫn dắt đoàn sinh không bằng lời nói, mà bằng chính đời sống thanh liêm và hành động kiên định.

Cấp Tập, Tín, Tấn, Dũng – nhìn ở góc độ sâu hơn – là những nấc thang tâm linh, là bốn cột mốc để người Huynh Trưởng GĐPT từng bước tự hoàn thiện bản thân, nuôi dưỡng lòng từ bi và trí tuệ, và đồng thời truyền cảm hứng cho thế hệ kế thừa. Qua từng cấp bậc, người Huynh Trưởng trưởng thành về tổ chức và còn trưởng thành về tâm linh, để từ đó, con đường phụng sự thanh thiếu nhi trở thành con đường giải thoát bản thân và gieo duyên giác ngộ cho tha nhân.

Mục I: Cấp Bậc – Điều 1

Tất cả Huynh Trưởng được phân theo bốn cấp Tập – Tín – Tấn – Dũng, dựa trên thâm niên, năng lực và đạo đức.

Bốn cấp này là thang đạo lộ: từ bước đầu “thử sức” (Tập), đến niềm tin vững vàng (Tín), rồi nỗ lực vươn lên (Tấn), và cuối cùng là dũng lực không thoái chuyển (Dũng).

Đây chính là con đường tu học tiệm tiến, phản ánh tinh thần Bồ Tát: phát tâm – lập hạnh – tinh tấn – thành tựu.

Cấu trúc tổ chức: hệ thống cấp bậc đảm bảo tính kế thừa, tránh rối loạn trong phân quyền và giữ chuẩn mực chung cho toàn hệ thống VBYA.

Mục II: Cấp Tập – Điều 2 đến Điều 5

Cấp Tập là cửa ngõ gia nhập hàng Huynh Trưởng, yêu cầu căn bản về tuổi, thâm niên, sự giới thiệu và trúng cách trại A Dục.

Trại A Dục vừa huấn luyện kỹ năng, vừa khơi mở tinh thần phụng sự, giúp người dự trại hiểu rằng Huynh Trưởng là người “phụng đạo – hộ đời” chứ không chỉ là người tổ chức trò chơi.

Chương trình Tu Học Huynh Trưởng Bậc A và B xây nền đạo đức, kiến thức Phật học căn bản, kỹ năng sinh hoạt thanh thiếu nhi.

Ba năm cấp Tập: thời gian thử thách, là giai đoạn “tâm sơ phát”– kiểm nghiệm xem người ấy có thực sự phát tâm Bồ Tát để giáo dục đàn em hay không.

Thể thức xếp cấp: có sự giám sát chặt chẽ từ Ban Huynh Trưởng cấp Gia Đình lên đến BHD Miền, nhằm bảo đảm rằng mỗi Huynh Trưởng cấp Tập đều xứng đáng.

Mục III: Cấp Tín – Điều 6 đến Điều 9

Sau 3 năm ở cấp Tập và trúng cách Trại Huyền Trang, Huynh Trưởng mới được thọ cấp Tín.

“Tín” nghĩa là niềm tin vững chắc: tin vào Tam Bảo, tin vào sứ mệnh giáo dục, tin vào con đường Bồ Tát.

Trại Huyền Trang đào luyện chiều sâu tư tưởng và lý tưởng, giống như tâm hạnh kiên cố của ngài Huyền Trang trên đường thỉnh kinh.

Ba năm cấp Tập + 3 năm cấp Tín: tổng cộng 6 năm thử thách, giúp Huynh Trưởng tích lũy đủ kinh nghiệm và đạo hạnh để dẫn dắt một đơn vị.

BHD trung ương phê chuẩn: thể hiện tính thống nhất và uy nghiêm của tổ chức, tránh phân quyền lỏng lẻo.

Mục IV: Cấp Tấn – Điều 10 đến Điều 13

Đòi hỏi 5 năm cấp Tín, tổng cộng 15 năm làm Huynh Trưởng, qua Trại Vạn Hạnh và Bậc D, đồng thời có độ chín của tuổi đời (≥ 35).

“Tấn” nghĩa là tinh tấn, tiến tu không ngừng. Cấp này đòi hỏi sự chín chắn về trí tuệ, đạo đức và khả năng lãnh đạo.

Trại Vạn Hạnh mang biểu tượng của tuệ giác hành động: như thiền sư Vạn Hạnh – người “nội tu – ngoại trị”, vừa uyên thâm Phật học vừa có tầm nhìn xã hội.

35 tuổi và 15 năm công tác: đây là thời điểm trưởng thành toàn diện về nhân cách và kinh nghiệm, để gánh vác các trọng trách huấn luyện và điều hành cấp vùng, miền.

Hội đồng nhiều tầng xét duyệt: phản ánh tính minh bạch và sự tham khảo tập thể – không ai tự phong cho mình cấp bậc.

Mục V: Cấp Dũng – Điều 14 đến Điều 16

Đỉnh cao của Huynh Trưởng, đòi hỏi 10 năm cấp Tấn và một luận án hoặc dự án được Viện Hóa Đạo hoặc Hội đồng đặc biệt duyệt.

“Dũng” là bất thoái chuyển, là tâm kiên định của Bồ Tát. Cấp này không chỉ là thâm niên mà còn là tầm nhìn lãnh đạo và sáng kiến đóng góp.

Luận án hoặc dự án: giống như một “bồ-đề tâm hành”, thể hiện chiều sâu tri thức, kinh nghiệm và khả năng hoạch định phát triển tổ chức.

Cấp Dũng không chỉ là danh vị cao nhấtmà là “hạnh nguyện lớn nhất”: trở thành tấm gương sáng, là chỗ dựa tinh thần cho cả hệ thống Huynh Trưởng.

*

Bấy giờ, hệ thống cấp bậc Tập – Tín – Tấn – Dũng trong hàng ngũ Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử Việt Nam không nên và không thể được nhìn như một chiếc thang danh vọng để leo lên, cũng không phải là một chuỗi các chức danh để tô điểm cho lý lịch cá nhân. Trái lại, đó là một đạo lộ sống động, nơi mà từng bước đi là một lần thăng hoa trong đạo hạnh, từng giai đoạn là một chuyển hóa nội tâm sâu xa, và mỗi cấp bậc là một dấu ấn thực chứng cho sự trưởng thành toàn diện về đạo đức, trí tuệ và hạnh nguyện phụng sự.

Cấp Tập là thời kỳ sơ phát tâm, nơi người Huynh Trưởng bắt đầu khép mình vào khuôn mẫu giới luật và tinh thần kỷ luật nội tâm. Cấp Tín là lúc niềm tin vững chãi được xác lập – không chỉ là tin vào Tam Bảo, mà còn là tin vào khả năng chuyển hóa của chính mình, tin vào con đường giáo dục Phật giáo như một phương tiện cứu đời. Cấp Tấn là thời điểm người Huynh Trưởng biết gác lại những hoài nghi, mâu thuẫn, hay ngã chấp, để dũng mãnh bước vào hành trình trưởng thành trí tuệ, năng lực tổ chức, khả năng dẫn dắt và hy sinh. Và cấp Dũng là lúc đạo và đời quyện vào nhau – nơi hạnh nguyện vị tha không còn giới hạn, và con người ấy sống cho tha nhân, hành đạo như hơi thở, giáo dục như máu chảy, và Phật pháp như ánh sáng bất tuyệt trong từng quyết định, từng hành động.

Con đường ấy, từ khởi tâm đến viên thành, chính là lộ trình hiện thực hóa lý tưởng Bồ Tát đạo trong đời sống cư sĩ:

  • Tự giác – biết nhìn lại mình, biết sửa mình, tu tập trong từng hơi thở, từng suy nghĩ, từng lời nói.
  • Giác tha – đem hiểu biết và tình thương đó mà dìu dắt đoàn sinh, dìu dắt đồng sự, dìu dắt chính tổ chức vượt khỏi cám dỗ và chia rẽ.
  • Giác hạnh viên mãn – không phải là đạt được một địa vị hay sự tán thưởng nào, mà là khi người Huynh Trưởng thực sự trở thành một ánh đuốc yên lặng giữa đêm tối, một hành giả âm thầm giữa đời, nhưng tỏa ra ánh sáng đạo vị, truyền trao niềm tin cho lớp lớp hậu lai.

Chính vì vậy, cấp bậc trong GĐPT không những là một cơ chế hành chánh mà là một hệ thống đạo lý sâu sắc, được xây dựng để bảo hộ tổ chức khỏi rơi vào tình trạng hình thức, bè phái hay cảm tính. Nếu cấp bậc được xem nhẹ, hoặc bị lạm dụng như công cụ tranh giành ảnh hưởng, thì tổ chức sẽ mất linh hồn. Nhưng nếu cấp bậc được xem như một hành trình Bồ Tát hóa, thì mỗi Huynh Trưởng sẽ là một viên gạch vững chắc xây nên lâu đài đạo lý cho thế hệ trẻ Việt Nam mai sau.

Và cuối cùng, sự hoàn thiện của một người Huynh Trưởng không nằm ở bằng cấp, danh vị hay lời ca tụng, mà nằm ở chỗ: người ấy đã sống đúng với lời phát nguyện ban đầu – phát nguyện vì lý tưởng Phật giáo, vì tuổi trẻ, và vì con đường phụng sự vô ngã, vị tha. Đó chính là giác hạnh viên mãn, không cần tuyên bố, không cần tán dương – chỉ cần sống và làm, trong im lặng, với tâm nguyện bền bỉ không lui.

_______________________________

[1] Danh từ “Huynh Trưởng” : là một danh từ kêu chung để chỉ những thành viên cán bộ của Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử Việt Nam.

– Ðúng ra, chỉ nên gọi “Trưởng” và phân biệt “Anh Trưởng” và “Chị Trưởng”. Từ trước đến nay, cứ một thanh niên đứng coi một Ðoàn, hay sinh hoạt trong một đơn vị Gia Ðình Phật Tử, hay giữ một chức vụ trong Ban Hướng Dẫn Tỉnh, Trung Ương cũng đều được gọi là “Huynh Trưởng”.

– Có những danh từ không được dùng trong Nội Quy hay Quy Chế Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử Việt Nam như : “Bạn Ðoàn”, “Huynh Trưởng Tập Sự”, nhưng đều được hiểu ngầm là những người chưa được chính thức công nhận vào hàng Huynh Trưởng thực thụ. Ðó là những người chưa dự và trúng cách một Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng nào cả.

– Ðược công nhận là Huynh Trưởng thực thụ, là khi nào đoàn viên ấy đã trúng cách Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng “Lộc Uyển” (đào tạo Ðoàn Phó thực thụ).

– Một Huynh Trưởng là một Ðoàn Viên Gia Ðình Phật Tử, đã Quy Y, Thọ giới và có Pháp Danh; trúng cách Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng Lộc Uyển, phát nguyện làm Huynh Trưởng, và có ít nhất là 18 tuổi (cho Ðoàn Viên GÐPT Ngành Thiếu mới lên), 19 tuổi (cho Ðoàn Viên GÐPT Ngành Thanh mới vào Gia Ðình được một năm), 20 tuổi (cho Nam Nữ Thanh Niên mới vào).

– Bắt đầu từ ngày 01.01.1974 trở về sau, tất cả các Ðoàn Viên GÐPT muốn được chính thức công nhận là “Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử” đều phải trúng cách Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng Lộc Uyển và làm lễ phát nguyện làm Huynh Trưởng.

– Lễ phát nguyện làm Huynh Trưởng phải do Ban Hướng Dẫn Miền tổ chức chung cho các GÐPT trong miền, hoặc làm một cuộc lễ đặc biệt, hay tổ chức vào dịp mãn khóa “Lộc Uyển”, vào dịp trao chứng chỉ Lộc Uyển (06 tháng sau ngày mãn khóa).

– Một đơn vị GÐPT không đủ tư cách tổ chức Lễ Phát Nguyện Huynh Trưởng này.

– Ngày phát nguyện này được xem là ngày “Gia nhập hàng Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử và sẽ được ghi vào sách tịch Huynh Trưởng.

[2] Thể thức gia nhập hàng Huynh Trưởng: điều 2 của Quy Chế này, ta phải hiểu rằng: mục a, b và c nêu rõ những thành phần nào được tuyển chọn để được đào tạo thành Huynh Trưởng, chớ không phải những thành phần trên đương nhiên được xem là Huynh Trưởng thực thụ.

[3] Ðoàn Viên GÐPT có cấp Trung Thiện trở lên: (không nêu rõ số tuổi bắt buộc, và không nêu rõ phải trúng cách Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng Lộc Uyển).
– Ðây là những Ðoàn Viên Ngành Thiếu của Gia Ðình Phật Tử.
– Muốn có Bậc Trung Thiện thì Ðoàn Sinh này ít nhất phải sinh hoạt trong một Ðơn Vị Gia Ðình trên 3 năm (phải trải qua các Bậc Hướng Thiện, Sơ Thiện và Trung Thiện).
– Một Ðoàn Sinh Ngành Thiếu có ít nhất là 13 tuổi, như vậy khi trúng cách bậc Trung Thiện thì Ðoàn Sinh ấy phải có ít nhất là 16 tuổi.
– Có bậc Trung Thiện, Ðoàn Sinh này đương nhiên đã phải học qua thể thức điều khiển Ðội hay Chúng, được tuyển chọn để dự Trại Huấn Luyện Ðội, Chúng Trưởng (Anoma, Ni Liên do Ban Hướng Dẫn Miền tổ chức).
– Ðoàn Sinh này (đã trúng cách Trại Anoma, Ni Liên) còn phải chờ đến 18 tuổi mới được “đặc biệt” đề cử đi dự Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng Lộc Uyển (trường hợp Gia Ðình thiếu cán bộ).
– Ðúng ra, thì không thể bắt buộc tất cả Ðoàn Sinh Trung Thiện phải trúng cách Trại Anoma, Ni Liên được, vì mỗi Gia Ðình chỉ tuyển chọn một số Ðoàn Sinh xuất sắc để đi dự Trại Huấn Luyện Ðội Chúng Trưởng do Ban Hướng Dẫn Miền tổ chức mà thôi. Còn một số đông Ðoàn Sinh khác chỉ được chọn dự khóa Ðội Chúng Trưởng do Ðơn Vị Gia Ðình Phật Tử trong Miền tổ chức, và như thế các Ðoàn Sinh này đều có chứng chỉ do Ban Hướng Dẫn Miền cấp (Nội Quy, chương hai, điều 7, mục C/2).
– Sở dĩ phải nêu vấn đề trúng cách Trại Ðội Chúng Trưởng ở đây, là vì Ðoàn Sinh này muốn được xem là Huynh Trưởng Thực Thụ thì phải trúng cách Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng Lộc Uyển và có chứng chỉ Khóa Tu Học bậc A (bậc Kiên).

[4] Nam Nữ Phật Tử : đây là các Ðoàn Viên Ngành Thanh của Gia Ðình Phật Tử (những thanh niên từ 18 tuổi trở lên).
– Sinh hoạt trong Ðoàn trên một năm tức là đang học chương trình bậc “Hòa” của Ngành Thanh (thời gian bậc “Hòa” không có ấn định là bao nhiêu năm, nhưng đã sinh hoạt trên một năm, tức là Ðoàn Viên này ít nhất đã học qua chương trình Hướng Thiện, Sơ Thiện và đang học chương trình Trung Thiện).
– Nam Nữ Phật Tử, thường là những thanh niên đã có một trình độ kiến thức văn hóa và kinh nghiệm ngoài đời tương đối có thể trở thành những Huynh Trưởng vững chắc. Ðiều kiện phải có trên 19 tuổi và sinh hoạt trên 1 năm, cũng đủ bảo đảm để Ðoàn Sinh này khỏi phải trúng cách Trại hoặc Khóa Ðội Chúng Trưởng. Tuy nhiên, cũng phải có chứng chỉ Khóa Tu Học bậc A (bậc Kiên) để được tham dự Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng Lộc Uyển.

[5] Nam Nữ Thanh Niên: đây là thanh niên có trên 20 tuổi đời, có một khả năng chuyên môn nào đó, được Ban Huynh Trưởng mời đến, lúc đầu chỉ làm “Bạn Ðoàn” để phụ giúp chỉ vẻ về chuyên môn cho các em, về sau mới phát nguyện tu học và theo các Khóa Huấn Luyện Huynh Trưởng.

[6] Tại sao Gia Ðình Phật Tử bắt buộc các Nam Nữ Thanh Niên này phải trúng cách Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng A Dục ? [đáng lý ra chỉ cần “Lộc Uyển) là đã đủ tư cách là một Huynh Trưởng Thực Thụ rồi (Ðoàn Phó)]. Ðại Hội Huynh Trưởng năm 1973 chưa tu chỉnh điểm này theo tinh thần mới của Quy Chế Huynh Trưởng, có lẽ vì sơ sót (?). Trong lúc chờ đợi được tu chỉnh, ta có thể giải thích như sau : là vì các Thanh Niên này, tuy lớn tuổi và đã có một số vốn khả năng đặc biệt nào đó rồi, nhưng chưa lảnh hội và am tường Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử, nên cần phải dự qua các Trại Lộc Uyển và A Dục. Mục đích Gia Ðình Phật Tử cần những cán bộ trung kiên và cũng để giữ giá trị của người Huynh Trưởng trong tổ chức Gia Ðình Phật Tử. Cũng như các Nam Nữ Phật Tử, các Thanh Niên này được miễn chứng chỉ Ðội Chúng Trưởng khi đi dự Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng Lộc Uyển.

[7] Do Hai (02) Huynh Trưởng giới thiệu: Phải là 2 Huynh Trưởng có cấp Tập trở lên giới thiệu mới được (xem Quy Chế Huynh Trưởng, chương hai, mục VI, điều 18 nói về quyền hạn cấp Tập).
– Xin nhớ rằng : khoản a, b và c chỉ là giai đoạn đầu của một Ðoàn Viên Gia Ðình Phật Tử muốn trở thành một Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử.
– Khoản a, b và c có thể nói là những “Huynh Trưởng Tập Sự”.
– Trúng cách Trại Lộc Uyển và làm Lễ Phát Nguyện xong mới được xem là “Huynh Trưởng Thực Thụ”.
– Trúng cách A Dục mới được xét hồ sơ để xếp cấp Tập (một trong những điều kiện để được xét hồ sơ cấp Tập), chớ không phải trúng cách A Dục là đương nhiên được xếp cấp Tập).

[8] Bậc A : Kể từ ngày 06.05.1974, các Huynh Trưởng phải tu học theo một chương trình trường kỳ, đặc biệt dành riêng cho Huynh Trưởng. Chương trình này được chia thành bốn (04) bậc : A, B, C, D với những tên Kiên (bậc A), Trì (bậc B), Ðịnh (bậc C), Lực (bậc D).
– Tuy nhiên, Ban Hướng Dẫn trung ương đã quyết định để một thời gian chuyển tiếp là hai (02) năm, tức là từ 06.05.1974 đến 06.05.1976. Trong thời gian này, điều kiện trại sinh dự qua các Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng chưa bắt buộc phải có Chứng Chỉ Tu Học Huynh Trưởng mỗi Bậc tương đương với Trại.
– Dự khóa “Lộc Uyển” thì phải có Chứng Chỉ Tu Học Huynh Trưởng Bậc A.

[9] Bậc B: Dự Trại A Dục thì phải có Chứng Chỉ Tu Học Huynh Trưởng bậc B.
– Trong Quy Chế Huynh Trưởng tu chỉnh năm 1967, cũng như kỳ Ðại Hội Huynh Trưởng năm 1973, lúc tu chỉnh Quy Chế không có câu: “Trúng cách Trại A Dục, nhưng ta phải thêm vào mới được rõ ràng, vì đó là một trong những điều kiện để được xét và xếp cấp Tập.
– Từ năm 1974 trở đi, những Huynh Trưởng nào chưa trúng cách “Lộc Uyển và A Dục”, đều chưa đủ điều kiện để được xét hồ sơ cấp Tập.

[10] Ba (03) năm Huynh Trưởng kể từ ngày gia nhập: “Gia Nhập” ở đây phải hiểu là “Gia Nhập Hàng Huynh Trưởng”, chớ không phải “Gia Nhập Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử”.
– Muốn được Gia Nhập hàng Huynh Trưởng thì phải Trúng Cách Trại Lộc Uyển và Phát Nguyện làm Huynh Trưởng.
– Như vậy, khi xét hồ sơ Huynh Trưởng để xếp cấp Tập, thì phải xem Ngày Phát Nguyện.

Ví dụ: Khi xét hồ sơ của Huynh Trưởng để xếp cấp Tập thì Hội Ðồng Huynh Trưởng cấp Miền sẽ xét:
* Chức vụ hiện tại: Huynh Trưởng ấy đang sinh hoạt trong một Ðơn Vị Gia Ðình (hay là một Ban Viên, Phụ Tá Ban Viên của Ban Hướng Dẫn Miền). Giữ chức cụ gì ? (Gia Trưởng, Ðoàn Trưởng hay Phó, Thư Ký hay Thủ Quỹ v-v…
* Thâm niên trong Gia Ðình : Kể từ ngày mới phát nguyện làm Ðoàn Sinh Gia Ðình Phật Tử (nếu là từ Ðoàn Sinh lên Huynh Trưởng). Kể từ ngày mới phát nguyện làm Ðoàn Viên Gia Ðình Phật Tử, được mời làm Huynh Trưởng Tập Sự (nếu là Nam Nữ Thanh Niên).
* Khả năng chuyên môn, năng khiếu đặc biệt.
* Tinh thần đạo hạnh.
* Ðã đủ 3 năm Huynh Trưởng chưa ? Kể từ ngày phát nguyện làm Huynh Trưởng thực thụ sau khi được cấp chứng chỉ trúng cách Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng Lộc Uyển. (Ví dụ : phát nguyện làm Huynh Trưởng ngày 05.11.1965 thì đến ngày 05.11.1968 là đủ 3 năm).

Nếu Huynh Trưởng ấy mới dự Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng và trúng cách A Dục vào ngày 10.06.1968, phải chờ một năm sau mới được cấp giấy Chứng Chỉ Trúng Cách A Dục, Huynh Trưởng ấy vẫn được xét hồ sơ để xếp cấp Tập vào dịp Lễ Thành Ðạo cuối năm 1968, nếu Hội Ðồng Huynh Trưởng cấp Miền nhận được giấy chứng nhận của Ban Hướng Dẫn Tỉnh cho biết là Huynh Trưởng ấy đã trúng cách Trại A Dục và trong trường hợp đặc biệt, đề nghị cho Huynh Trưởng ấy được xếp cấp Tập (vì nhu cầu Phật sự).
– Xin nhớ là không phải kể từ ngày trúng cách “A Dục” rồi cộng thêm 3 năm (ở đây chỉ đòi hỏi thâm niên Huynh Trưởng, chớ không phải thâm niên Trại).

[11] Ðối với cấp Tập: thì Ban Huynh Trưởng Gia Ðình lập hồ sơ Huynh Trưởng đưa ra bình nghị trong một buổi họp đặc biệt “Xét Cấp” do Gia Trưởng chủ tọa và Liên Ðoàn Trưởng làm thuyết trình viên. Biên bản được ghi rõ ràng lời phê bình, nhận xét của Hội Ðồng, Gia Trưởng sẽ tóm tắt ý kiến và phê vào “Hồ Sơ Sách Tịch của Huynh Trưởng”.
– Không cần phải lập phiếu ghi điểm như từ trước đến nay (giản dị hóa hành chánh), mà chỉ cần phê bình công khai và mỗi Hội Viên trong Hội Ðồng có thể tùy theo những tiêu chuẩn đã được định sẵn, mà cho điểm trên phiếu kín. Nếu được điểm trên trung bình do Hội Ðồng ấn định thì xem như Huynh Trưởng ấy đủ điều kiện để được đề nghị xét cấp Tập. Xin nhớ: Hội Ðồng có quyền yêu cầu đương sự ra khỏi phòng họp khi xét đến hồ sơ của Huynh Trưởng có mặt trong Hội Ðồng.
– Xin xem lại phần giải thích số (10) ở trên để làm căn bản đặt những tiêu chuẩn xét cấp Tập. Không thể vì nể tình, mà cần phải giữ gìn uy tín chung cho hàng Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử Việt Nam.
– Ủy Ban Quản Trị Huynh Trưởng cấp Miền: Có thể thành lập một “Hội Ðồng Xét Cấp” (danh từ không ghi trong Quy Chế, song về phương diện hành chánh thì đây là một việc nên làm). Hội Ðồng Xét Cấp này phải được Ban Hướng Dẫn Miền thừa nhận bằng một Quyết Ðịnh.
– Chủ Tịch Hội Ðồng, thừa Ủy nhiệm của Chủ Tịch Ủy Ban Quản Trị mà ký vào các biên bản, văn kiện liên quan đến nhiệm vụ trước khi gởi lên Ban Hướng Dẫn Miền để Ban này ra Quyết Ðịnh.

[12] Bắt đầu từ 01.01.1973, không còn trường hợp đặc cách hay điều chỉnh cấp bậc nữa. Tất cả Huynh Trưởng đều phải có cấp Tập mới được xét hồ sơ cấp Tín khi hội đủ những điều kiện ghi ở chương nhất, mục III (cấp Tín).
– Tuổi đời : Phải có ít nhất 25 tuổi (đối với Ðoàn Sinh ngành Thiếu lên), 25 tuổi (đối với Nam Nữ Phật Tử, 26 tuổi (đối với Thanh Niên).
– Giải thích thể thức tính tuổi:
* Ðoàn Viên GÐPT (Ngành Thiếu lên) : 18 tuổi dự Trại Lộc Uyển, cộng 3 năm Huynh Trưởng để được xếp cấp Tập (21 tuổi). Từ cấp Tập lên cấp Tín phải đủ 3 năm, nhưng phải có 25 tuổi để dự Trại Huyền Trang.
* Nam Nữ Phật Tử : 19 tuổi + 3 năm + 3 năm = 25 tuổi.
* Nam Nữ Thanh Niên : 20 tuổi + 3 năm + 3 năm = 26 tuổi.
– Nếu xét trường hợp đặc biệt của một Ðội Chúng Trưởng xuất sắc được tiến cử làm Huynh Trưởng, và từ ngày “Phát Nguyện Huynh Trưởng” thì Ðoàn Viên này phải trải qua những giai đoạn sau đây trước khi hội đủ những điều kiện thâm niên để được xét cấp Tín:
* 18 tuổi trúng cách Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng Lộc Uyển (phát nguyện làm Huynh Trưởng).
* 20 tuổi trúng cách Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng A Dục.
* 21 tuổi được xét và xếp cấp Tập (đặc biệt sớm hơn 1 năm).|
* 25 tuổi trúng cách Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng Huyền Trang (tuổi ấn định cho Trại Sinh Huyền Trang, không được miễn tuổi, đáng lý là năm 23 tuổi được dự Trại Huyền Trang, mà phải chờ đến 25 tuổi mới dự Trại Huyền Trang được).
* 25 tuổi được xét hồ sơ và xếp cấp Tín nếu hội đủ những điều kiện khác của cấp Tín. (Nếu không bị Trại Huyền Trang thì 3 năm sau cấp Tập, tức là 24 tuổi thì Huynh Trưởng này được xét cấp Tín).
* Thường thường, thì một Huynh Trưởng được xếp cấp Tín ít nhất phải là 26 tuổi đời, và như vậy cũng là sớm lắm rồi.

[13] Có Chứng Chỉ Tu Học bậc C bậc Ðịnh mới được dự Trại Huyền Trang.

[14] Phải có ít nhất 25 tuổi đời mới được dự Trại Huyền Trang. Tuổi được ấn định và không có trường hợp miễn tuổi cho bất cứ thành phần nào. Vì một Liên Ðoàn Trưởng phải có ít nhất là 25 tuổi đời mới có đủ uy tín điều khiển một Gia Ðình.

[15] Phải có ít nhất 25 tuổi đời mới được dự Trại Huyền Trang. Tuổi được ấn định và không có trường hợp miễn tuổi cho bất cứ thành phần nào. Vì một Liên Ðoàn Trưởng phải có ít nhất là 25 tuổi đời mới có đủ uy tín điều khiển một Gia Ðình.

[16] Mỗi năm đến Lễ Thành Ðạo thì Ban Hướng Dẫn trung ương xét hồ sơ Huynh Trưởng các Miền để xếp Cấp, từ cấp Tín trở lên.
– Ðể kịp đưa ra bình nghị trước Hội Ðồng Xét Cấp trung ương, các cấp Gia Ðình phải chuyển hồ sơ lên cấp Miền trễ nhất là cuối tháng 10 dương lịch mỗi năm và cấp tỉnh chuyển hồ sơ về Trung Ương trễ nhất là cuối tháng 11 dương lịch mỗi năm.
– Hội Ðồng Xét Cấp cấp Miền do Ủy Ban Quản Trị Huynh Trưởng.

[17]

[18]

[19]

[20]

[21]

[22]

[23] .

[24]

[25]

CHAPTER ONE

Section I: Leadership Ranks

Article 1:
All GĐPT leaders of the Vietnamese Buddhist Youth Association (VBYA), depending on their seniority, capability, and ethical conduct, are classified into the following hierarchical ranks: Tập (Probationary) – Tín (Faith) – Tấn (Diligence) – Dũng (Courageous Perseverance).

Section II: Tập (Probationary Rank)

Article 2 – Entry Requirements:
a. Must be a VBYA member of Trung Thiện (Intermediate Virtue) rank or higher.
b. Must be a lay Buddhist, male or female, 19 years of age or older, and have been actively participating in a VBYA unit for at least one full year.
c. Buddhist youth or young adults, 20 years or older, either invited by a VBYA unit or recommended by two GĐPT leaders, and must have successfully completed the A Dục Training Camp.

Article 3 – Study Program:
Completion of VBYA Leader Study Program Levels A and B, and passing the A Dục Training Camp.

Article 4 – Minimum Duration:
Three years of probationary service, calculated from the official date of entry into the leadership rank.

Article 5 – Promotion Process:
The Family-Level Leadership Board proposes the candidate to the Provincial Leadership Management Committee, which then forwards the recommendation to the Provincial Leadership Board. Upon approval, the individual is officially recognized as a Probationary Rank GĐPT leader, and a Rank Conferment Ceremony is held.

Section III: Tín (Faith Rank)

Article 6 – Eligibility:
Must already hold the Probationary Rank (Tập).

Article 7 – Study Program:
Completion of VBYA Leader Study Program Level C, and successful participation in the Huyền Trang Training Camp.

Article 8 – Minimum Duration:
Three years of active service at Probationary Rank.

Article 9 – Promotion Process:
The Provincial Leadership Board submits the recommendation to the Central Leadership Board for review.
– The Central Leadership Board issues the decision officially recognizing the candidate as a Faith Rank (Tín) GĐPT leader.
– The Provincial Leadership Board organizes the Rank Conferment Ceremony.

Section IV: Tấn (Diligence Rank)

Article 10 – Eligibility:
Must have completed at least five years of active service at Faith Rank.

Article 11 – Study Program:
Completion of VBYA Leader Study Program Level D, and successful participation in the Vạn Hạnh Leadership Training Camp.

Article 12 – Minimum Duration and Age:
Must be 35 years of age or older, with at least 15 years of service as a GĐPT leader, including five years at Faith Rank.

Article 13 – Promotion Process:
– A Provincial Review Council of Senior GĐPT leaders evaluates the application and submits a resolution to the Central Leadership Board.
– A Central Review Council of Senior GĐPT leaders reviews and confirms the proposal.
– The Central Leadership Board formally recognizes the candidate as a Diligence Rank (Tấn) GĐPT leader.
– The Central Leadership Board organizes the Rank Conferment Ceremony.

Section V: Dũng (Courageous Perseverance Rank)

Article 14 – Eligibility:
Must have completed ten years of service at Diligence Rank (Tấn).

Article 15 – Study and Contribution:
Must present a leadership thesis approved by the Institute for the Propagation of the Dharma of the Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV), or submit a project proposal approved by a Special Council convened by the Central Leadership Board.

Article 16 – Promotion Process:
The Courageous Perseverance Rank Review Council evaluates the thesis or project and forwards its resolution to the Central Leadership Board, which then issues the final decision and officially inducts the candidate into the Courageous Perseverance Rank (Dũng).

*

Overview – The Meaning of the Leadership Ranks

The leadership ranks of GĐPT (Tập – Tín – Tấn – Dũng) are not merely a hierarchical system of administrative classification; they are, in essence, a spiritual path of training and selfless service, embedded deeply in Buddhist principles and educational values. This pathway mirrors the Bodhisattva journey in real life, guiding each leader from the initial vow (bodhicitta) to the mature realization of wisdom, compassion, and spiritual leadership. It is a journey in which the GĐPT leader dedicates their entire life to planting seeds of awakening in the hearts of the younger generation.

Each rank represents not just organizational responsibility but a profound inner development, cultivated through the Buddhist triad of Sīla (ethical conduct)Samādhi (meditative stability), and Prajñā (wisdom).
– Sīla guards the mind and behavior from selfish tendencies and ethical deviation.
– Samādhi brings clarity, equanimity, and resilience in times of conflict or difficulty.
– Prajñā illuminates the leader’s decisions, helping balance the needs of the individual and the collective, the ideals of education and the reality of society.

Therefore, this rank system functions as a purification process, designed not to elevate personal prestige, but to reveal and refine the hearts of those truly committed to the Dharma and to the youth. Every GĐPT leader walking this path is tested on many levels—from their daily embodiment of Bodhisattva conduct, to their ability to articulate vision, empower others, and preserve the integrity of the VBYA mission.

If a GĐPT leader lacks deep-rooted spiritual integrity—without training, humility, or the spirit of non-self and selfless service—then rank becomes an empty title. But when a leader cultivates Sīla, Samādhi, and Prajñā in harmony, they naturally become a living beacon—leading not through words, but through noble presence and unwavering example.

The ranks Tập, Tín, Tấn, Dũng can thus be seen as spiritual milestones—steps toward self-mastery, compassionate leadership, and inspirational presence. Through these ranks, the leader grows not only in administrative capacity but in inner realization, transforming the act of educating youth into a path of liberation for oneself and others.

Deeper Insights on Each Rank

  • Tập (Probationary) is the threshold of aspiration—the phase of awakening bodhicitta, where one begins to align with precepts, discipline, and the intention to serve.
  • Tín (Faith) is when unwavering conviction is established—not only faith in the Triple Gem, but in one’s own potential for transformation and in Buddhist education as a noble means of serving humanity.
  • Tấn (Diligence) marks the passage into selfless maturity—when personal doubt and ego are relinquished, and the leader steps boldly into responsibility, resilience, and guidance.
  • Dũng (Courageous Perseverance) is the culmination—where Dharma and daily life become inseparable, and the leader lives wholly for the benefit of others. Their service becomes as natural as breath; their teaching flows like blood through their veins; the Dharma shines through every act and choice.

This progression—from the first intention to the final integration—is none other than the practical realization of the Bodhisattva path in the life of a layperson:

  • Self-Awareness (Tự giác): the capacity for introspection, correction, and steady cultivation of the mind, speech, and behavior.
  • Awakening Others (Giác tha): the ability to lead others with compassion and clarity, helping fellow leaders and youth transcend fragmentation and selfishness.
  • Perfected Awakening (Giác hạnh viên mãn): not as a title or recognition, but as the quiet radiance of one who becomes a silent flame in darkness, a humble yet unwavering presence that inspires generations.

For this reason, the rank system in the VBYA must never be reduced to bureaucratic formalities or instruments of power. When misused for ego or factional interest, it strips the organization of its moral spirit. But when seen as a sacred process of Bodhisattva transformation, each GĐPT leader becomes a foundation stone for the moral and spiritual edifice that will shape the future of Vietnamese youth in the Dharma.

Ultimately, the fulfillment of a GĐPT leader is not measured by certificates, accolades, or public praise. It is measured by this one truth: whether they have remained faithful to their original vow—to serve the Dharma, to uplift the youth, and to walk the path of non-self, selfless giving, and tireless compassion. That is true perfection of awakening (giác hạnh viên mãn): unannounced, uncelebrated—yet unwavering and luminous, nourished by deep, unshakable resolve.

______________________

Mục Lục

Huynh Trưởng GĐPT: Lời Thưa
Leaders of the Vietnamese Buddhist Youth Association: Preface

I. Gia Đình Phật Tử Việt Nam Tại Hoa Kỳ:
Sự Hòa Hợp Của Truyền Thống, Giáo Dục
và Sứ Mệnh Phật Giáo Trong Xã Hội Đa Dạng
The Vietnamese Buddhist Youth Association in the United States:
The Harmonization of Tradition, Education,
and Buddhist Mission in a Diverse Society

II. Tinh Thần Của Người Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử:
Từng Bước Chân Trên Đạo Lộ Tỉnh Thức
The Spirit of a Gia Đình Phật Tử Youth Leader: Each Footstep on the Path of Awakening

III. Hướng Đi Của Người Huynh Trưởng: Từ Hồi Đầu Đến Hành Đạo
The Path of the GĐPT Youth Leader: From Turning Back to Walking the Way

IV. Sứ Mệnh Của Người Huynh Trưởng GĐPT Việt Nam
The Mission of the Gia Đình Phật Tử Việt Nam Youth Leader

V. Những Điều Kiện Căn Bản Để Trở Thành Huynh Trưởng:
Từ Danh Xưng Đến Hành Nguyện
The Fundamental Conditions for Becoming a Youth Leader: From Title to Vowed Practice

QUY CHẾ HUYNH TRƯỞNG GĐPT VIỆT NAM TẠI HOA KỲ
The Regulations for Youth Leaders of Gia Đình Phật Tử Vietnam in the United States ]
Chương Mở Đầu
Understanding And Living By The GĐPT Leadership Regulations
Chương I: Cấp Bậc
Leadership Ranks
Chương II: Bổn Phận – Nhiệm Vụ – Quyền Hạn
Duties – Responsibilities – Authority
Chương III: Huấn Luyện
Training
Chương IV: Quản Trị Huynh Trưởng
Management of GĐPT Leader

VI. Sự Đoàn Kết Giữa Huynh Trưởng Trong Bối Cảnh Phân Hóa: Nhìn Về Một Hướng
Unity Among Youth Leaders Amidst Division: Looking Toward a Common Direction

Kết luận
Conclusion

Saturday, July 19, 2025

Tâm Quảng Nhuận: Huynh Trưởng GĐPT | Bài 6B-1: Quy Chế Huynh Trưởng: Chương Mở Đầu

 

QUY CHẾ HUYNH TRƯỞNG
GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM

– Ðại hội Huynh Trưởng GÐPT 1955 tại Ðà Lạt
– Tu chỉnh : Ðại hội Huynh Trưởng 1964 tại Sàigòn
– Tu chỉnh : Ðại hội Huynh Trưởng 1967 tại Sàigòn
– Tu chỉnh : Ðại hội Huynh Trưởng 1973 tại Ðà Nẵng

CHƯƠNG MỞ ĐẦU

Sứ Mệnh Huynh Trưởng

– Nghĩ rằng trong một đoàn thể, các cán bộ điều khiển đóng vai trò nồng cốt và liên quan ảnh hưởng đến sự thịnh suy của tổ chức.

– Nghĩ rằng trong sứ mệnh giáo dục Thanh Thiếu Nhi, Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử tự khoác vào mình tính chất đặc thù mà khả năng đạo đức không thể tách rời, trí thức và kinh nghiệm phải được thực hiện nương nhau.

– Nghĩ rằng với quá khứ trên 30 năm tiến triển, Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử Việt Nam đã chịu đựng một cách xứng đáng để giữ vững và phát huy tổ chức.

Quy Chế Huynh Trưởng này được thiết lập để thăng tiến Tổ Chức (chương I), để san định bổn phận, trách nhiệm và quyền hạn Huynh Trưởng (chương II) để thống nhất tư tưởng, ý chí hành động Huynh Trưởng (chương III) và để liên kết Huynh Trưởng lại thành một khối (chương IV).

*

I. Bối cảnh lịch sử và tính chất văn bản

Quy Chế Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử Việt Nam, được hình thành từ Đại hội Huynh Trưởng năm 1955 tại Đà Lạt và liên tục được tu chỉnh tại các Đại hội năm 1964, 1967 và 1973. Đây là bản quy phạm nền tảng định hình bản chất, sứ mệnh và trách nhiệm của hàng Huynh Trưởng – không đơn thuần là những người “phụ trách” mà là những chủ thể giáo dục đạo đức trong môi trường Phật giáo thanh niên.

1. “Nghĩ rằng trong một đoàn thể, các cán bộ điều khiển đóng vai trò nồng cốt và liên quan ảnh hưởng đến sự thịnh suy của tổ chức.”

Mọi đoàn thể đều có những cá nhân giữ vai trò chủ đạo – trong GĐPT, đó là Huynh Trưởng. Anh chị không những quản lý sinh hoạt mà chính là “tâm lực” dẫn đạo tổ chức. Nếu người lãnh đạo không có đạo hạnh, tầm nhìn hay không sống đúng với tinh thần Phật giáo, thì tổ chức sẽ thoái hóa, chia rẽ, hoặc rơi vào hình thức bề ngoài.

  • Chiều sâu Phật học: Đây là nguyên tắc “nhân duyên tương quan”: người lãnh đạo là nhân, đoàn sinh là duyên, đạo pháp là quả. Nếu “nhân” sai thì “quả” hỏng. Huynh Trưởng là người gieo giống tâm linh và định hướng sự chuyển hóa nội tâm cho tuổi trẻ – không thể là kẻ hời hợt.

2. “Nghĩ rằng trong sứ mệnh giáo dục Thanh Thiếu Nhi, Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử tự khoát vào mình tính chất đặc thù mà khả năng đạo đức không thể tách rời, trí thức và kinh nghiệm phải được thực hiện nương nhau.”

Huynh Trưởng không phải chỉ là người dạy kỹ năng hay lý thuyết, mà là người sống bằng chính đạo đức nội tại. Anh chị phải hội đủ ba yếu tố:

  1. Đạo đức: làm gốc.
  2. Trí thức: làm phương tiện.
  3. Kinh nghiệm: làm nền.

Ba yếu tố này “nương nhau” như tam giác không thể khuyết đỉnh nào. Một Huynh Trưởng có bằng cấp cao nhưng thiếu đạo đức, hay có đạo tâm nhưng thiếu thực hành cũng không thể thành công trong giáo dục.

  • Chiều sâu sư phạm: Ở đây thể hiện một lý tưởng giáo dục vừa toàn diện (thân-khẩu-ý), vừa hành trì (đạo đức sống chứ không chỉ giảng), vừa trí tuệ hóa (biết hướng dẫn phù hợp từng độ tuổi, từng hoàn cảnh xã hội).

3. “Nghĩ rằng với quá khứ trên 30 năm tiến triển, Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử Việt Nam đã chịu đựng một cách xứng đáng để giữ vững và phát huy tổ chức.”

Điều này mang tính lịch sử, nhấn mạnh rằng GĐPT không sinh ra từ sự tiện nghi, mà lớn lên từ gian khó. Từ Phong trào Thanh Niên Phật Tử đầu thế kỷ 20, đến khi thành hình là GĐPTVN, các Huynh Trưởng đã hy sinh, vượt qua khủng hoảng đất nước, tôn giáo và chiến tranh để gìn giữ tổ chức. Việc “chịu đựng xứng đáng” là sự công nhận công lao của các thế hệ tiền bối và là lời nhắc nhở rằng sứ mệnh hôm nay cũng cần bền chí và hy sinh như thế.

  • Chiều sâu đạo lý: Người Huynh Trưởng phải thấm nhuần tinh thần “vị pháp vong thân, vị tha phụng sự” – gánh vác khó khăn không vì lợi ích bản thân mà vì đạo pháp, vì thế hệ mai sau. Đó chính là hạnh Bồ Tát trong đời thường.

II. Mục đích của Quy Chế – Từ khái niệm đến hành động

4. “Quy Chế Huynh Trưởng này được thiết lập để thăng tiến Tổ Chức (chương I), để san định bổn phận, trách nhiệm và quyền hạn Huynh Trưởng (chương II), để thống nhất tư tưởng, ý chí hành động Huynh Trưởng (chương III) và để liên kết Huynh Trưởng lại thành một khối (chương IV).”

Chương I – Thăng tiến tổ chức: Không chỉ giữ nguyên trạng mà phải làm cho GĐPT tiến triển đúng hướng – cả về chất lượng huấn luyện lẫn tinh thần Phật hóa.
Chương II – San định bổn phận: Phân minh rõ ràng giữa quyền, nghĩa vụ và đạo lý của người Huynh Trưởng – nhằm tránh tùy tiện hoặc lạm quyền.
Chương III – Thống nhất tư tưởng: Xóa bỏ cá nhân chủ nghĩa, bè phái, dị biệt tâm thức – hướng về một lý tưởng chung là phục vụ đạo pháp và giáo dục thanh thiếu nhi.
Chương IV – Liên kết thành một khối: Tăng đoàn hóa tổ chức – tức không chỉ là nhiều người hoạt động cùng nhau mà là một cộng đồng đạo lữ, gắn bó tâm linh và hành động.

  • Chiều sâu tổ chức học: Quy chế không phải văn bản khô khan mà là “đạo lộ” giúp người Huynh Trưởng tự soi xét, chỉnh đốn, nâng mình và nâng tổ chức. Nếu tuân hành đúng, GĐPT sẽ không bị rạn nứt hay biến tướng. Nếu lơi lỏng, tổ chức sẽ mất hồn cốt, rơi vào hình thức hoặc chia rẽ.

Kết luận:

Chương mở đầu của Quy Chế Huynh Trưởng không những là một phần giới thiệu – mà là một lời tuyên ngôn đạo lý và tổ chức. Điều này đặt người Huynh Trưởng vào trung tâm của sự chuyển hóa xã hội bằng giáo dục Phật giáo, đồng thời cũng đòi hỏi nơi anh chị một bản lĩnh: sống đạo – hiểu đời – hành xử khế cơ, khế lý.

Đây là bản “hiến chương” tâm linh và đạo nghiệp của người đứng giữa hai bờ: bờ đạo lý và bờ thực tiễn giáo dục – để bắc một chiếc cầu Lam đi tới tương lai. Và chỉ khi thấu hiểu sứ mệnh ấy bằng tâm thức Bồ Tát, người Huynh Trưởng mới có thể dẫn đàn em vượt qua những thách đố của thời đại mà không rời đạo hạnh, không mất lý tưởng.

____________________

Tài liệu tham khảo và trích dẫn:
– Nội Quy và Quy Chế Huynh Trưởng GĐPTVN tại Hoa Kỳ
– Sứ Mệnh Người Áo Lam, Lữ Hồ
– GĐPTVN, Cương yếu và Tổ Chức – Như Tâm
– Đại cương xây dựng chương trình tu học và huấn luyện Huynh Trưởng GĐPTVN – Thị Nguyên

Regulations for GĐPT Leaders

Vietnamese Buddhist Youth Association (VBYA)

– GĐPT Leaders’ Congress, 1955 – Đà Lạt
– Revised: GĐPT Leaders’ Congress, 1964 – Sài Gòn
– Revised: GĐPT Leaders’ Congress, 1967 – Sài Gòn
– Revised: GĐPT Leaders’ Congress, 1973 – Đà Nẵng

Prologue: The Mission of the GĐPT Leader

  • Recognizing that within any organization, its core strength and direction lie in the leadership, whose actions and character determine the rise or decline of the institution.
  • Recognizing that in fulfilling the noble mission of educating youth, a VBYA leader assumes a distinctive role, where ethical integrity cannot be separated from intellectual capacity and experiential insight—all three must mutually support each other.
  • Recognizing that with more than thirty years of growth, GĐPT leaders have endured with dignity to preserve and further develop the organization.

This Regulations for GĐPT Leaders document is established to:

  • Advance the Organization (Chapter I),
  • Define the duties, responsibilities, and authority of GĐPT leaders (Chapter II),
  • Unify the thought and spirit of action among leaders (Chapter III), and
  • Foster solidarity by connecting all leaders into one cohesive body (Chapter IV).

Historical Context and Foundational Character

The Regulations for GĐPT Leaders of the Vietnamese Buddhist Youth Association was first established at the GĐPT Leaders’ Congress in 1955 (Đà Lạt) and subsequently amended in 1964, 1967, and 1973. It is a foundational charter that defines the identity, mission, and responsibility of the GĐPT leader—not merely as an administrative role, but as a moral educator and spiritual guide within a Buddhist youth movement.

In-Depth Interpretation: A Buddhist and Organizational Perspective

1. “Recognizing that within any organization, its core strength and direction lie in the leadership, whose actions and character determine the rise or decline of the institution.”

In every organization, a few individuals hold pivotal roles. In the VBYA, these are the GĐPT leaders. They do not merely manage programs; they are the moral and spiritual compass of the organization. When a leader lacks ethical foundation or Buddhist insight, the organization risks spiritual decay, fragmentation, or becoming merely a hollow structure.

Buddhist Insight:
This reflects the principle of dependent origination (pratītyasamutpāda). The leader is the seed, the members are the conditions, and the Dharma is the fruit. If the seed is corrupted, the fruit cannot ripen. The GĐPT leader is the sower of spiritual seeds, cultivating inner transformation in youth—not a superficial administrator.

2. “Recognizing that in fulfilling the noble mission of educating youth, a VBYA leader assumes a distinctive role, where ethical integrity cannot be separated from intellectual capacity and experiential insight—all three must mutually support each other.”

A GĐPT leader is not simply an instructor of skills or knowledge, but a living embodiment of Buddhist ethics. They must embody three interdependent qualities:

  1. Moral integrity as the root,
  2. Intellectual understanding as the tool,
  3. Experiential wisdom as the foundation.

Like a triangle with no missing side, these qualities cannot stand alone. An academically accomplished leader without virtue, or a well-intentioned leader without competence, cannot succeed in Buddhist education.

Educational Philosophy:
This articulates a holistic ideal of education that integrates moral conduct (sīla), contemplative action (samādhi), and wisdom (prajñā), adapted skillfully to youth at various stages of development and cultural contexts.

3. “Recognizing that with more than thirty years of growth, GĐPT leaders have endured with dignity to preserve and further develop the organization.”

This affirms the historical struggle and perseverance of the VBYA, which did not emerge in times of peace or convenience but matured amid national crisis, religious challenge, and war. From its early days as a Buddhist youth movement to its formalization, GĐPT leaders have sacrificed greatly to uphold the organization.

Moral Significance:
A GĐPT leader must embody the spirit of bodhisattva conduct: “sacrificing for the Dharma, serving others selflessly.” Their perseverance is not for personal benefit, but for the Dharma, for the future generations. This is the Bodhisattva path in daily life.

Purpose of the Regulations: From Principle to Practice

4. “This document is established to advance the Organization (Chapter I), define the duties, responsibilities, and authority of GĐPT leaders (Chapter II), unify the thought and spirit of action among leaders (Chapter III), and foster solidarity by connecting all leaders into one cohesive body (Chapter IV).”

  • Chapter I – Advancing the Organization:
    GĐPT leaders are tasked not only with preserving the current structure but also with developing it meaningfully, enhancing training quality and deepening the Dharma spirit.
  • Chapter II – Clarifying Responsibilities:
    It lays out clear ethical boundaries and leadership responsibilities, protecting the organization from arbitrariness or abuse of authority.
  • Chapter III – Unifying Vision and Action:
    This counters egocentrism and factionalism, harmonizing all leaders toward a shared vision of serving the Dharma and educating youth.
  • Chapter IV – Building Solidarity:
    Leaders are not isolated units but part of a spiritual community (saṅgha), bound in shared aspiration and mutual support.

Organizational Insight:
This is not a bureaucratic manual, but a Dharma path for inner reflection, leadership cultivation, and institutional harmony. If practiced, the VBYA will thrive. If neglected, it risks fragmentation and spiritual decline.

Conclusion: A Spiritual and Organizational Manifesto

The prologue to the Regulations for GĐPT Leaders is more than a preface—it is a declaration of both spiritual purpose and structural integrity. It places the GĐPT leader at the heart of social transformation through Buddhist education and calls for profound personal embodiment of the Dharma.

This is a charter of spiritual commitment and moral service, a bridge between Dharma ideals and practical pedagogy. Only through deep understanding and Bodhisattva resolve can a GĐPT leader guide young hearts through the trials of this age—without compromising ethical integrity or losing sight of the ultimate vision.

____________________

References:
– Rules and Regulations for Leaders of the Vietnamese Buddhist Youth Association in the United States.
– Lữ Hồ. The Mission of the Gray Shirt.
– Như Tâm. The Vietnamese Buddhist Youth Association: Principles and Organizational Structure.
– Thị Nguyên. General Outline for Developing Training and Educational Programs for Leaders of the Vietnamese Buddhist Youth Association.

______________________

Mục Lục

Huynh Trưởng GĐPT: Lời Thưa
Leaders of the Vietnamese Buddhist Youth Association: Preface

I. Gia Đình Phật Tử Việt Nam Tại Hoa Kỳ:
Sự Hòa Hợp Của Truyền Thống, Giáo Dục
và Sứ Mệnh Phật Giáo Trong Xã Hội Đa Dạng
The Vietnamese Buddhist Youth Association in the United States:
The Harmonization of Tradition, Education,
and Buddhist Mission in a Diverse Society

II. Tinh Thần Của Người Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử:
Từng Bước Chân Trên Đạo Lộ Tỉnh Thức
The Spirit of a Gia Đình Phật Tử Youth Leader: Each Footstep on the Path of Awakening

III. Hướng Đi Của Người Huynh Trưởng: Từ Hồi Đầu Đến Hành Đạo
The Path of the GĐPT Youth Leader: From Turning Back to Walking the Way

IV. Sứ Mệnh Của Người Huynh Trưởng GĐPT Việt Nam
The Mission of the Gia Đình Phật Tử Việt Nam Youth Leader

V. Những Điều Kiện Căn Bản Để Trở Thành Huynh Trưởng:
Từ Danh Xưng Đến Hành Nguyện
The Fundamental Conditions for Becoming a Youth Leader: From Title to Vowed Practice

QUY CHẾ HUYNH TRƯỞNG GĐPT VIỆT NAM TẠI HOA KỲ
The Regulations for Youth Leaders of Gia Đình Phật Tử Vietnam in the United States ]
Chương Mở Đầu
Understanding And Living By The GĐPT Leadership Regulations
Chương I: Cấp Bậc
Leadership Ranks
Chương II: Bổn Phận – Nhiệm Vụ – Quyền Hạn
Duties – Responsibilities – Authority
Chương III: Huấn Luyện
Training
Chương IV: Quản Trị Huynh Trưởng
Management of GĐPT Leader

VI. Sự Đoàn Kết Giữa Huynh Trưởng Trong Bối Cảnh Phân Hóa: Nhìn Về Một Hướng
Unity Among Youth Leaders Amidst Division: Looking Toward a Common Direction

Kết luận
Conclusion