Saturday, May 23, 2020

Sự mầu nhiệm của Thân hòa đồng trú


Sự mầu nhiệm của Thân hòa đồng trú
......
Đại dịch đi qua, làm cho chúng ta định tỉnh, nhìn lại bản thân, gia đình, bạn hữu. Những ngày tháng tạm ngưng đến chùa sinh hoạt có khi làm cho những người tu Phật có nhiều thời gian hơn để “Phản quan tự kỷ” xem xét lại chính mình để tu chỉnh, sửa đổi ngay cách ăn, nếp ở cho hợp vệ sinh và nâng cao hệ miễn dịch cơ thể; quán xét tự tánh trước mọi vấn đề để biết tâm mình dung thông đến đâu. Phật tử đã quen sống đơn giản trong tinh thần “thiểu dục tri túc” [ít ham muốn và biết đủ] nên nhu cầu đời sống không có nhiều, không tăng nhiều trước sự tiện nghi, tiện dụng vượt trội của xã hội.
Muốn thân an, thời phải quán xét và thực hành câu Thân hòa đồng trú, trước để gìn giữ một thân thể khỏe mạnh, không để những mối bất hòa trầm trệ gây tổn hại cho thân thể. Chúng ta hãy quán xét sự chuyển động điều hòa của trái tim, làm chủ một mạng lưới tâm mạch đưa máu lưu chuyển khắp châu thân; Ngay lúc chúng ta ngủ nghỉ, quả tim vẫn phải làm việc chu cấp máu đều đặn suốt một đời người. Nếu trái tim ngưng đập, đồng nghĩa với sự chết chóc gần kề. Cũng vậy, chúng ta hãy quan sát sự vận hành của hai lá phổi, chủ của cơ quan hô hấp cung cấp oxy cho toàn thể; Ngay lúc chúng ta ngủ nghỉ, hai lá phổi vẫn phải làm việc chu cấp không khí đều đặn suốt một đời người. Nếu phổi bị tổn hại hoặc ngưng thở, có nghĩa là phải chết. Nguồn máu và oxy phải cung cấp kịp thời và đủ đầy cho hệ não bộ thần kinh, nơi điều hành về ý thức, tư duy cao cấp, điều khiển toàn bộ thân và tâm, nơi quyết định là niết bàn an vui hay khổ đau bất hạnh.
Chúng ta biết sống tử tế với hệ tiêu hóa hơn, khi ăn phải nhai cho kỹ, sử dụng cái lưỡi để lừa lọc những gì có hại cho bao tử mà nhả ra kịp thời trước khi nuốt vào bụng. Có thể chúng ta quên, mọi người đều có một tuyến nước bọt (Đông y gọi là ngọc dịch – Đạo gia sử dụng nước bọt để luyện đơn tâm), quý hơn tổ yến, hồng sâm.. để ăn, để nhai cho kỹ, và làm cho bao tử hoạt động nhẹ nhàng hơn khi tiêu hóa thức ăn. Gan, mật, tuyến tụy cũng đỡ khó nhọc; và hệ bài tiết như ruột non, ruột già, thận, bàng quang… cũng mạnh khỏe mà làm những công việc.. trường kỳ.
Nói như vậy để chúng ta cùng hiểu, trong ta đã sẵn có những hệ thống, những cơ quan rất trung kiên, rất chung thủy, cùng tự nguyện làm việc vô điều kiện để tạo sự lợi lạc cho nhau, cho một Thân hòa đồng trú; Nếu chúng tỵ nạnh, tranh cãi hay ganh ghét nhau, điều đó có nghĩa là “Thân bệnh”. Và mọi tổ chức đều có thể bị những căn bệnh như thế làm thân thể suy yếu, và mục đích lý tưởng rất khó mà tới được.
Ví dụ như thói quen ăn không cần nhai, sẽ làm tuyến dịch vị “thất nghiệp”; Nếu có tư duy thì tuyến nước bọt này sẽ rất buồn, và hàm răng cũng rất buồn vì nghĩ là người ta không cần mình nữa. Hậu quả là cả một hệ tiêu hóa làm việc rất khó nhọc, nội một sự truyền tống không điều hòa – Tiêu tiểu không thông cũng là cả vấn đề.
Quán xét thân thể như vậy để chúng ta biết, những bài tập vận động thể dục, Yoga, ... để bảo vệ những cơ quan trọng yếu là rất cần thiết; Chúng hoạt động cả đời không ngại, mà chúng ta mới vận động chỉ 5, 10 phút đã thấy chán mỏi rồi. Giáo dục nhằm để rèn luyện Đức – Trí – Thể dục, nếu không chú trọng đến thể dục của trẻ bằng như nuôi bệnh trong người. Thời học sinh chúng tôi, giáo sư Hùng Lân sáng tác bài ca Khỏe vì nước, trong đó có câu: “Dân sinh yếu nhược lôi theo mối nhục vong quốc – Dân sinh dũng cường đưa ta tới đài vinh quốc..” đủ thấy môn Thể dục học đường quan trọng đến mức nào.
Môn thể dục Yoga đã hiện diện trong nền văn hóa cổ đại của nhân loại rất lâu rồi; theo giáo sư Trần Văn Kha có thể hơn 3000 năm trước. Ngoài những động tác vận động từ đơn giản đến phức tạp nhằm đến mục đích đánh thức con rắn thần Kundalini nằm cuộn quanh từ đốt sống cuối cho đến não bộ thức dậy, tạo ra một năng lượng thể tâm linh, giúp người tập sống hướng thượng, cao thượng hơn trong ngũ trược hắc ám; Môn Hatha Yoga giúp cân bằng các hệ nội tiết; nhất là giới trẻ đang tuổi phát triển không bị rối loạn giới tính. Cho đến nay, môn này đang phát triển tại Việt Nam nhưng chỉ là thư giãn, giải quyết hiện tượng stress, áp lực công việc gây loạn tâm trí mà thôi. Bởi vì, trong một quần thể xã hội không coi trọng yếu tố thể dục, không tạo ra quy củ, nề nếp từ trẻ nhỏ, nên khi đến tuổi trưởng thành không tự điều tiết được bản thân, năng lượng thừa tích chứa trở lại thiêu đốt tự mình, là nguồn gốc sinh trăm thứ bệnh. Thế nên, khi Pháp luân công của Trung Quốc xuất hiện, sự luyện tập phối hợp giữa Thiền luân xa và thái cực khí công đã mau chóng tạo nên niềm tin (về tâm linh) và có tác dụng giải trừ bá bệnh do thiếu hay lười vận động gây ra, người theo học càng ngày càng đông khắp nơi trên thế giới.
Chúng ta tuy có một niềm tin về Đạo vốn thanh tịnh vô vi, nhưng khi trèo đèo vượt suối cũng còn phải đi bằng đôi chân của mình. Cho nên, tinh thần và thể lực, sức khỏe bền với tâm thư thái rất cần thiết như bóng với hình, đừng để bị rơi vào trạng thái “Tuổi thanh xuân sử dụng sức khỏe để kiếm tiền; Về già dùng tiền để mua lại sức khỏe” như lời Đạt Lai Lạt Ma khuyên nhủ.
Quán xét tự thân để thấy sự sống và sự hiện diện của chúng ta vốn là sự kết hợp từ nhiều điều màu nhiệm, và chúng ta cần phải chuyên cần trong bổn phận và nhiệm vụ tự nguyện của mình mà không nề hà khó nhọc hay lúc nào cũng thấy “chướng tai gai mắt”. Mười năm, hai mươi năm, hai mươi lăm năm, 45 năm.., thân thể này còn nguyên vẹn, mình còn chung ngồi lại bên nhau quả là một điều màu nhiệm của cuộc đời.

Đức Quảng

Wednesday, May 20, 2020

Tâm Lạc Nguyễn Văn Thục: Một sự chuyển tiếp cần thiết!

Lời dẫn

QUẢNG PHÁP: Nhân là dạo này, phần đông là nhiều anh chị em lam viên quê nhà mời tham gia thảo luận trong các diễn đàn, chưa kể các diễn đàn Phật Giáo. Thật tâm thì muốn giữ ý định không tham gia diễn đàn nào hết, không phải vì có ý nhận xét hay dở, đúng sai mà nhiều quá, tham gia chỗ này mà không nơi khác thì anh em hiểu lầm. Nhưng tham gia thì thời gian đâu mà chia sẻ cho đủ thấm, đồng đều. Do vậy mà xin góp ý một chút, chung với nhau. Rồi hạ hồi tùy duyên anh em chia sẻ cặn kẽ hơn, khi cần. Tóm lại là tùy duyên, vô trụ:
Anh chị em thân mến,
Để ý một chút, những năm gần đây, và nhất là những tháng sau này, nhiều diễn đàn áo Lam, xin được gọi một cách chung chung là như vậy, luân phiên mở ra, mỗi lúc một nhiều. Tuy chưa mở toang ra hết được, nhưng đó là một dấu hiệu mừng. Vì trước thực trạng tồn đọng từ nhiều năm qua, các cấp Hướng Dẫn thượng tầng, bằng các trang nhà chính thức, vẫn không đáp ứng được một nhu cầu thời đại, đó là tính Dân Chủ, trong đó quyền phát biểu (lên tiếng) của bất kỳ một đoàn viên nào đều phải được tuyệt đối tôn trọng, và bình đẳng. Và nhất là những tiếng nói, dù vượt qua ngưỡng xây dựng thành chỉ trích, phê phán v.v… đều phải được lắng nghe, đãi lọc lại bằng chính những người tiếp nhận với tâm lượng của bậc trưởng thượng. Trưởng thượng tôi muốn nói không phải là lớn tuổi lớn cấp, mà là người đang lãnh đạo tổ chức.
Lịch sử vì đó mù mịt, tương lai bước tới trên những đôi chân loạng choạng. Giữa hai thế hệ già và trẻ luôn có những xung đột quan điểm, dù không biểu hiện ra bề mặt, thì lại càng đúc nên nội kết để một hôm, như hiện trạng các diễn đàn đang thay nhau mở ra đại trà. Tôi tin là còn nhiều nữa, và nên được như vậy. Cho dù các cấp Hướng Dẫn có mở ra một diễn đàn chung để anh chị em bốn phương góp tiếng, thì Xã Hội Áo Lam vẫn cần những cái khác biệt, thậm chí có vẽ như là đối lập. Nhưng đối lập tiếng nói không có nghĩa khác mục đích lý tưởng xây dựng tổ chức. Anh em trẻ phải nắm bắt điểm yếu bất biến này, thì mới không đi ra ngoài cứu cánh muốn tổ chức Áo Lam phát triển thật sự và mang tầm thời đại.
Có một điều gì đó, mà do tâm cảnh truyền thống tổ chức, do tình cảm thiết tha, mà những điều gì được nêu lên khác đi với truyền thống, va chạm tình cảm thì tức khắc chúng ta rụt lại, thậm chí bảo vệ mà không biết sự bảo vệ đó lợi trước mắt, nhưng hại về lâu về dài. Một cơ chế lãnh đạo, mà khi cấp dưới muốn phê bình phải khép nép, rụt rè và sợ sệt thì cũng cần phải xem lại.
Đại Hội là dịp để gặp gỡ nhiều hơn là góp ý và thực hiện được điều gì to tát, có khi tạo thêm những tốn kém và tệ hơn là đổ vỡ không cần thiết. Nên nếu có, là nhờ những tác động từ những diễn đàn, tiếng nói trung thực một cách văn hóa, khoa học và bền bĩ mà anh chị em khắp nơi cần dõng mãnh lên tiếng và sẵn sàng chịu trách nhiệm với điều mình hành xử.
Tôi xin giới thiệu lên đây bài tham luận của Trưởng Niên Tâm Lạc Nguyễn Văn Thục, nguyên nhân anh viết bài này là sau chuyến đi Mỹ gặp gỡ đông đảo anh chị em Lam viên, bấy giờ tình hình sinh hoạt ở đây cũng phân chia nhiều nhánh, chừng 5 chứ không ít hơn. Trong buổi đó, trên bàn khách danh dự có cố trưởng niên Tâm Huệ Cao Chánh Hựu, Hồng Liên Phan Cảnh Tuân, Huynh trưởng Lệ Từ Nguyễn Thị Thu Nhi (nay là sư cô Huệ Tâm) và cố trưởng niên Tâm Lạc Nguyễn Văn Thục, tôi được anh chị ưu ái cho phát biểu. Câu phát biểu của tôi gút lại bằng một câu hỏi: “… Em thấy ở đây, tất cả anh chị trưởng nhiều phái ở trong hội trường này, ai cũng tự nhận mình là đàn em của anh Thục, anh Hựu anh Tuân v.v… mà giờ quý Anh nói, không ai nghe!” Bởi nghe thì đâu có tình trạng phân toái như vậy. Sau khi trở về trú xứ Úc Đại Lợi, anh gởi cho tôi bài tham luận đó, đăng đầu tiên trên trang nhà Hoa Đàm. Rồi giữ liên lạc với nhau cho đến ngày anh qua đời. Trong rất nhiều email anh gởi cho tôi, cảm động nhất là anh căn dặn: “Triết phải viết lại những biến động, diễn biến sinh hoạt của Hoa Kỳ gởi cho anh, để anh biết mà góp ý. Góp ý xây dựng thôi chứ không có kết luận ai đúng ai sai…” Tôi vâng dạ, dạ vâng mà mãi đến nay vẫn còn ôm ấp, nhưng xét cặn kẽ, cái gì nên nói, và không nên nói ở chỗ nào nên và không. Đó chính là mấu chốt để anh chị em tâm niệm khi mở diễn đàn. Mở thì không khó, nhưng phải biết nói cái gì, vì tất cả tâm cơ chúng sanh không phải như mình. Mà hễ anh em lên tiếng thì phải có đủ nội lực để kiến giải, trên nữa là hóa giải những dị biệt luôn luôn là mầm mống sẵn có.
Tóm lại, Diễn đàn nào cũng mở ra được hết, mở nhỏ hoặc toang ra thì tùy. Nhưng chắc chắc nếu người tham gia lẫn người phụ trách không cởi mở tấm lòng, nghĩa là thiếu chất Bi-Trí-Dũng vốn cần có và phải có của người Huynh Trưởng Áo Lam, thì cũng không làm gì mới hơn, hay hơn và có ích hơn cho tương lai tổ chức.
Có điều, một khi anh em trẻ không dám, không chịu gánh vác sứ mệnh thời đại thì cũng chẳng ai dám trao!

Mặc Cốc, 20 tháng 5, 2020.

Buổi họp mặt ao lam Hoa Kỳ mừng anh Tâm Huệ định cư tại Hoa Kỳ
và anh Tâm Lạc Nguyễn Văn Thục từ Úc đến thăm
Một sự chuyển tiếp cần thiết!
Tâm Lạc Nguyễn Văn Thục
Nếu chỉ lấy mốc thời gian từ năm 1951 trở đi, từ ngày các huynh trưởng tiền bối của Gia Đình Phật Hoá Phổ Bắc – Trung – Nam quyết định hợp nhất 3 Miền để tiến đến sự thống nhất của Gia Đình với danh xưng mới Gia Đình Phật Tử cho đến nay (năm 2004), thì Gia Đình Phật Tử cũng đã trải qua một đoạn đường dài suốt 53 năm, hoặc trong cảnh bình an hay sóng gió, đau buồn, rồi vui vẻ, tiếng cười, tiếng khóc… hoà lẫn cùng máu và mồ hôi nước mắt, tù đày…, tiếp theo là những ngày tháng vinh quang…
Nếu một đoàn viên Áo Lam khởi sự tham dự khoá Lộc Uyển vào năm 1951 với 19 tuổi đời, thì ngày nay Huynh trưởng ấy được 72 tuổi…, và đã được xếp vào hàng Huynh trưởng cao niên. Dựa theo Nội Qui của GĐPTVN truyền thống thì cứ 2 năm một lần, một Đại hội huynh trưởng được triệu tập để điều chỉnh nội qui, duyệt lại Qui chế Huynh trưởng, bầu lên một tân Ban Hướng Dẫn, bổ xung nhân sự và canh tân hóa theo đà phát triển nhanh chóng của tổ chức.
Qua quá trình nhiều thập niên 50, 60…, 90, Tổ chức không ngừng đào tạo những lớp huynh trưởng mới hầu trẻ hoá thành phần lãnh đạo, trao truyền lần hồi những nhiệm vụ chủ não đến tay các thế hệ huynh trưởng kế tiếp trong các đơn vị Gia Đình, các Ban Hướng Dẫn Tỉnh hay Trung Ương…, áp dụng phương sách “vết dầu lan” dần trong kế hoạch trường kỳ của Tổ chức.
Nhưng có thể vì tình cảm sâu đậm gia đình Lam Viên với nhau, vì sự tôn trọng người đi trước, muốn lưu giữ các anh chị của mình ở những chức vụ cũ một thời gian lâu dài hơn. Cũng có thể vì cảm thấy chưa dày dặn kinh nghiệm về mặt điều khiển, tổ chức hay một phần vì tuổi tác, tự cảm nhận chưa được đầy đủ uy tín và khả năng lãnh đạo, đặc biệt về phương diện giao tế đối ngoại khi phải tiếp xúc với phụ huynh đoàn sinh, liên hệ với các Bác đạo hữu trong Ban Trị Sự Hội Phật Học hay Chư Tôn đức lãnh đạo Giáo hội v.v…, nên phần đông anh chị em Huynh trưởng trẻ vẫn thích ở lại với Đoàn quen thuộc, muốn được tiếp tục sinh hoạt tại đơn vị Gia Đình địa phương thân thương của mình. Vạn bất đắc dĩ, khi một chức vụ trong Ban Hướng Dẫn bị khiếm khuyết thì anh chị em mới chịu nhận lời theo sự tiến cử của Tổ Chức.
Ngày xa xưa ấy…, Phật tử Áo Lam thường ví miền Trung là cái nôi của Tổ Chức trong phạm vi nhỏ của một đất nước hình chữ S, thì ngày nay, sau 60 năm với bao sự biến chuyển, biến cố, đổi đời, rõ nét nhất từ thập niên 80, Gia Đình Phật Tử Việt Nam đã có mặt khắp năm châu, bốn biển, nên những thành viên Áo Lam tại hải ngoại, mỗi lần nhắc đến hay nhớ tưởng, hướng về quê hương đất tổ thường kêu gọi một cách thân thương Gia Đình Phật Tử Việt Nam Truyền Thống.
Nói về Gia Đình Phật Tử tại Việt Nam, Gia Đình Phật Tử Truyền Thống nhờ được khai sinh”, phát triển tại đất tổ, trong một môi trường, một xã hội thuần hậu đạo đức mà Phật giáo chiếm đến 80% dân số, dù đồng bào đã phải trải qua bao đau thương dưới ách đô hộ của ngoại bang, vì nạn xâu xé nội chiến, dù Đạo Pháp lâm vào thời mạt pháp, nhưng Gia Đình Phật Tử Việt Nam dưới sự che chở, đùm bọc của các Tập đoàn mẹ, Giáo Hội Tăng Già, Hội Phật Học… và sau này, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, vẫn giữ được tinh thần đoàn kết, thống nhất bất khả phân, vẫn củng cố nội bộ, phát triển qua năm tháng cho mãi đến năm 1981, Giáo Hội gặp đại nạn, nội bộ phân ly, Gia Đình Phật tử Việt Nam Truyền Thống do đó cũng bị ảnh hưởng trầm trọng, phải chuyển mình và chấp nhận một sự chuyển tiếp bất đắc dĩ!
Những Huynh Trưởng, thế hệ thập niên 80, 90 lần lượt lấp vào những khoảng trống, phải đảm nhận những chức vụ chủ chốt của Tổ Chức từ cơ sở hạ tầng đến Trung Ương, song song với sự trưởng thành và phát triển tự nhiên của các lớp đoàn sinh, Oanh Vũ bước lên Ngành Thiếu, Thiếu lên Thanh, Thanh nam, Nữ… trở thành lớp Huynh Trưởng trẻ Bồ tát đạo vững mạnh, kiên cố của Tổ Chức.
Khoa học hiện đại, kỹ thuật tân tiến khách quan chuyển đổi nền kinh tế, xã hội trở thành tích cực hay tiêu cực, phồn thịnh hay suy đồi tuỳ theo mỗi quốc gia, sắc tộc. Thời gian, không gian và môi trường không ít đã là những động lực thúc đẩy sự chuyển mình và đóng một vai trò khá quan trọng về mặt tâm lý, cảm nhận, nhân sinh quan, tâm linh quần chúng.
Thời kỳ học sinh dùng ngòi viết lá tre chấm mực tím, mực đỏ đến lúc giắt cây viết máy bơm mực (fountain-pen) trên túi áo sơ mi, hay công chức còn ngồi gõ lọc cọc trên bàn phím máy đánh chữ (type-writer) vào những năm 70 – 80, viết tài liệu bằng tay trên giấy sáp, quay in rô-nê-ô đều đã qua rồi. Thời buổi mà thanh niên còn chịu khó đi mua vé để vào ngồi xem cải lương, nghe vọng cổ, hát bội chắc cũng không còn thấy mấy nữa!!!
Don Truong Thuc den HK 2.jpg
Những đoàn sinh mới gia nhập GĐPTVN vào những năm 90 trở về sau, những anh chị em lớp Huynh trưởng trẻ, Trung niên và những Huynh Trưởng Cao Niên, tuy tình cảm đối với Hoa Sen Trắng vẫn nồng ấm, sâu đậm như nhau, đều bắt ấn Cát Tường chào và nhắc nhở nhau Bi – Trí – Dũng, nhưng thử hỏi khi một thành viên, trân quý ngồi đọc lịch sử qua các tập Kỷ Yếu Gia Đình Phật tử Việt Nam – 50 năm xây dựng, hay ngồi lật xem những hình ảnh kỷ niệm, đọc các đoạn văn lưu bút trong các Kỷ Yếu của Gia Đình Phật tử A, Gia Dình B, C, D…, của 10, 20, 30 năm qua, sẽ có những cảm nhận, suy tư như thế nào khi thoáng tưởng tượng, hình dung một bối cảnh (sẽ định hình) của Đại Gia Đình Phật Tử Việt Nam của chúng ta vào những năm 2015?
Vẫn biết rằng trong bao năm qua các Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVN Truyền Thống (tại Việt Nam) cũng như tại Hải Ngoại, Anh Chị Em Huynh Trưởng đã phải nỗ lực, dốc chí đặt vấn đề tu chỉnh, canh tân hoá nội quy và quy chế huynh trưởng lên hàng đầu của mọi kế hoạch hành hoạt của Ban, hầu theo kịp đà tiến hoá nhanh lẹ của xã hội văn minh, thích ứng với hoàn cảnh, môi trường mới, NHƯNG rất tiếc! rất tiếc! rất tiếc!!!
Tại Việt Nam, vì chưa có điều kiện, vì thiếu thuận duyên nên khó lòng điều chỉnh hay sửa đổi hai văn kiện lập quy cơ bản trên một cách đại quy mô như toàn thể Lam Viên khắp nơi hằng mong đợi. Và chính vì tôn trọng nguyên tắc trên nên Anh Chị Em Huynh Trưởng đành phải… lưu giữ và tuỳ nghi áp dụng mỗi Mục, mỗi Điều tuỳ thời và theo mức độ cho phép.
Tại Hải Ngoại, tuy môi trường, hoàn cảnh tốt hơn nhưng khách quan mà nói, thì chưa hẳn có thể nói là đã có những điều kiện thuận lợi để tiến hành công tác lớn lao này. Vì sao?
Tại mỗi địa phương nói chung, không phải vì thiếu phương tiện di chuyển nhưng là vì ngay tại mỗi quận (county) Anh Chị Em cũng đã ở cách xa nhau những 2, 3 tiếng đồng hồ lái xe; từ Tiểu Bang (state) này qua Tiểu Bang khác cách nhau những hàng ngàn cây số đường bay. Muốn gặp mặt nhau, muốn tổ chức một buổi họp mặt để bàn chuyện Gia Đình, thảo luận Phật sự, hoặc chỉ muốn tổ chức một lớp tu học thu hẹp v.v… cũng đã là một vấn đề, đòi hỏi nhiều sự hy sinh ở mỗi cá nhân huynh trưởng.
Vì còn phải lo toan bao công việc không tên… nào là kế sinh nhai, đưa con đi học thêm, làm việc nhà, việc giao tiếp bà con và bạn bè vào ngày nghỉ cuối tuần…, thì quả thật khó lòng bỏ qua, miễn tránh được.
Vì vậy vào ngày chủ nhật, ngoài nạn thiếu huynh trưởng, thêm vào những nguyên nhân nói trên nên tại các đơn vị GĐPT thường bị thiếu người phụ trách vào các giờ sinh hoạt chính như Phật pháp, dạy Việt ngữ, kể chuyện đạo, cùng đọc lịch sử Việt Nam, hoạt động thanh niên.v.v…
Trong vấn đề giao tiếp thường nhật giữa Huynh trưởng và đoàn sinh các thế hệ khác nhau, ngôn ngữ không phải là một trở ngại, nhưng đứng về phương diện giáo dục, hướng dẫn đoàn sinh về Phật pháp, khuyến khích các em tu học, tạo tình cảm yêu quê hương dân tộc, thì lại có những sự kiện, sự việc khách quan và chủ quan, cần được lưu tâm như nếp sống xã hội âu hoá, tâm lý và tình cảm của lớp trẻ ngày nay do ảnh hưởng của môi trường, lề lối giáo dục tự do và bình đẳng” tây phương, đặc biệt là chưa có thể áp dụng kịp thời và thích ứng phương pháp truyền dạy Phật pháp theo thể thức song ngữ. (Tuy nhiên, cũng là một điều thiếu sót nếu chúng ta quên không nêu lên được một vài điểm son của thế hệ thứ ba trong cộng đồng người Việt tại hải ngoại, đó là lớp trẻ ngày nay là một thành phần năng động, có trình độ kiến thức và chuyên môn cao, sớm thành đạt, dễ dàng tiếp thu với tinh thần học hỏi cầu tiến…)
Điều cần lưu tâm là phần đông đoàn sinh (thế hệ thứ ba, thứ tư) chưa nghe, nói và viết thông thạo tiếng việt.
Thử tìn hiểu xem, qua các ngành Oanh, Thiếu trong mỗi đơn vị Gia Đình, có được bao nhiêu đoàn sinh nghe, nói và viết rành rẽ tiếng việt (?); được bao nhiêu em thích đọc sách hay báo chí việt ngữ (?), được mấy em có thể ngồi vẽ nhanh và sơ lược bản đồ Việt nam, phụ ghi thêm địa danh, tên các thành phố, tỉnh (?)
Hàng ngũ huynh trưởng, đặc biệt là lớp huynh trưởng trẻ, ít có thì giờ tu học, ít được gần gũi chư vị Cao Tăng, Ni, được hầu chuyện cùng Thầy, Cô cố vấn giáo hạnh để được hướng dẫn trực tiếp về mặt tâm linh. Ở đây chúng ta cũng chưa đạt vấn đề… vì không thông hiểu nhiều về chữ Nho, không am tường về Hán ngữ nên vấn đề tìm hiểu, tu học KINH – LUẬT – LUẬN là một trở ngại đáng tiếc.
Tổ chức chưa có thể hay chưa đầu tư nhiều về vấn đề nghiên cứu, mở thêm những khoá huấn luyện đặc biệt, thực tiễn đào tạo kịp thời những Huynh trưởng chuyên nghiệp sư phạm có khả năng đáp ứng nhu cầu tình hình sinh hoạt hiện tại và tương lai tại các đơn vị Gia Đình địa phương, với thành phần đoàn sinh chưa nói và nghe thông thạo tiếng Việt hay đón nhận thêm lớp đòan sinh mới từ các sắc dân bạn.
Trước kia tại quê nhà, dưới thời kỳ Pháp thuộc, địa bàn hoạt động bị thu hẹp trong khuôn viên Chùa, ngoài tổ chức Hướng Đạo quốc tế, các đoàn thể Thanh, thiếu , đồng niên Việt Nam không được phép tham gia hoạt động và làm công tác xã hội, và… về sau, qua các thể chế kế tiếp, vấn đề hoạt động có tính cách xã hội và chính trị cũng bị hạn chế, xem như tối kỵ đối với Tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam.
Nhưng ngày nay, tại Hải ngoại…, quan niệm, tư duy, pháp luật đều khác hẳn. Thanh, thiếu và Đồng niên không chịu bị gò bó trong phạm vi hạn hẹp, và nhận thấy, không tham gia công tác xã hội là một sự thiếu sót lớn…, trốn tránh trách nhiệm. Khó thực hành tinh thần BI – TRÍ – DŨNG một cách vẹn toàn…, khó phát triển được Tổ chức, đưa đạo vào đời đối với giới trẻ hiện nay.
Vấn đề Kỷ luật đoàn thể, kỷ luật tập thể không phải là một điều mới lạ đối với Huynh trưởng hay đoàn sinh trẻ. Áp dụng 5 điều luật đối với huynh trưởng, Ngành Thanh và Ngành Thiếu, hay 3 điều luật đối với Ngành Oanh không phải là một chuyện khó tại hải ngoại.
Nhưng điều cần phải nói là chúng ta Hàng huynh trưởng đàn Anh không thể quy lỗi về phía giới trẻ mà là vì chúng ta chưa thật hiểu đàn em của mình, đặc biệt về tâm sinh lý, về quan niệm giáo dục… tôn ti trật tự, về nhân sinh quan, tình cảm và giao tiếp Tây phương gia cha mẹ, con cái, gia thầy, cô giáo với học sinh.
Ngày xưa ấy tại quê nhà, phần đông các Huynh trưởng xuất thân từ ngành giáo dục, đoàn sinh là học sinh của mình; về tuổi tác, về trình đô kiến thức, kinh nghiệm thì cách nhau nhnh 10, 15 năm; môi trường sinh hoạt thì hạn hẹp chỉ quây quần trong phạm vi trường học, gia đình gốc Phật, sinh hoạt ngay tại sân chùa, thường được tiếp xúc với đạo hu, được gần gũi với Chư Tăng, Ni… nên khi đề cập đến chương trình tu học Phật pháp của đoàn sinh hay Huynh trưởng, chúng ta không vấp phải nhiều trở ngại, khó khăn như ngày nay tại Hải ngoại.
Tại hải ngoại trong vòng 4 hay 5 tiếng đồng hồ sinh hoạt hàng tuần của một đơn vị Gia Đình, Ban Huynh trưởng khó lòng sắp xếp được nhiều thời giờ dành riêng cho môn Phật Pháp: Mỗi tháng nếu không có một sự quyết tâm cao, không chịu hy sinh thời giờ, tiền chi phí di chuyển để tổ chức những đêm tu học Phật pháp, thỉnh mời được qúi Thầy, Cô giảng dạy và hướng dẫn tâm linh thì Anh chị em huynh trưởng phải chịu nhiều thiệt thòi.
Vấn đề được đặt ra là cần nghiên cứu lại, giản dị hoá, rút ngắn lại chương trình tu học của Đoàn sinh và Huynh trưởng…
Xin thưa:
Bất cứ Huynh trưởng nào trong chúng ta, chắc chắn anh chị em cũng đã suy nghĩ nhiều, cũng đã tìm và đề nghị nhiều sáng kiến hay, nhiều biện pháp thực tiễn để giúp Tổ chức phát triển mạnh và lâu dài. Nhưng thiết nghĩ, không gì bằng là chính anh chị em Huynh trưởng lớp trẻ bắt tay vào việc nghiên cứu và vạch một hướng đi mới phù hợp với Gia Đình Phật Tử Việt Nam Quốc Tế trong Thiên Niên kỷ 21 này.
Và đây chính là Lý do mà tôi đã mạo muội đặt đề tựa của bài viết này: Một sự chuyển tiếp thật cần thiết.
Nam Mô Thường Hoan Hỷ Bồ Tát Ma Ha Tát.

Tuệ Sỹ: Phát triển tâm từ



VĂN-THÙ hỏi Duy-ma-cật: [1]«Bồ tát nên quán sát chúng sanh như thế nào?»
Duy-ma-cật đáp:«Như nhà ảo thuật quán sát con người ảo hóa do mình tạo ra; Bồ tát nên quán sát chúng sanh cũng như vậy. Cũng như bậc trí giả nhìn trăng nơi đáy nước; nhìn bóng mình trong gương; nhìn ánh lửa khi nhiệt bốc;[2] như tiếng vọng của lời gọi; như mây nổi trong bầu trời;[3] như đám bọt nước;[4] như bong bóng trên mặt nước;[5] như lõi chuối rỗng; như ánh chớp lóe kéo dài;[6]
(…)
Bồ tát nên quán sát chúng sanh cũng như vậy.»
Văn-thù-sư-lợi hỏi:«Bồ tát quán như thế thì làm sao thực hành lòng từ?»[7]

1. Từ thế giới quan đến nhân sinh quan

Trên đây, mặc dù câu hỏi của Văn thù là sự quán sát chúng sinh, Bồ tát nhận thức về chúng sinh như thế nào; trong giải thuyết của Duy-ma-cật, chúng sinh được nhận thức như một cá thể của thế giới, một pháp trong tất cả pháp, bị chi phối bởi các quy luật tồn tại như tất cả mọi sự hữu. Đó là cái nhìn khắc kỹ lạnh lùng. Nếu thế giới và chúng sinh là giấc mộng, và những hoạt cảnh của giấc mộng trong đó mọi vui buồn, đều chỉ là giả dối; vậy thì, người đã nhận thức ra giấc mộng, đã tỉnh mộng, không còn bận tâm gì đến nó. Cho nên, Văn thù mới đặt câu hỏi: Nếu quán sát như thế, Bồ tát làm thế nào để phát triển tâm từ?
Cũng ý nghĩ tương tự, trong kinh Bát nhã, sau khi nghe Xá-lợi Tử thuyết minh về sự tu tập ba-la-mật của Bồ tát bằng tịnh giới mà chuyển hướng tâm đến cứu cánh thành tựu trí Nhất thiết trí, Mãn Từ Tử liền hỏi,  “Nếu hết thảy pháp đều như huyễn, hoàn toàn không thực chất tồn tại, Bồ tát làm thế nào để chuyển hướng đến cứu cánh trí Nhất thiết trí?” Xá-lợi Tử đáp, “Nếu hết thảy các pháp có một phần thực hữu mà không phải là huyễn sự, thế thì Bồ tát tuyệt đối không thể chuyển hướng đến trí Nhất thiết trí… Do bởi tác nghiệp của phương tiện thiện xảo, sinh ra từ đại bi tâm của Bồ tát đối với hết thảy chúng sinh; do phương tiện thiện xảo mà Bồ tát biết hết thảy các pháp đều là Không; và cũng do phương tiện thiện xảo đó mà Bồ tát không cố ý an trụ trong chân lý của tuyệt đối tịch tĩnh.”[8]
Quán chiếu của Bồ tát cũng như quán chiếu của Thanh văn, đó là thực huệ. Diệu dụng của thực huệ là phương tiện, mà tự thể của phương tiện là tâm đại bi. Như một người có trí, nhận thức được nguy cơ tàn phá của dòng thác lũ, không thể không khuyến cáo những ai đang sống trên dòng chảy của con thác. Bồ tát cũng vậy, ánh sáng từ con mắt trí tuệ của Bồ tát khi quán chiếu thực tại như huyễn, thì cũng đồng thời cảm nghiệm được nỗi khổ của chúng sinh bị nhận chìm trong dòng thác như huyễn đó, cho nên tự nguyện trở thành là người bạn của hết thảy. Kinh Phật mẫu Bát nhã nói, “Bồ tát do tu tập Bát nhã ba-la-mật mà thành tựu chính trí. Bằng trí tuệ ấyBồ tát nhận thức chúng sinh đang bị gông cùm đày đọa trong lao ngục, bèn phát khởi tâm nguyện cứu trợ. Bấy giờ, Bồ tát được hỗ trợ bởi tâm đại bi, và bằng thiên nhãn thanh tịnh mà quán sát cùng khắp vô lượng vô số vô biên chúng sinh, thấy có chúng sinh tạo nghiệp vô gián sẽ phải thọ báo kịch khổ, hoăc thấy rơi vào lưới tà kiến không sao thoát được; thấy như vậy tức thì khởi tâm đại bi, nguyện rằng, ta sẽ làm chỗ nương tựa cho chúng sinh, diệt trừ mọi thống khổ cho chúng sinh. Bằng tư duy như vậy, mà không trụ trong tướng đó, cũng không trụ trong tướng khác. Đó gọi là ánh sáng trí tuệ của Đại Bồ tát.”[9]
Bồ tát như vậy được ví như một người tài ba, mưu trí và dũng cảm, cùng với thân quyến và bằng hữu đang lữ hành băng qua hoang mạc đầy nguy hiểm. Tất nhiên, tự mình, ông có thể vượt qua hoang mạc ấy một cách an toàn; nhưng ông cũng không thể bỏ mặc mọi người. Bằng tất cả tấm lòng yêu thương chân thật, ông không sợ nguy hiểm cho bản thân trong khi bằng mưu trí khéo léo ngăn ngừa mọi tai họa có thể ập đến bất ngờ cho những người thân yêu của mình, bao che và an ủi họ trong những cơn kinh sợ hãi hùng. “Các Bồ tát cũng vậy, thương xót các sinh loại hữu tình chìm ngập trong thống khổ sinh tử nên nhất tâm chuyên niệm từ bi hỷ xả, được nâng đỡ bởi thiện căn thù thắng do tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa, được hỗ trợ bởi phương tiện thiện xảo của chư Phật, tích lũy các công đức hướng đến Vô thượng Chính giác, tuy tu tập Không, Vô tướng, Vô nguyện, nhưng tâm không tác chứng nơi thực tế.”[10]
Quán chiếu tự tính Không mà chẳng hề chứng nhập thực tế Không, không an trụ trong biên tế như thực của tính Không như là cảnh giới an toàn của chính mình, Bồ tát vẫn phải lăn lóc trong sinh tử như hết thảy chúng sinh khác. Như Duy-ma-cật nói với Văn thù: “Si và hữu ái là nguồn gốc của bệnh tôi. Vì hết thảy chúng sanh bệnh mà tôi bệnh. Bao giờ hết thảy chúng sanh đạt đến chỗ không bệnh, bệnh tôi sẽ hết. Vì sao? Bồ tát, vì chúng sanh mà đi vào sinh tử. Có sinh tử thì có bệnh. Nếu hết thảy chúng sanh được thoát ly bệnh khổ thì Bồ tát không còn bệnh.”[11]

2. Bốn Phạm trụ và Vô lượng tâm

Bồ tát phát triển tâm đại bi như thế nào? Tu tập từ, bi, hỷ, xả; bốn vô lượng tâm mà Phật giảng dạy cho các Thanh văn. Một thời, tôn giả A-nan dẫn các tỳ kheo trẻ đến đức Phật, thỉnh cầu Phật giáo giới, làm thế nào để hướng dẫn các tỳ kheo trẻ tu tập, Phật dạy, “A-nan, Ta đã từng giảng thuyết cho ngươi về bốn vô lượng. Tỳ kheo thành tựu và an trụ tâm tương ưng với từ, tràn đầy khắp một phương, cho đến bốn phương, trên dưới… Cũng vậy, an trụ tâm bi, tâm hỷ, tâm xả… A-nan, ngươi hãy dạy các tỳ kheo trẻ tu tập bốn vô lượng này để cho các tỳ kheo được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu phạm hạnh…[12]
Bốn vô lượng này cũng được gọi là bốn Phạm trụ. [13] Đó là bốn tâm tư để cho một người mà đời sống được coi là tương ứng với Phạm thiên, và với tâm ấy sau khi chết được tái sinh lên thế giới của Phạm thiên. Tăng nhất A-hàm nói, có vị Thiên chúa gọi là Đại Phạm, thống lãnh một nghìn thế giới, tối thượng không gì vượt qua. Nếu tỳ kheo tu tập bốn Phạm trụ này, tâm tư có thể bao trùm cả một nghìn thế giới như vậy. Tỳ kheo muốn siêu việt Dục giới để sống trên cõi Phạm thiên giới, hãy tu tập bốn vô lượng này.[14]
Một thời, khi Phật trụ tại vương quốc Câu-tát-la; bấy giờ có hai thanh niên Bà-la-môn tranh luận nhau về con đường dẫn đến cộng trú với Phạm thiên, nghĩa là được nhìn thấy và sống gần bên Thiên chúa. Tất nhiên họ đều y trên tín điều tôn giáo được truyền bởi các Thánh điển Vệ-đà như nhau, nhưng mỗi người hiểu theo một cách khác theo trường phái Sư truyền của mình. Hai người tìm đến Phật, đề nghị phân giải. Đức Phật không bác bỏ sự tồn tại của Phạm thiên, và giảng giải cho họ rằng chỉ có thể đi đến Phạm thiên, sống với Phạm thiên, những ai mà tâm tư tương ứng với phẩm chất Phạm thiên. Tâm tư ấy là bốn vô lượng: từ, bi, hỷ, xả.[15] Nói cách khác, nếu hiểu theo tín điều tôn giáo của họ, theo đó, Phạm thiên hay Thiên chúa là tình yêu; vậy thì, một người với tâm thù hận không thể sống chung với một người mà tâm tư luôn tràn ngập tình yêu. Như vậy, đức Phật đồng thời bác bỏ quan điểm truyền thống, tin tưởng tập tục lễ nghi tế tự và cầu nguyện của Vệ-đà để có thể thấy được Phạm thiên.
Nếu tu tập bốn vô lượng như là bốn Phạm trụ, thiền cao nhất mà người thực hành có thể đạt đến là Sơ thiền. Bởi vì, kết quả của Sơ thiền là cõi Phạm thiên, phân thành ba cấp theo ba trình độ cao thấp khác nhau trong Sơ thiền. Ba cấp ấy là, từ dưới thấp kể lên, Phạm chúng thiên,[16] cõi của cư dân của Phạm thiên, tức các linh hồn con dân của Thiên chúa trên Thiên đường nước Chúa. Cao hơn, là Phạm phụ thiên,[17] các vị trợ tế, hay các đại thần của Phạm thiên; tức các Thánh trên thiên đường. Cao nhất, chỉ một ngôi vị duy nhất, là Đại Phạm thiên,[18] chúa tể của một nghìn thế giới; được xem là đấng biến mãn, toàn năng, nhưng chỉ giới hạn trong một nghìn thế giới mà thôi.
Vượt lên trên Phạm trụ, các trình độ thiền đạt được bằng các vô lượng tâm khác nhau. Theo lý giải của Hữu bộ, tu hỷ vô lượng cần phải y trên Sơ thiền và Nhị thiền, vì trong hai thiền này hỷ đều hiện diện. Ba vô lượng còn lại y trên sáu địa mà tu tập, tức bốn thiền, vị chí định và trung gian định; hoặc chỉ y trên năm địa, trừ vị chí định.[19] Hữu bộ cũng nói, thành tựu cao nhất của tu tập từ vô lượng là đạt đến Biến tịnh thiên, tầng thứ ba cao nhất trong Đệ tam thiền. Tu bi vô lượng, cao nhất đạt đến Không vô biên xứ thiên, tầng thứ nhất trong bốn vô sắc định. Tu hỷ, cao nhất đạt đến Thức vô biên xứ thiên, tầng thứ hai trong bốn vô sắc định. Tu xả, cao nhất đạt đến Vô sở hữu xứ thiên, tầng thứ trong bốn vô sắc định.[20]
Như vậy, bốn vô lượng nếu được tu tập như là bốn Phạm trụ, chỉ có mục đích thế gian, mong cầu kết quả phước báo trên chư thiên. Bốn vô lượng được thực hành bởi các Thanh văn cũng chỉ hướng đến mục đích tự lợi, như là một trong các phương pháp tu tập thích hợp để đối trị tham sân. Như tu từ để đối trị sân tâm, tu bi đối trị hại tâm, tu hỷ đối trị bất hân ủy tâm (bất mãn, không hài lòng), tu xả đối trị dục tham.[21]
Mặc dù như trong kinh được trích dẫn bởi Thanh tịnh đạo luận, theo đó khi một tỳ kheo đến thỉnh cầu Phật chỉ dạy một pháp môn rồi ông sẽ thọ trì pháp môn để tu tập hầu đạt đến cứu cánh, và thoạt đầu Phật không mấy tin tưởng vào khả năng tu tập của tỳ kheo này nên đã chỉ dạy cho bốn vô lượng tâm, tu tập tâm giải thoát với từ, bi, hỷ, xả; tu tập thường xuyên coi như là cỗ xe, như là cơ sở, nỗ lực thực hành, tích lũy, cho đến mức hoàn hảo.[22] Thế nhưng, tiếp theo sau đó là tu tập bốn niệm trụ để diệt tận phiền não, chứng đắc A-la-hán. Cho nên, các nhà Hữu bộ nói, bốn vô lượng được tu tập chỉ có thể đối trị bốn chướng chứ không thể diệt trừ các mê hoặc, phiền não.[23] Lý do được giải thích, là vì các thiền là cơ sở để tu bốn vô lượng này đều có tính hữu lậu không có hiệu lực diệt trừ mê hoặc. Thêm nữa, chúng là những tác ý thắng giải, nghĩa là chỉ y trên ước nguyện, hay trên phán đoán tự do chứ không phải phán đoán bằng hiện thực. Tuy nhiên, chúng cũng có thể được tu tập trong giai đoạn gia hành, tức như là những tu tập chuẩn để trấn áp các chướng ngại trước khi thực sự đoạn trừ các phiền não.
Theo một cách nói, tu bốn vô lượng như vậy chính là sự vận dụng ước nguyện, lấy đó làm công cụ đối trị các chướng ngại. Như đối với các chúng sinh đang sống an lạc, hành giả lấy đó làm đối tượng mà khởi lên tâm từ, mong rằng hết thảy chúng sinh đều được an lạc. Cũng vậy, khi tu bi vô lượng, hành giả rải tâm đến hết thảy chúng sinh đang đau khổ với ước nguyện mong cho hết thảy chúng sinh thoát khỏi khổ não. Sự khởi tâm như vậy là thắng giải tác ý, nghĩa là y trên phán đoán tự do, chứ không phải là chân thật tác ý, là phán đoán căn cứ hiện thực. Tư duy như vậy, như Thế Thân nói, chỉ là ước nguỵện, chứ không thực sự khiến cho chúng sinh nhờ vậy mà hưởng lạc, thoát khổ. Như vậy, há không phải là điên đảo? Nghĩa là, tu tập với tâm hướng đến sự thể mà sự thể sẽ không xảy ra như tâm tưởng. Tất nhiên là không điên đảo. Vì cơ bản, a-thế-da,[24] tức thâm tâm hay ý hướng của hành giả là chân thật. Nói cách khác, đó là những ước nguyện chân thật, tuy không được thể hiện thành sự thực như ước nguyện.
Đó là tính chất của bốn vô lượng được tu tập bởi Thanh văn.

3. Bốn vô lượng và ba đối tượng

Các nhà Đại thừa cũng nhận bốn vô lượng tâm, về cơ bản, là bốn Phạm trụ. Ngoài ý nghĩa chính của vô lượng tâm là đối trị chướng như trong sự tu tập của Thanh văn, trong Đại thừa còn nêu lên ba đặc tính khác nữa của bốn Phạm trụ hay Vô lượng. Trang nghiêm kinh luận nói, “Bốn Phạm trụ tức bốn Vô lượng: từ, bi, hỷ xả. Trong đó, bốn vô lượng của Bồ tát có bốn đặc tính: 1. Trị chướng, tức đối trị các chướng ngại, nghĩa là trấn áp các phiền não. 2. Hiệp trí, sự đối trị đặc biệt do chứng đắc trí vô phân biệt. 3. Chuyển cảnh, hướng đến đối tượng là chúng sinh duyên, pháp duyên và vô duyên. 4. Thành sinh, thực hiện những nghiệp thù thắng để thành thục chúng sinh.”[25] Tức là, Thanh văn tu bốn vô lượng chỉ nhắm đến đối tượng duy nhất là chúng sinh, trong khi đó Bồ tát còn y trên đối tượng là pháp để quán chiếu bản tính tồn tại của chúng sinh, và sau cùng y trên đối tượng vô phân biệt mà phát khởi bốn vô lượng.
Y trên các đối tượng như vậy để phân biệt, khi lấy chúng sinh làm đối tượng, bốn vô lượng hay bốn Phạm trụ là thực hành trong phạm vi Dục giới, chung cho các phàm phu và ngoại đạo. Bởi lẽ, tín đồ của các tôn giáo chỉ ước nguyện sinh lên trời, sinh về nước Chúa để có thể diện kiến Thiên chúa ở đó. Tình yêu của chúng sinh ở Dục giới không thể trùm lên các cõi trên, Sắc giới và Vô sắc giới. Cho nên, khi kinh nói, “tâm câu hữu với từ, trùm khắp một phương[26] là nói đến không gian của Dục giới đối với chúng sinh chưa ly Dục, hay chưa đắc Sơ thiền trở lên. Thêm nữa, y trên đối tượng là chúng sinh, chỉ quán chiếu đến các điều kiện khổ hay lạc của chúng sinh mà không quán chiếu bản chất tồn tại của chúng, đó là sự vận dụng tâm ý một cách chủ quan.[27] Do tính chất chủ quan như vậy nên không thể diệt trừ phiền não. Phiền não chỉ có thể bị đoạn trừ với nhận thức chân chính về bản chất của tồn tại. Ngoài ra, chúng chỉ bị trấn áp. Nói cách khác, chỉ khi nào tư duy tập trung quán chiếu trên đối tượng là pháp, quán chiếu bản chất tồn tại của pháp, chỉ như vậy mới diệt trừ được phiền não.[28] Cho nên, luận Du-già nói, bốn vô lượng được tu tập với đối tượng là hữu tình là hành trì phổ thông cho cả phàm phu lẫn ngoại đạo. Lấy pháp làm đối tượng, là pháp tu bất cộng, hay đặc hữu của Thanh văn và Độc giác. Vô duyên, tức đối tượng vô phân biệt là  thực hành riêng biệt của Bồ tát.[29]
Trong đó, vô duyên từ được giải thích là thực hành của Bồ tát từ địa thứ tám trở lên. Ở đó, Bồ tát duyên đến đối tượng Chân như để quán chiếu. Khi chứng đắc vô sinh pháp nhẫn,[30] bấy giờ tất cả thiện căn đều viên mãn, và hết thảy phiền não được diệt tận, do bởi thân và ngữ nghiệp, mà Từ vô lượng y trên đó để thể hiện, bấy giời hoàn toàn thanh tịnh.[31] Địa thứ tám của Bồ tát tương ứng với quả vị A-la-hán của Thanh văn, ở đó phiền não cũng đã bị diệt tận, và thân ngữ nghiệp đều thanh tịnh.

4. Quán chiếu tu Vô lượng

Hành từ như được thuyết minh trong Du già sư địa luận và Đại thừa trang nghiêm kinh là bắt đầu từ chỗ lấy chúng sinh làm đối tượng. Đấy là sự nghiệp từ thiện xã hội mà mục đích là xóa đi nỗi thống khổ của chúng sinh. Làm như vậy chỉ có thể mong cầu phước báo ở thiên giới, mà cao nhất là thiên giới của Phạm thiên. Các Thánh đệ tử không quan sát nỗi khổ thế gian như là hậu quả của hàng loạt phản ứng tâm sinh lý. Ngoài nhận thức sự khổ của thế gian do ân ái biệt ly, hay tình thù tụ hội, các vị ấy quán sát sự khổ trên tính chất vô thường của các hành, tức trên tính vận động của mọi hiện tượng mà xu hướng tất yếu là dẫn đến tình trạng tan rã và sụp đổ. Quán sát rằng, “Sắc là vô thường. Cái gì là vô thường, cái đó là khổ. Cái gì là khổ, cái đó không phải là tự ngã. Cái đó không phải là của tôi. Tôi không phải là cái đó. Cái đó không phải là tự ngã của tôi.” Trên cơ sở nhận thức đó, cái gọi là chúng sinh hay hữu tình, chỉ là tổ hợp giả danh; không tồn tại một thực hữu nào như là chúng sinh cả. Cho nên, khi các Thánh đệ tử hành bốn vô lượng, nói là rải tâm từ lên hết thảy chúng sinh trong một phương; từ phương đông, cho đến cả sáu phương, thượng phương, hạ phương. Nhưng vì chúng sinh là giả hữu, không thể lấy cái giả hữu làm đối tượng tu tập; cho nên, đối tượng mà Thánh đệ tử hướng đến để vận dụng tâm từ là pháp.
Trong hai đoạn kinh được dẫn từ A-hàm và Nikāya ở trên, Phật chỉ dạy bốn vô lượng như là pháp yếu dự bị làm nền tảng cho sự tu tập cao hơn đối với các tỳ kheo trẻ, hay tỳ kheo mà nghị lực không nhiều lắm. Bởi vì đối tượng ở đây không phải là các vật vô tri vô giác như đất, nước, hơi thở, hay xác chết ngoài bãi tha ma, mà là những con người cụ thể có một quan hệ xã hội hay thân thích trong chừng mực nào đó. Tập trung ý tưởng trên những đối tượng gần gũi, dễ gợi nhớ, với những tình cảm thân thiết nhất, để loại bỏ dần các ý tưởng xấu, những ác bất thiện pháp. Nói theo ý nghĩa tâm lý học, các tỳ kheo trẻ được khuyến khích tu tập bốn vô lượng, coi đó như là sự đào luyện tâm lý để có thể sống cuộc sống viễn ly, ẩn dật, mà không cảm thấy cô độc trong núi rừng hoang vắng.
Bồ tát hành đạo bắt đầu từ giữa lòng xã hội nên sự tiếp cận với mọi thống khổ nhân sinh là lẽ tất nhiên. Tu bốn vô lượng là y trên a-thế-da, trên tăng thượng ý lạc, nghĩa là y trên thâm tâm, trên tâm nguyện nhiệt thành và luôn luôn hướng thượng, ước mong xóa sạch mọi thống khổ của thế gian. Như vậy, khởi điểm hành từ là hướng đến các chúng sinh như là đối tượng. Như kinh Kam cang nói, Bồ tát hành đạo đưa vô số chúng sinh đến an lạc của Niết bàn mà không thấy ở đó có chúng sinh, vì Bồ tát không hành đạo với ấn tượng về sự tồn tại của tự ngã. Ngay chỗ này, Văn-thù đã chỉ ra mâu thuẫn như là xung đột nội tâm khi Bồ tát hành từ như thế. Không thấy tồn tại chúng sinh như là thực hữu, nhưng vẫn cảm nghiệm một cách sâu xa các chúng sinh đang ngụp lặn trong biển khổ. Duy-ma-cật thuyết minh hành từ của Bồ tát gồm cả ba phương diện, như được phân tích trong luận Du-già và Trang nghiêm, cho nên không hề có mâu thuẫn xung đột trong nhận thức của Bồ tát và kinh nghiệm thực tế đời thường.
Trong thuyết minh của Duy-ma-cật, ba đối tượng hành từ không tách rời nhau, tuy vậy mỗi đối tượng vẫn có những đặc tính cá biệt y theo đó mà vận dụng quán chiếu. Trước hết, y trên quán chiếu tính Không theo đó mọi tồn tại đều bất thực, hết thảy chúng sinh đều như huyễn, Bồ tát hành từ không đối tượng, tức vô duyên từ mà Duy-ma-cật giới thiệu như là tịch diệt từ. Tịch diệt, vì bản chất của tồn tại vốn không sinh không diệt. Bồ tát nhận thức pháp tính là Không, mọi hiện tượng đều là giả hữu; đau khổ hay an lạc là những hiện tượng giả hữu. Bồ tát tự bản thân không thấy có đau khổ hay an lạc, nhưng đồng thời cũng biết rằng các chúng sinh đang chịu đày đọa bởi các khổ. Bồ tát vốn không bịnh, nhưng vì chúng sinh bịnh nên Bồ tát bịnh. Tâm từ như vậy vận hành một cách tự nhiên, tuỳ thuận pháp tính. Bồ tát yêu thương chúng sinh, đó là tình yêu không điều kiện, vì pháp tính là như vậy.
Một chuổi các khái niệm tiếp theo trong đoạn thuyết minh này của Duy-ma-cật là những mô tả các yếu tính của vô duyên từ. Nói tóm lại, vô duyên từ được mô tả ở đây cũng là các phẩm tính của trí tuệ quán chiếu.
Trong vô duyên từ, như đã thấy, không thể thiếu chúng sinh duyên và pháp duyên. Các khái niệm về hành từ của A-la-hán, cho đến Phật, thuyết minh Bồ tát thể hiện từ tâm với đối tượng là pháp, là y trên những gì đã được chứng ngộ và được giảng dạy bởi Phật. Đó là pháp thanh tịnh ly nhiễm.
Cuối cùng là hành từ với chúng sinh duyên, Bồ tát hành từ cụ thể với mười ba-la-mật. Vật bố thí là pháp, nhận bố thí là chúng sinh; ba-la-mật được thành tựu là thực tại siêu việt, từ đó lưu xuất vô duyên từ.
Trên đây là đoạn thuyết minh về các phẩm chất của từ y trên các đối tượng. Trong sự thực hành, đoạn thuyết minh này cần được hiểu là sự hành từ diễn theo tuần tự thứ lớp, tương ứng với ba đại thời gian hành Bồ tát đạo: giai đoạn phàm phu trước khi chứng nhập Sơ địa; thừ hai, từ Sơ địa cho đến địa thứ bảy; sau hết, từ Bất động địa thứ tám cho đến thành Phật.
Bồ tát trong giai đoạn phàm phu, khi hành từ, để tâm từ không bị dao động và thoái thất trước vô lượng thống khổ của chúng sinh mà tâm từ hữu hạn của phàm phu không thể ôm trọn, do đó hành từ vì tình yêu đối với chúng sinh nhưng đồng thời cũng quán chiếu bản chất tồn tại như huyễn, bất thực của chúng sinh. Bồ tát hành từ như là tịch diệt, như là vô tránh, v.v.
Khi vào Sơ địa, do quá trình tích lũy tư lương phước đức bằng hành từ, do quán chiếu tính Không của các pháp, Bồ tát chứng thực chân lý, thấy được một phần của Chân như, bấy giờ thị hiện giữa thế gian mà hành từ với tâm vô cầu như A-la-hán, cho đến như Phật. Từ tâm phát khởi từ các quả chứng Bồ đề hay giác ngộ. Trong đây, Bồ tát hành từ không chỉ thuần bằng a-thế -da tức bằng tâm nguyện mà thôi; nhưng là hành từ cụ thể bằng các ba-la-mật:  thí, giới, nhẫn, tinh tấn, định, huệ, phương tiện, nguyện, lực, trí.
Sau hết, từ địa thứ tám, Bồ tát không bị dao động giữa sinh tử và Niết bàn, nên hành từ bằng các tự tại thọ sinh, hiện các thần thông du hý để giáo hoá, dựng thành một thế gian mà chúng sinh sống an lạc với trực tâm, thâm tân, không dối trá, không tạp hành.
Trên đây là thuyết minh tường tận các sắc thái và các phẩm chất của hành từ y trên ba đối tượng. Đoạn tiếp theo, Văn thù hỏi về ba vô lượng còn lại, nhưng chỉ được thuyết minh văn tắt.
Về ý nghĩa căn bản của bốn vô lượng, luận Câu-xá[32] nói, “Trước hết, tư duy về lạc mà mình cảm thọ được, hoặc lạc nơi Phật, Bồ tát, Thanh văn, Độc giác, hành giả ước nguyện hết thảy chúng sinh cũng cảm được lạc thọ như vậy. Đó là hành tâm từ vô lượng… Quán sát chúng sinh chìm đắm trong biển khổ, hành giả ước nguyện chúng được giải thoát khổ. Đó là hành bi vô lượng. Quán sát sự kiện các chúng sinh thoát khổ, được an lạc, hành giả khởi tâm tùy hỷ. Đó là hỷ vô lượng.[33] Tu xả vô lượng, hành giả quán sát các chúng sinh với tâm bình đẳng, không thiên lệch thân sơ.” Đây là tu tập bốn vô lượng theo phương diện tiêu cực.
Định nghĩa của luận Du già trước hết cũng theo ý nghĩa mang tính tiêu cực như vậy. Luận nói, “Đối với chúng sinh mong cầu an lạc, Bồ tát phát khởi tăng thượng ý lạc, duyên đến khắp cả mười phương, an trụ trên nhận thức không điển đảo về hữu tình (với ước nguyện cho chúng được an lạc). Đó là tâm câu hữu với từ…Đối với chúng sinh thọ khổ, Bồ tát khởi tăng thượng ý lạc ước nguyện trừ khổ, duyên khắp mười phương với tâm câu hữu với bi. Đối với chúng sinh đang hưởng thọ lạc, khởi tăng thượng ý lạc tùy hỷ, duyên khắp mười phương với tâm câu hữu với hỷ. Đối với chúng sinh không khổ, không lạc, cũng không đang thọ khổ hay thọ lạc, theo thứ tự lần lượt khởi tăng thượng ý lạc trừ các mê hoặc si, tham, sân, duyên khắp mười phương với tâm câu hữu với xả.”
Ở đây, trong định nghĩa của Duy-ma-cật, các vô lượng được nhận thức từ phương diện tích cực của chúng. Duy Ma-cật nói, Bồ tát hành bi là chia xẻ hết thảy công đức mà mình chứa nhóm được cho hết thảy chúng sinh. Công đức ấy có thể hiểu theo nghĩa vật chất và cả ý nghĩa tinh thần. Cho nên, nói bi tâm là ước nguyện bạt khổ, thì đây không chỉ là ước nguyện, mà chính là hành động dấn thân trong những công tác cứu tế.
Về tu hỷ, Duy-ma-cật nói, đối với những thành tựu lợi ích của chúng sinh, Bồ tát khởi tâm hoan hỷ, tùy hỷ mà không hề hối hận. Tức là luôn luôn tán trợ và khuyến khích những sự nghiệp từ thiện, đem lại ích lợi cho nhiều người. Nói là không hối hận, nghĩa là không hề do dự. Cuối cùng, tu xả, là thi hành phước nghiệp sự một cách bình đẳng với tâm vô cầu.
Đến đây thì một vấn đề quan trọng được đặt ra: Bồ tát hành bốn vô lượng, mang tình yêu đến với hết thảy chúng sinh, ngay trong thế giới đầy biến động kinh sợ, đầy dẫy những hận thù như vậy, làm thế nào để giữ vững được tâm tư không dao động? Duy-ma-cật nói, bấy giờ Bồ tát nương tựa trên Đại ngã của Phật. Những người tu Phật không tin vào sự tồn tại của một Thần Ngã siêu việt. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, được hành trì trong giới hạn phàm phu, bốn vô lượng chính là bốn Phạm trụ, tức là con đường dẫn đến cộng trụ với Phạm thiên, thể nhập bản tính của Phạm thiên. Đối tượng để hành bốn Vô lượng chỉ trong giới hạn chúng sinh duyên. Bồ tát sơ phát tâm, tu bốn vô lượng để làm kiên cố tâm bồ đề, cũng bắt đầu với đối tượng là chúng sinh, nhưng chuyển đối tượng hướng đến Phật như là sở y. Đối tượng và sở y đó là Pháp thân Phật, với Niết bàn mà Phật chứng đắc, được nhân cách hóa hay thần hóa thành Đại Ngã. Đó là nhân cách biểu hiện cho sức mạnh của đại từ và đại bi, là nguồn suối tâm linh vô tận luôn tắm mát cho Bồ tát, thêm sức cho Bồ tát, nghĩa là gia trì uy lực cho Bồ tát trong mọi chướng duyên khi hành đạo. Trong tận cùng sâu thẳm, ý nghĩa nơi nương tựa của Bồ tát có nguồn gốc là vô trụ. Vô trụ, là căn nguyên vô thuỷ của thiện và bất thiện. Vì căn bản vô trụ nên tất cả tùy thuộc nhân duyên. Nói cách khác, Bồ tát thâm hiểu lý duyên khởi, nhận thức rõ các pháp khi sinh, khi diệt đều lệ thuộc và quan hệ lẫn nhau. Nghĩa là, y trên quán chiếu tự tính của các pháp là Không mà vượt qua mọi sợ hãi.
KẾT
Ở dây, chúng ta tạm thời kết luận bằng trích dẫn đoạn kinh dưới đây.
Văn-thù-sư-lợi hỏi:
«Đâu là nguồn gốc của vô-trụ?»
Duy-ma-cật đáp:«Vô-trụ chẳng có gốc. Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, từ gốc vô-trụ này mà các pháp được kiến lập.»
Bấy giờ trong thất của Duy-ma-cật có một thiên nữ, thấy các trời, người đến nghe Pháp, liền hiện thân xuống rải hoa trời lên các Bồ tát và Đại đệ tử. Hoa rắc trên thân các Bồ tát tức thì rơi xuống đất, nhưng rắc trên thân các Đệ tử thì bám vào. Tất cả các vị Đệ tử dùng thần lực phủi hoa, nhưng hoa không đi.
T.S.
(trích TẬP SAN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC, PHẬT GIÁO THỪA THIÊN – HUẾ. Số 11 –  Pl. 2548)

_____________________________________
[1] Duy-ma-cật sở thuyết (La-thập), Phẩm Quán chúng sinh (Vimalakīrtinirdeśa, Devatāparivartaḥ ṣaṣṭhaḥ)
[2]  Nhiệt thời viêm 熱時炎. VCX: dương diệm thuỷ 陽焰水, bóng nước trong quáng nắng. Vimala: marīcikāyām udakam.
[3]  Không trung vân 空中雲. VCX:  hư không trung vân thành đài các 虛空中雲城臺閣, thành quách, đài các trong mây trong bầu trời; Skt. gandharava-nagara, thành phố gandharva, thành phố càn-thát-bà, chỉ thành phố nhìn thấy trong biển do phản chiếu của mây và hơi nước bốc từ biển.
[4]  DMC: thuỷ tụ mạt 水聚沫. (Skt. phenapiṇḍa). VCX: thuỷ tụ mạt sở hữu tiền tế 水聚沫所有前 際, tiền tế của đám bọt nước; VCS giải thích: «tiền tế vốn không hiện hữ, vì nguyên lai là không.» Nghĩa là, không thể xác định điểm xuất phát của bọt nước. Cf. Pali, Saṃyutta, iii. 142: Pheṇapiṇḍūpamaṃ rūpaṃ, vedanā bubbuḷūpamā, marīcikūpamā saññā, saṅkhārā kadalūpamā; māyūpamañca viññāṇaṃ, quán sắc đống bọt nứoc, thọ như bong bóng nước, tưởng như quáng nắng, hành như cây chuối, thức như huyễn thuât.
[5]  DMC: thủy thượng bào 水上泡; (Skt. udaka-budbuda) VCX: thủy phù bào hoặc khởi hoặc diệt 水浮泡或起或滅. bong bóng trên mặt nước chợt nổi chợt chìm. Cf. Trung A-hàm 12 (Đại 1, tr. 503b).
[6]  Điện cửu trú 電久住. VCX không có thí dụ này.
[7]  VCX: tu đại từ (Skt. mahāmaitrī-bhāvanā).
[8] Đại Bát-nhã (Huyền Trang), quyển 587, T7n220, tr. 1036c29.
[9] Phật mẫu xuất sinh Tam pháp tạng Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, quyển 20, Taisho T8n228, tr. 655b04 佛說佛母出生三法藏般若波羅蜜多經
[10] Đại Bát-nhã (Huyền Trang), quyển 550, T7n220, tr. 834b12
[11] Phẩm 5, “Văn thù thăm bịnh”.
[12] Trung A-hàm 21, kinh Thuyết xứ, T1n26, tr.563b13.
[13] Cf. Đại tập pháp môn kinh, T1n12, tr. 228a21 ba trụ: Thiên trụ, Phạm trụ, Thánh trụ. 天住梵住聖住Trường A-hàm 8, kinh Chúng tập,T1n1, tr. 50b14. gọi là ba đường: Hiền thánh đường, Thiên đường, Phạm đường. 賢聖堂.天堂.梵堂。Cf. Tập dị môn luận 6, T26n1536, tr. 389a16, ba trụ: “Thiện trụ, Phạm trụ, Thánh trụ. .. Thế nào là Phạm trụ? Đó là bốn vô lượng: từ, bi, hỷ, xả. Như Thế Tôn nói cho Bà-la-môn Phệ-na-bổ-lê, Ta có khi hành một trong bốn vô lượng, với mục đích Phạm trụ..” Cf. Pali, Saṅgīti-sutta, D. iii. 219: tayo vihārā– dibbo vihāro, brahmāvihāro, ariyo vihāro. Giải thích ý nghĩa của Brahmavihāra (Phạm trụ), Visuddhimagga, ix. 106 (i. 321): Yathā  ca  brahmāno  niddosacittā  viharanti, evaṃ  etehi  sampayuttā yogino brahmasamā hutvā viharantīti seṭṭhaṭṭhena niddosabhāvena ca brahmavihārāti vuccanti. Cũng như các Phạm thiên sống với tâm không oán kết, cũng vậy ở đây hành giả an trụ tương ưng bình đẳng với Phạm thiên được nói là an trụ với Phạm thiên (Phạm trụ) với tâm tối thượng không oán kết.
[14] Tăng nhất A-hàm 21, T2n125, tr.658c18, gọi bốn vô lượng này là “bốn đẳng tâm” 四等心 và bốn Phạm trụ là “phạm đường. 梵堂” Nguyên tiếng Phạn vihāra có nghĩa là trụ, hay đời sống, và cũng chỉ cho tinh xá hay tăng viện.
[15] Trường A-hàm 16, kinh Tam minh,  T1n1, tr. 104c16. Cf. Pali, Tevijjā-sutta, D. i. 236ff.
[16] Skt. Brahmakāyika.
[17] Skt. Brahmapurohita.
[18] Skt. Mahābrahman.
[19] Câu-xá 29. Tham chiếu, Pali, Visuddhimagga, ix. 111-112 (bản Anh, Nānamoli): ba phạm trụ đầu, y trên ba thiền đầu trong hệ bốn thiền, hay bốn thiền đầu trong hệ năm thiền. Xả vô lượng, duy nhất y trên thiền cuối cùng. Hoăc y trên cả năm thiền, dẫn kinh Saṃkhitta-suttaṃ, Anguttara iv. 300: cả bốn vô lượng y trên định có tầm có tứ (savitakkampi vicāraṃ pi: Sơ thiền), y trên định không tầm chỉ có tứ (avitakkam savicāram: trung gian thiền), định không tầm không tứ  (avitakkam avicāram: Nhị thiền), định câu hữu với hỷ (sappītikam pi: Nhị thiền), định không hỷ (nippītikampi: Tam thiền), định câu hữu với niệm (sātasahagatampi: Tứ thiền), định câu hữu với xả (upkkhāsahagatampi: Tứ thiền).
[20] Thuận chính lý 79. Tham chiếu Pali, ibid., 119: từ tâm giải thoát (mettaṃ cetovimuttiṃ), cao nhất là Tịnh thiên (Subhaparama); bi tâm giải thoát (karuṇaṃ cetovimuttaṃ), cao nhất là Không vô biên xứ (Ākāsāṇañcāyatanaparama); hỷ tâm giải thoát (muditaṃ cetovimuttiṃ), cao nhất là Thức vô biên xứ (Viññāṇañcāyatanaparama); xả tâm giải thoát (upekkhaṃ cetovimuttiṃ), cao nhất là Vô sở hữu xứ (Ākiñcaññāyatanaparama).
[21] Câu-xá 29, T29n1558, tr. 150b23. Giải thích của Thuận chính lý 79, T29n1562_p0769a03: sân (thù nghịch, vyāpāda) là một tâm sở. Muốn sát hại hữu tình, gây đau đớn cho chúng là tâm sở hại (vihiṃsa). Đắm trước cảnh giới, không muốn, không hài lòng với các phẩm thiện, gọi là không hân uỷ (arati). Trong các đối tượng dục lạc mà khởi tâm tham nhiễm, tình không biết chán, gọi là dục tham (kāmarāga). Cf. Visuddhimagga, ix. 93-96 (bản Anh,. Nānamoli): từ đối trị sân (vyāpādūpasamo), bi đối trị hại (vihiṃsūpasamo), hỷ đối trị bất mãn (arativūpasamo), xả đối trị hiềm hận và tùy tham (paṭighānunayavūpasamo).
[22] Cf. Saṃkhitta-suttaṃ, Anguttara iv. 300: mettā me cetovimutti  bhāvitā  bhavissati  bahulīkatā  yānīkatā  vatthukatā  anuṭṭhitā  paricitā susamāraddhā’ti.
[23] Câu-xá 29, T29n1558, tr. 150c21. Cf.  Thành thật luận 12: “Tu từ tâm tuy không đoạn được kết sử phiền não, nhưng trước hết bằng từ tâm mà tích luỹ phước đức, trí tuệ, nhờ đó đạt được huệ của Thánh đạo để đoạn trừ các kết sử. Vì vậy, Kinh nói, tu tâm để chứng đắc A-na-hàm.”
[24] Skt. āśaya, ý hướng, hay xu hướng. Vì rất khó tìm thấy từ nghĩa tương đương, nên Huyền Trang đành phiên âm. La-thập thường dịch là thâm tâm.
[25] Đại thừa trang nghiêm kinh luận 9, T31n1604, tr. 635c20. Cf. Sūtrālaṅkāra, xvii, k.17, brāhmyā vipakṣahīnā jñānena gatāś ca nirvikalpena/ trividhālambanavṛttāḥ sattvānāṃ pācakā dhīre//
[26] Pali định cú: mettāsahagatena  cetasā  ekaṃ  disaṃ pharitvā  viharati.
[27] Thắng giải tác ý, skt. adhimukti-manasikāra, phán đoán chủ quan. Trái với chân thật tác ý, Skt. tattva-manasikāra, phán đoán y trên sự thực.
[28] Thuận chính lý 79.
[29] Quyển 44, T30n1579, tr. 535c25.
[30] anutpattidharmakśānti, chứng nghiệm  tự tính không sinh khởi của các pháp. Bồ tát từ địa thứ sáu, thành tựu Bát-nhã ba-la-mật, thâm đạt tính Không, nhận thức các pháp bản lai không sinh, không diệt. Nhận thức này được gọi là thuận nhẫn. Từ địa thứ bảy đến thứ chín, thuận nhẫn chuyển thành vô sinh pháp nhẫn.
[31] Śūtrālaṅkāra, xvii. k. 19: tasyāś ca tathatārthatvāt kṣāntilābhād viśuddhitaḥ/ karmadvayād anālambā maitrī kleśakṣayād api//  vô duyên từ, vì quán chiếu chân như, vì đắc (vô sinh pháp) nhẫn, vì hai nghiệp đã tịnh và vì phiền nào đoạn tận.
[32] Quyển 29, .
[33] Cf. Visuddhimagga, ix. 108 (bản Anh): đó là bốn  ước nguyện đem lại lợi ích an lạc, giải thoát khổ, tùy hỷ theo sự thành tựu của chúng sinh, và vô cầu.  Yasmā  ca hitūpasaṃhāra-ahitāpanayana-sampattimodana-anābhogavasena   catubbidhoyeva  sattesu  manasikāro.