Wednesday, June 17, 2020

Đào Văn Bình: MỘT PHẬT TỬ TƯƠNG ĐỐI HOÀN HẢO


MỘT PHẬT TỬ TƯƠNG ĐỐI HOÀN HẢO
Đào Văn Bình
motphattuhoanhaoĐi chùa lễ Phật, ở nhà ăn chay, tụng kinh niệm Phật, ra ngoài đời hoạt động thiện nguyện, đóng góp cho xã hội là sinh hoạt nền tảng cần có của một Phật tử chân chính. Những hoạt động trên có tác dụng rất lớn khiến bản thân thanh tịnh, tâm hồn hướng thượng, gia đình hạnh phúc, vun trồng cội phúc cho mình và cho con cháu. Song đó chỉ là những điều kiện cần nhưng chưa đủ.
Tại sao nói chưa đủ? Gần đây có một bài viết nói rằng nhìn ra ngoài xã hội hôm nay, biết bao nhiêu tội phạm kinh thiên động địa như thủ tiêu, giết người cướp của, cướp giật trên đường phố, đâm cha chém chú, đầu độc chồng, giết vợ, giết con, giết bà nội vì cần tiền chơi games, gian dâm, lường đảo cả nhà nước lẫn người đời, buôn bán chuyển vận xì-ke ma túy, nhậu nhẹt lu bù, gây lộn rồi đâm chém nhau và chém cả nhân viên công lực, thác loạn trong những phòng trà ca vũ…. Mà tất cả những tội phạm này lại xảy ra trong một đất nước mà chúng ta thường tự hào 80% là Phật tử!
Bài viết cũng nêu lên câu hỏi phải chăng Đạo Phật không có tác dụng nhiều trong việc xây dựng một nền tảng đạo đức cho dân tộc?
Tôi không hoàn toàn đồng ý với bài bình luận nói trên nhưng cũng không bác bỏ những vấn nạn tác giả nêu ra. Rõ ràng không phải tất cả những người phạm tội nói ở trên họ đều là Phật tử. Nhưng chắc chắn trong những người phạm tội đó có những người đã từng đi lễ chùa, gia đình có thờ Phật hoặc truyền thống gia đình vốn theo Tam giáo (Phật-Lão-Khổng).
Nhìn vào các quốc gia như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào mà Phật giáo là quốc giáo thế nhưng nhà tù vẫn đầy người, chứng tỏ một quốc gia dù Phật giáo là nền tảng tâm linh đi nữa, mỗi cá nhân vẫn còn phải được trang bị thêm những giá trị ngoài đời khác nữa mới có thể hoàn thiện, bản thân không gây khổ đau cho chính mình, cho người khác và cho xã hội.
Tôi còn nhớ Đức Đạt Lai Lạt Ma trong một cuộc phỏng vấn của CNN Hoa Kỳ đã nói rằng Đạo Phật chỉ giúp một phần nào chứ không thể giải quyết mọi vấn đề của con người. Rõ ràng Đạo Phật không thể giải quyết được nạn thất nghiệp, suy thoái kinh tế, nạn đầu cơ tích trữ tăng giá giả tạo, nạn tắc nghẽn xe cộ trong giờ cao điểm, nạn gái mại dâm, nạn xì-ke ma túy, băng đảng, xả rác bừa bãi, tàn phá núi rừng cây cỏ, nạn tham nhũng v.v…
Muốn giải quyết vấn đề này cần phải có các yếu tố khác như luật pháp, chính quyền, sự tham gia của các đoàn thể, giáo dục học đường và nhất là giáo dục bản thân. Ngoài giáo lý của Đức Phật, mỗi cá nhân, kể cả các Phật tử thuần thành, cần phải được trang bị thêm những giá trị mà những giá trị này không liên quan gì đến bất kỳ tôn giáo nào. Đó là những giá trị phi tôn giáo đi bên cạnh những giá trị phát xuất từ tôn giáo, chẳng hạn như phép lịch sự, lòng biết ơn, tinh thần trách nhiệm, sự nhường nhịn, lòng tu ố (biết xấu hổ), lòng yêu nước, biết tôn trọng luật pháp và của công…
Quán chiếu vào cuộc sống chúng ta thấy mọi khổ đau, phiền não mà từng giây từng phút chúng ta tạo ra cho nhau không ngoài tham lam, nóng nảy, bộp chộp, thiếu hiểu biết và thiếu giáo dục công dân lẫn giáo dục bản thân. Ngoài ra, phim ảnh bạo lực, dâm ô, lối sống thác loạn của Tây phương đã góp phần quan trọng trong việc phạm tội của giới trẻ. Tôi không phải là một nhà đạo đức hay một giảng sư thuyết pháp mà chỉ là một Phật tử mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào sự an lành của xã hội. Bản thân tôi trong quá khứ và gần đây nhất- như ngày hôm qua chẳng hạn - cũng có nhiều lầm lỗi và vẫn còn phải huân tập, sửa chữa.
Theo tôi, một Phật tử thuần thành chưa đủ. Kinh kệ, giáo lý, đi chùa tụng kinh niệm Phật chưa đủ, mà chúng ta cần phải được trang bị thêm những kinh nghiệm đời, những kiến thức ngoài đời, phải học tập lề thói cư xử văn minh, nhã nhặn, có văn hóa, có giáo dục, có trách nhiệm nữa. Có như thế chúng ta mới có thể giữ gìn thân-tâm an lành (Trú dạ lục thời an lành) cho mình, cho người và cho xã hội. Dưới đây là những kinh nghiệm học hỏi qua tuổi đời chồng chất và cũng do nhờ sinh sống trong một xã hội Mỹ cực kỳ văn minh - dù chưa hoàn hảo và vẫn còn nhiều điều chướng tai gai mắt:
1) Phải biết nói lời xin lỗi: Người Phật tử phải hiểu rằng “cái ngã” (cái Tôi) của chúng sinh dù là một chúng sinh nghèo hèn - còn cao hơn cả núi Tu Di. Chạm vào tự ái (cái Ngã) của người ta thì muôn chuyện - dù rất nhỏ - có thể dẫn tới gây gổ, đả thương, đâm chém và có thể đưa nhau ra tòa. Do đó người Phật tử khôn ngoan là phải biết nói lời xin lỗi. Chẳng hạn mình mở một cánh cửa vô tình đụng phải người ta, chưa biết lỗi về ai, nhưng nếu mình lên tiếng “Xin lỗi ông/bà/anh/chị” thì mọi chuyện sẽ vui vẻ.
Chẳng hạn mình ngồi trong nhà quăng chén nước ra đường làm ướt áo người ta, nếu biết chạy ra, vui vẻ nói “Ấy chết! Tôi vô ý quá. Xin lỗi ông bà/anh chị” v.v.. thì dù người bị thiệt có căn nhằn chút ít, mọi chuyện cũng sẽ qua. Nếu mình cố biện minh, chối cãi thì câu chuyện trở nên căng thẳng, rắc rối… và không biết sẽ đi tới đâu. Khi mình viết một bài báo xúc phạm tới ai hoặc loan tin thiếu trung thực, phải có can đảm đăng lời xin lỗi.
Lời xin lỗi khiến chúng ta trưởng thành và chín chắn hơn trong nghề nghiệp và trong cuộc sống. Khi mình nghịch ngợm phá phách làm cha mẹ, thầy/cô buồn lòng. Sau phút nông nổi, và trong lúc riêng tư chỉ có mình và cha mẹ, thầy/cô, mình phải biết nói lời xin lỗi. Lời xin lỗi khiến cha mẹ cũng như thầy/cô cảm động và còn thương mình hơn nữa và dĩ nhiên sẽ bỏ qua lỗi lầm đó.
2) Luôn luôn khiêm tốn: Người Phật tử hiểu đạo thì chữ Nhẫn và chữ Khiêm Tốn phải luôn luôn nằm lòng. Ngay Obama - Tổng thống Hoa Kỳ dù đắc cử với số phiếu khá cao, trong diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ II vừa rồi cũng phải tỏ ra hết sức khiêm tốn vì đất nước đang ở trong tình trạng suy thoái, chia rẽ trầm trọng, khối cử tri Cộng Hòa thấy mình bị thua đang hừng hực với lửa bất mãn, căm tức.
Người Phật tử phải nhớ rằng khiêm tốn không có nghĩa là hèn nhát. Cái Tâm của chúng sinh rất kỳ lạ. Nó ưa thích sự khiêm tốn và ghét sự kiêu căng.
Do đó, người Phật tử dù thành công tột đỉnh ở lãnh vực nào đi nữa như học hành, nghệ thuật, tu hành, làm ăn buôn bán, sự nghiệp chính trị… phải luôn luôn khiêm tốn thì mới được lòng mọi người. Một lời nói kiêu căng phách lối chưa chắc đã đưa ngôi vị hoặc sự nghiệp của mình đi lên nhưng… kẻ thù ghét thì không biết bao nhiêu mà nói.
3) Biết nói lời cảm ơn: Nếu bạn tới đất Mỹ này, đi đâu bạn cũng nghe câu nói “Thank you”. Khi người ta làm cho mình chuyện gì dù rất nhỏ cũng xin nói lời “Cảm ơn”. Vợ chồng giúp nhau chuyện gì cũng nói “Cảm ơn”. Lên xe buýt, xe đò người ta nhường chỗ cho mình, xin nói lời “Cảm ơn”. Khi khách hàng trả tiền, cô thu ngân cũng nói “Cảm ơn”. Người hầu bàn đưa đồ ăn ra cho mình cũng xin nói lời “Cảm ơn”. Tới công sở, nhân viên đưa cho mình giấy tờ gì đó cũng xin nói “Cám ơn”. Thậm chí thầy/cô thấy học trò ồn quá bèn nói “Im lặng!”.
Sau khi học trò im lặng rồi thầy/cô cũng không quên nói “Cảm ơn các em!”. Khách hàng vào cửa tiệm của mình chỉ ngắm chơi mà không mua gì cả. Khi khách ra mình cũng gật đầu chào nói lời cảm ơn là đã ghé thăm. Lời “Cảm ơn” như mật rót vào lòng, làm mát lòng người nghe và chứng tỏ mình là người khiêm tốn và có giáo dục. Thiếu vắng lời “cảm ơn” là một xã hội vô cảm và tàn bạo.
4) Luôn khen ngợi, bớt chê bai: Trong suốt 45 năm hành đạo Đức Phật luôn luôn khen ngợi, khuyến khích, không chê bai, không hù dọa, không làm quan tòa để kết tội ai. Thậm chí các hàng đại Bồ tát khi thưa hỏi những lời không chính đáng, Đức Phật cũng vẫn khen ngợi là biết thưa hỏi để Phật có cơ hội giải đáp những gì còn nghi ngoặc. Đức Phật là bậc thầy vĩ đại của các tâm lý gia ngày nay. Xin nhớ cho lời khen làm mát lòng người nghe. Lời chê làm người nghe dễ nổi điên dù là chê một câu văn, một cái áo, một lời nói, một bài hát, một đôi giày, một kiểu tóc v.v…
Trong lúc hứng chí nói chuyện với bạn thân, vô tình chê bai người nào đó. Người bạn cũng trong một lúc cao hứng lại “bật mí” nói cho người khác nghe. Thế là “tai vách mạch rừng” lời chê tới tai người ta. Nhẹ thì giận hờn, nặng thì chửi bới đâm chém nhau.
Thánh nhân xưa có nói “Họa thoát ra từ cửa miệng”. Ngày xưa biết nhiều gia đình bị tru di tam tộc, quan to mất chức, đại phú lưu đày, phát vãng cũng chỉ vì lời chê bai vô tình thoát ra từ cửa miệng. Không gì điên khùng cho bằng khi người ta mời mình tới nhà ăn tiệc mà mình chê bai thức ăn của người ta, trong tiệc cưới bàn tán chú rể cô dâu xấu đẹp.
Do đó người Mỹ luôn luôn khen ngợi “Wonderful! Great! Very Good!”. Song cũng xin nhớ cho chê bai, dèm pha cá nhân khác với chuyện xây dựng, góp ý thẳng thắn, nhã nhặn trên các diễn đàn hay trên báo chí.
5) Nhận phần thiệt về mình: Người Phật tử tương đối hoàn hảo không tranh giành lợi lộc với ai. Nếu phải phân chia thì phần mình kém một chút cũng chẳng sao. Trong thương trường nếu phải chia tiền lời, trong gia đình phải chia gia tài do cha mẹ để lại thì nhường nhịn anh chị em một chút cũng được.
Tranh giành gia tài, kẻ hơn người kém là nguyên do máu mủ chia lìa, có khi đi đến giết hại nhau. Câu chuyện ngụ ngôn “Ăn trái khế trả túi vàng” dạy chúng ta bài học nhường nhịn và không tham lam.
6) Nhìn lỗi mình trước, nhìn lỗi người sau: Mọi chuyện xảy ra trên đời này đều có nguyên do. Nếu không do lỗi mình thì ắt hẳn lỗi người. Nếu là lỗi người và nếu nhỏ thì ta nên bỏ qua. Nếu là lỗi mình thì mình rút kinh nghiệm mà tu sửa. Chớ có khăng khăng kết tội người, không nhìn lỗi mình thì oan khiên không sao giải được.
7) Chớ nói dối: Đây là giới cấm rất quan trọng của hàng Phật tử có quy y. Tại Hoa Kỳ câu nói mà chúng ta thường nghe là “Human being mistake” tức - hễ là con người thì ai cũng lỗi lầm, giống như ngạn ngữ Việt Nam có câu “Vua chúa còn có khi lầm”. Do đó người Hoa Kỳ dễ bỏ qua lỗi lầm. Thế nhưng phạm lỗi mà nói dối thì họ không bao giờ bỏ qua. Một ông dù là tổng thống, tổng bộ trưởng, thống đốc, dân biểu, thượng nghị sĩ mà nói dối thì cuộc đời tiêu tan.
Trong đời sống hàng ngày, thậm chí ngay cả nơi thờ phượng… ai cũng có thể phạm lỗi. Nguyên do của phạm lỗi có thể vì không biết, vô tình hoặc do bị cám dỗ, mua chuộc v.v… Nhưng khi phạm lỗi rồi mà nói dối hoặc đổ lỗi cho người khác thì lại là chuyện khác. Tại Hoa Kỳ người ta không khiển trách người phạm lỗi, họ chỉ giảng giải cách làm để lần sau làm đúng. Thế nhưng khi khám phá ra bạn nói dối thì họ sa thải bạn ngay và hồ sơ xấu sẽ theo bạn suốt đời với chữ “liar” (kẻ nói dối).
Do đó tại gia đình, trong công sở, chốn công trường nếu chẳng may ta phạm lỗi thì cứ thẳng thắn nhận lỗi, đừng nói dối, đừng vu vạ, đừng đổ vấy cho người khác để tránh một thảm họa còn lớn hơn cả chuyện lầm lỗi. Tại Hoa Kỳ này người ta dạy cho học sinh từ bậc mẫu giáo, tiểu học sự thẳng thắn nhận lỗi.
Chúng ta và cả người Mỹ - ai cũng công nhận rằng thẳng thắn nhận lỗi là một hành vi vô cùng khó khăn. Người biết nhận lỗi là người can đảm và có tinh thần trách nhiệm rất cao. Một đất nước mà từ thứ dân đến vua quan, làm lỗi biết nhận lỗi (để tu sửa) là một đất nước cương thịnh và lần hồi trở nên vĩ đại. Một đất nước mà từ vua quan đến thứ dân làm lỗi mà chối lỗi thì lần hồi sẽ diệt vong, không “thuốc” nào chữa được.
8) Biết xấu hổ: Khổng Phu Tử dạy rằng kẻ mà còn có lòng tu ố (biết xấu hổ) thì còn giáo dục được. Do đó một kẻ ăn mặc khiêu dâm hở hang quá đỗi (tiếng Mỹ gọi là ăn mặc Hot) mà không biết xấu hổ, một kẻ nói năng thô bỉ trước đám đông mà không biết xấu hổ, một kẻ bòn rút của công làm của riêng mà không biết mình sai trái, một kẻ chuyên làm chuyện bẩn thỉu mà không biết ăn năn… đều là những kẻ không thể giáo dục được nữa và sẽ tiếp tục lao vào con đường hủy hoại.
Lòng tu ố là sự phản tỉnh của lương tâm trước việc làm sai trái của chính mình, tự ý thức mà không cần ai nhắc nhở. Lòng tu ố là đặc hữu của con người. Chỉ loài người mới biết xấu hổ. Loài súc vật không biết xấu hổ khi chúng nó trần truồng. Nhưng loài người thì cảm thấy xấu hổ khi thân hình không mảnh vải, ngày xưa phải vội lấy lá che thân. Một người đàn bà đứng đắn sẽ cảm thấy vô cùng xấu hổ nếu thân hình của mình lồ lộ ra trước đám đông.
Ngày xưa hình phạt lõa thể là hình phạt ô nhục nhất của đàn bà. Do đó một kẻ ăn mặc khiêu dâm, hở hang quá đỗi để chụp hình đăng báo, bán cho người ta xem mà không biết xấu hổ là loại người không còn giáo dục được nữa. Trong một đất nước mà kẻ trộm cắp, nói dối, lường gạt, thi cử gian lận, dâm ô, chen lấn không xếp hàng, xả rác bừa bãi, nói năng thô bỉ mà không hề biết xấu hổ thì đó chính là Địa ngục mà Đức Phật mô tả trong kinh Pháp Hoa.
Chúng ta có thể chê bai người Mỹ chuyện này chuyện kia nhưng mới đây một Đô đốc Hải quân Hoa Kỳ đã tự sát khi báo chí khám phá ra ông đã đeo một huy chương mà ông không hề được tưởng thưởng trong Chiến tranh Việt Nam. Sự tự sát (tự xử) này khiến người ta thương hại ông. Nếu ông không tự sát, người ta sẽ khinh bỉ ông và cả gia đình có lẽ cũng không sống nổi với lỗi lầm quá lớn của ông.

9) Chớ can dự vào chuyện tào lao: Trong gia đình, ngoài xóm làng, nơi làm việc, trong trường học hoặc cả nơi thờ phượng… chỗ nào cũng có rất nhiều chuyện tào lao. Xin nhớ chuyện tào lao không đem lại lợi ích gì mà chỉ mất thời giờ và chuốc họa vào thân. Người Phật tử tương đối hoàn hảo luôn luôn giữ gìn chánh niệm, không để “tâm viên ý mã” chạy lang thang rồi dính vào chuyện không đâu. Nhớ đừng chê bai, công kích, dè bỉu, bàn tán chuyện của người khác.
Người Hoa Kỳ có một tập quán hầu như không bao giờ dòm ngó vào chuyện hàng xóm. Nhưng nếu khám phá thấy trong khu vực mình có gì khả nghi, chẳng hạn như kẻ trộm, kẻ cướp, phá hoại v.v… họ sẽ dùng số 911 âm thầm gọi điện thoại báo cho sở cảnh sát biết. Dĩ nhiên sở cảnh sát giữ bí mật tên người mật báo. Đây là cách hữu hiệu nhất để bảo vệ sự an lành cho khu phố, thôn xóm.
Không can dự vào chuyện tào lao, không dính líu vào chuyện người khác tạo an lành cho xã hội và cho bản thân mình biết là bao nhiêu.
10) Biết từ chối khéo: Trong cuộc sống này không ai là không có bà con, bạn bè, đồng sự. Bạn bè, bà con giúp ta cũng nhiều nhưng nhiều khi cũng hại cả đời ta. Chẳng hạn bạn bè rủ trốn học, rủ ăn nhậu, rủ đi phòng trà ca vũ, bài bạc, đàn đúm, đồng nghiệp cùng sở, cùng công ty rủ rê làm ăn bất chính v.v… mà từ chối thì mất lòng, mất bạn, có khi gây thù oán. Vậy phải làm sao đây?
Tại các trường học Mỹ người ta đã dạy cho học sinh cách từ chối khéo gọi là “How to say No”. Trong những hoàn cảnh khó khăn nói trên chỉ còn cách “cáo bệnh” hoặc “nói dối” nhưng nói dối vô hại.
Chẳng hạn, bạn cùng lớp rủ trốn học đi chơi, chúng ta có thể nói “Bạn ơi, tuần rồi bố tôi mắng tôi một trận tơi bời vì điểm tháng này của tôi kém quá. Xin bạn miễn cho tôi lần này. Khi nào điểm kha khá tôi sẽ đi chơi với bạn. Cám ơn bạn đã nghĩ đến tôi. Lúc nào tôi cũng quý trọng bạn”. Còn khi mình vừa đi làm về, cơm nước vợ đã dọn lên mà ông bạn cùng công ty tới rủ đi nhậu. Nếu không đi thì ông bạn sẽ rêu rao “thằng này hèn”, “thằng này sợ vợ” v.v… Vậy phải làm sao đây?
Khi đó chỉ còn cách cáo bệnh, giả ôm bụng nói “Trời ơi! Hôm qua mới vừa đi bác sĩ vì loét bao tử lúc nào không hay. Bác sĩ dặn từ nay không được uống rượu nữa nếu muốn nhìn mặt vợ con. Xin anh/ông miễn cho tôi lần này. Khi nào bao tử bớt tôi sẽ mời anh/ông lại nhà tôi ăn nhậu một bữa thật phủ phê. Cám ông anh/ông rất nhiều”. Tuy nói vậy nhưng người Phật tử chân chính phải biết phân biệt chính-tà, phải có can đảm và dứt khoát xa lìa những người bạn xấu.
Không có gì quý giá cho bằng có người bạn tốt, nhưng cũng không có gì nguy hại cho bằng giao du với bạn xấu. Biết bao nhiêu tội phạm ngày hôm nay xảy ra cũng chỉ vì giao du với bạn xấu, cao hơn là băng đảng và xã hội đen.
11) Tránh khoe khoang: Khoe khoang về thành tích, của cải, tài năng, nữ trang, xe cộ, con cái là “rước giặc cướp vào nhà”. Khi mình khoe khoang như thế khiến kẻ gian nổi lòng tham, người bình thường thì ghen tị. Tâm lý người đời thường khinh ghét những kẻ “trưởng giả học làm sang”.
Thường tình, hễ giàu sơ sơ thì hay khoe, còn giàu như tỷ phú Bill Gate thì chẳng cần khoe vì ai cũng biết rồi. Người xưa dạy rằng hễ giàu có thì phải năng làm chuyện phước thiện, giúp đỡ người nghèo khó và phải tỏ ra bình dị, khiêm tốn. Năm xưa Thạch Sùng đời nhà Tấn giàu có thuộc loại “phú gia địch quốc” cuối cùng chết thảm cũng chỉ vì của cải. Riêng trong đời tôi đã từng nghe nói, từng chứng kiến bao triệu phú thời đại chết không có chiếu mà chôn hoặc chết đói trong tù.
Vậy thì của cải, danh vọng chưa chắc đã đem lại an toàn hay hạnh phúc cho bản thân và gia đình. Đây là kinh nghiệm thực tiễn chứ không phải nói chuyện ngụ ngôn dạy đời.
12) Tuyệt đối tôn trọng luật lệ giao thông: Tại Hoa Kỳ theo thống kê, mỗi năm có khoảng 40.000 người còn tại Việt Nam năm 2012 có khoảng 10.000 người chết vì tai nạn giao thông. Những cái chết này thật đáng thương và đáng lý ra có thể tránh khỏi.
Là người Phật tử tương đối hoàn hảo chúng ta phải hiểu rằng luật lệ giao thông đặt ra không phải để bảo vệ nhà nước mà nhằm bảo vệ mạng sống của chính người dân. Ngồi lên trên một chiếc xe, bất kể loại xe gì chúng ta phải hiểu rằng chúng ta có thể gây tai nạn cho người khác và chết chóc cho chính mình hoặc người thân của mình ngồi chung trên xe.
Do đó khi ngồi lên xe gắn máy, kể cả xe đạp chúng ta phải: đội mũ an toàn cho mình và cho con cái (không được miễn từ trong bất cứ hoàn cảnh nào), nếu là xe hơi, xe khách thì phải nịt giây an toàn, không được lái xe quá tốc độ quy định, không được vượt đèn đỏ, không được vi phạm làn đường, không được lạng lách vì khi lạng lách khó điều khiển xe khiến gây nguy hiểm cho mình và cho người khác, phải mở đèn khi trời tối hoặc sương mù, không được lái xe khi đã uống rượu, nếu cảm thấy mệt mỏi - nhất là tài xế xe vận tải đường dài cần tấp vào khu vực nghỉ ngơi rửa mặt cho tỉnh táo, thấy khỏe rồi mới tiếp tục đi, nếu thấy mặt đường trơn trượt hoặc mưa to gió lớn, nên báo cho cảnh sát giao thông biết và dứt khoát tấp vào lề đường nghỉ ngơi đợi thời tiết tốt mới đi. Đi bừa, đi ẩu là đi tới nghĩa địa.
Khi nghe tiếng xe cảnh sát, xe cứu hỏa, xe cứu thương hú còi phải tấp ngay vào lề để nhường đường. Khi xe chết máy trên đường, trên cầu, trong đường hầm v.v… phải mở đèn nháy khẩn cấp để báo cho phía sau biết. Mới đây một xe vận tải chết máy trên cầu Cần Thơ lúc chiều tối đã không bật đèn nháy khẩn cấp báo cho phía sau khiến một bà mẹ lái xe gắn máy cùng hai con nhỏ tông vào, ba mẹ con cùng chết thảm.
Luật lệ lái xe xứ nào cũng vậy luôn luôn quy định người lái xe hơi, xe gắn máy phải nhường và dành ưu tiên cho khách bộ hành, người đi xe đạp, học sinh, người mù, người tàn tật băng ngang đường. Nếu bạn không nhường và lái xe một cách nguy hiểm, xe đi sau có thể gọi điện thoại báo cảnh sát và coi chừng bạn sẽ lãnh môt giấy phạt cả trăm đô-la.
Muốn biết luật lệ lái xe tại Hoa Kỳ được thi hành nghiêm ngặt như thế nào thì bạn cứ qua đây rồi sẽ biết. Vào lúc canh khuya, đường phố vắng hoe không người qua lại mà các xe vẫn phải ngừng lại khi có đèn đỏ và chờ đèn xanh mới được đi. Nếu bạn đi ẩu, vượt đèn đỏ mà máy chụp hình ghi được thì bạn có thể bị thu hồi bằng lái xe, phải đi học một khóa về luật lệ lái xe, rồi phải “lao động cải tạo” như quét dọn đường phố, lượm rác v.v… và bỏ ra khoảng 500 đô-la để đóng tiền phạt. Bạn đã thất kinh hồn vía chưa?
Còn nếu bạn lái xe khi nồng độ rượu trong máu ở mức 0.08 thì bạn có thể bị tù. Xin nhớ cho tự do ở Mỹ không có nghĩa là muốn làm gì thì làm.
13) Không chen lấn: Xếp hàng chờ tới phiên mình là văn hóa lớn của các quốc gia văn minh. Trẻ em lớp mẫu giáo ở Mỹ đã học cách xếp hàng chờ tới phiên mình, học nhìn đèn xanh đèn đỏ để dừng lại hay băng ngang đường. Tại bất cứ cửa hàng buôn bán, dịch vụ, văn phòng chính phủ nào, nếu bạn chen lấn thì cô thư ký hoặc người tính tiền sẽ không phục vụ bạn và yêu cầu bạn phải xếp hàng. Lúc đó bạn có nước độn thổ!
Xin nhớ cho xếp hàng chờ tới phiên mình còn là thể hiện tính công bằng, trật tự xã hội và tự trọng .
14)  Không xả rác bừa bãi: Không xả rác bừa bãi là một thói quen có tính tự giác và cần phải được huân tập. Một thành phố đầy nhà chọc trời cùng những khu thương mại tráng lệ mà rác rưởi đầy đường thì chẳng còn ra cái thể thống gì nữa. Rác rưởi làm mất vẻ mỹ quan, gây ô nhiễm môi trường (hôi thối), lây lan bệnh tật, làm chết những dòng sông, những con kênh tươi mát đang cung cấp nguồn nước và tôm cá. 
Do đó giáo dục người dân không xả rác bừa bãi là trách nhiệm lớn của đất nước. Phải dạy dỗ con em giữ gìn vệ sinh - không xả rác bừa bãi từ trong nhà ra tới trường học rồi tới công sở, trại lính cùng các nơi thờ phượng. Trước khi đề cao những đức tính cao đẹp của dân tộc, hãy chứng tỏ người dân của mình biết giữ gìn vệ sinh đường phố trước đã. Thói quen xả rác bừa bãi giống như một cố tật rất khó sửa chữa.
Hiện nay vấn đề bảo lãnh gia đình, du lịch qua Mỹ tương đối dễ dàng. Vào các khu thương mại của người Việt như Thành phố San Jose chẳng hạn, chúng ta sẽ bắt gặp những người mới định cư vài năm hoặc qua chơi. Họ thản nhiên quăng mẩu thuốc lá hoặc hộp thuốc lá xuống đất mà không thấy ngại ngùng gì cả. Điều này khó thấy ở những người đã định cư lâu đời hoặc thanh thiếu niên trưởng thành ở Hoa Kỳ.
Ngày nay, thói quen hút thuốc lá gần như “tuyệt chủng” tại Hoa Kỳ nhưng sắc dân hút thuốc là nhiều nhất lại người Việt Nam.
15) Giữ gìn vệ sinh chung: Chúng ta phải giữ gìn vệ sinh từ buồng ngủ, nhà tắm, phòng ăn ra tới công sở, đường phố và tất cả mọi nơi. Nếu ăn uống chung như tiệc tùng, đám cưới, đám giỗ v.v… thì phải dùng muỗng nĩa chung để gắp đồ ăn, không dùng chén muỗng của mình. Khi ho thì phải bị miệng lại. Tuyệt đối không khạc nhổ xuống đất dù bất cứ ở đâu.
Nếu muốn khạc nhổ, ta kín đáo nhổ vào một mảnh khăn giấy hay khăn mùi-soa rồi bỏ chiếc khăn giấy ấy vào túi. Về nhà chúng ta vứt mảnh khăn giấy ấy vào thùng rác có đậy nắp và giặt khăn mùi-soa. Ngoại trừ nhà hàng có hầu bàn dọn dẹp, tại các tiệm bán “đồ ăn nhanh” (fast food) như McDonalds hoặc cà-phê Starbucks… sau khi ăn uống xong chúng ta phải tự gom tất cả những gì còn thừa bỏ vào thùng rác. Không được để lại trên bàn hoặc ném xuống sàn bất cứ vật gì.
Khi đi vệ sinh xong nhớ rửa tay và chùi khô bằng khăn giấy. Giữ gìn vệ sinh chung là bổn phận của tất cả mọi công dân và cần được giáo dục ngay từ thuở ấu thơ, từ gia đình tới học đường.
16) Lịch sự, không nói năng ồn ào chỗ đông người: Lịch sự có nghĩa là: cử chỉ nhẹ nhàng, nhường bước, không chen lấn, không tranh giành trong khi xếp hàng mua vé, trên xe buýt, nơi công sở hoặc khi mua sắm và tuyệt đối không nói năng ồn ào.
Còn đối với các buổi lễ, hội thảo, thuyết pháp phải tuyệt đối giữ im lặng để tôn trọng người khác và để chứng tỏ mình có văn hóa. Trong đám đông, nếu có gọi điện thoại cầm tay thì phải nói với âm lượng vừa phải. Trong khi xếp hàng nhớ đừng đứng sát người ta quá mà phải giữ một khoảng cách vừa đủ. Nhớ không nhìn chăm chăm vào mặt người ta hoặc nhìn soi mói làm người ta khó chịu.
Nếu có người nào đó đứng gần mình tỏa ra mùi hôi thì cố mà nhịn hoặc âm thầm bỏ đi, chớ làm bất cứ cử chỉ, lời nói nào tỏ ra khó chịu hoặc khinh bỉ. Trong một xã hội văn minh người ta tránh mọi hành động cử chỉ, lời nói hạ thấp phẩm giá người khác.
17) Mỉm cười và chào hỏi: Mỉm cười và chào hỏi là biểu hiện của thân thiện và hòa bình. Nụ cười và lời chào hỏi không mất tiền mua nhưng gây thiện cảm với tất cả mọi người và tạo cho quanh mình một không khí an lành. Tại Mỹ, trong công sở, trường học, hãng xưởng người ta luôn luôn chào hỏi nhau để tạo không khí an vui cho môi trường lao động. Nếu buổi sáng bước vào sở làm, bạn lầm lầm lì lì không chào hỏi ai thì mọi người chung quanh bắt đầu lo ngại. Thế nào cũng có người thân tới vỗ vai hoặc ôm lấy bạn hỏi, “Are you OK?” (Bạn có sao không?).
Người Mỹ rất sợ phải làm việc trong một môi trường mà không khí nặng nề giống như… trái bom nổ chậm. Sự thân thiện không những có trong công sở mà còn lan ra ngoài đường phố. Chẳng hạn bạn đang chạy bộ trong một công viên, người chạy ngược chiều với bạn, dù không quen biết, khi gặp bạn họ cũng thường lên tiếng chào, “Hi, how are you? (Chào ông chào bà).
Thậm chí gặp một em bé đi xe đạp họ cũng chào như vậy. Trong một đất nước mà xóm làng, đường phố, công viên tràn ngập tiếng chào nhau là đất nước thanh bình, thân ái, đoàn kết. Nhìn tượng Phật Di Lặc chúng ta thấy an vui vì ngài cười. Nếu tượng Phật Di Lăc mặt khó đăm đăm (nghiêm và buồn) hoặc nhăn nhó khổ đau chắc chúng ta chẳng ham đến gần hoặc chiêm bái Ngài làm gì.
Nụ cười đem lại niềm vui cho tâm hồn còn hơn cả liều thuốc bổ.
Kết luận
Là người Phật tử, chúng ta lấy giáo lý của Đức Phật làm nền tảng, cộng thêm với những giá trị rất thế tục của một xã hội văn minh, cùng nhau huân tập và cùng giúp người khác tiến lên để hoàn thiện xã hội. Hoàn thiện xã hội có nghĩa là làm cho xã hội, đất nước này mỗi ngày mỗi trở nên tươi đẹp. Khi đất nước và con người trở nên tươi đẹp thì đó chính là Cực Lạc Tại Thế. 
Hoàn thiện xã hội còn có nghĩa là “hằng thuận vì lợi ích chúng sinh”. Mà “hằng thuận vì lợi ích chúng sinh” là cúng dường chư Phật. Năm xưa Đức Phật nói rằng, “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành” thì ngày nay chúng ta có thể phát nguyện:
Chúng ta sẽ là những Phật tử hoàn thiện”.
Sau hết, một đất nước cường thịnh, tươi đẹp - giống như sự tu hành- không phải là phép lạ từ trên trời rơi xuống mà đòi hỏi sự hy sinh, gian khổ. Không tự giác, không ý thức, không kỷ luật, không giáo dục bản thân thì đừng nói tới chuyện tươi đẹp.
Đào Văn Bình
(Mùa Phật đản PL.2557 - DL.2013

Vương Trung Hiếu: ÔNG BỤT LÀ AI?

Ảnh lấy từ Thầy An Trú's fb

ÔNG BỤT LÀ AI?
(Bài đăng báo Văn Nghệ Thái Nguyên số 24, 16/6/2020)

Từ thế kỷ thứ 13 vua Trần Nhân Tông đã viết: Thờ phụng bụt trời, Đêm ngày hương hoả, Tụng kinh niệm bụt (trích bài Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca). Trong ca dao, tục ngữ Việt Nam cũng không hiếm những câu nói về ông Bụt: Chùa làng hai mõ bốn chuông, Có ba tượng Bụt, có ông thần già; Muốn tu chùa ngói Bụt vàng, Chùa tranh bụt đất quanh làng thiếu chi; Bụt chùa Già, ma chùa Dọc hay Bụt không ăn mày ma ...

Vậy, ông Bụt là ai?

Từ lâu, trong cổ tích, người ta thường xây dựng hình tượng Bụt là một ông già râu tóc bạc phơ, tay cầm gậy hoặc phất trần và mặc định đó là một vị tiên. Đây là quan niệm sai lầm, bởi vì chắc chắn rằng Bụt chính là Phật. Bây giờ chúng ta tìm hiểu về vấn đề này.
+ Phật: Trong chữ Nôm, có 2 từ phật đều mượn từ Hán ngữ, đó là 佛 (âm Hán Việt: phật) và 髴 (âm Hán Việt: phất), ở đây chúng ta phân tích chữ đáng chú ý nhất: phật 佛 trong Hán ngữ.

Người ta không tìm thấy chữ phật 佛 trong Giáp cốt văn, ngay cả trong Tần Hán kim văn (221 tr.CN - 219 s.CN) cũng vẫn chưa có chữ này. Về sau, chữ phật 佛 mới được ghi nhận trong hệ thống Lục thư với 2 cách viết theo lối tiểu triện là và , còn trong Thuyết văn giải tự thì có 1 chữ là .

Trong Hán ngữ chữ phật 佛 có cấu tạo theo lối hình thanh, kết hợp giữa chữ nhân 亻(biểu ý) và phất 弗 (biểu âm). Theo Đường vận, vận hội và chính vận thì chữ 佛 có thiết âm là phù vật 符勿 nên khi chuyển sang từ Hán Việt sẽ được đọc là phật (vì phù + vật = phật).
Trong Hán ngữ cổ, chữ 佛 được viết là 仏 (cũng đọc là phật). Một số học giả cho rằng phật 佛 là chữ viết rút gọn từ Bột Đà 勃 陀 hay phật đà 佛陀 – những chữ phiên âm từ chữ बुद्ध (buddha) trong tiếng Sanskrit. Theo chúng tôi, đây là nhận định không chuẩn xác, bởi vì Bột Đà 勃 陀 và Phật Đà 佛陀 chỉ là những chữ phiên âm từ chữ buddha, tức dựa vào cách phiên âm của chữ बुद्ध sang tiếng Latin hoặc tiếng Anh, trong khi đó phật 佛 là 1 từ độc lập, chỉ có thể phiên âm trực tiếp từ chữ बुद्ध mà thôi.

Chúng ta biết rằng chữ बुद्ध đọc theo tiếng Sanskrit là buddh (âm bud + âm bật hơi dh). Như vậy, âm được nghe rõ là bud, và đây chính là âm “tiền thân” của từ phật 佛.

Phật 佛 là từ mà giáo sư Edwin G. Pulleyblank (Canada), một chuyên gia về âm vị học Trung Quốc đã phục dựng âm trung cổ sơ kỳ là but, về sau but biến thành fɦjyt rồi trở thành fɦut trong giai đoạn âm trung cổ hậu kỳ (1). Như vậy, xin nhắc lại, chữ 佛 là 1 từ độc lập, chỉ có thể phiên trực tiếp từ chữ बुद्ध trong tiếng Sanskrit chứ không phải phiên từ chữ buddha để trở thành Bột Đà 勃 陀 hay Phật Đà 佛陀.

+ Bụt: Trong chữ Nôm, từ bụt có 2 cách viết là 侼 (bột) và 孛 (bột), đều mượn từ Hán ngữ để tạo thành chữ bụt (không mượn nghĩa). Chữ bụt có liên quan mật thiết với cách phát âm chữ Phật 佛 trước thời nhà Đường. Theo thượng cổ âm hệ của Trung Quốc, chữ phật 佛 được tạo dựng âm mô phỏng là bɯd. Một số nhà ngôn ngữ học cũng đã phục dựng âm cổ của phật 佛, trông khá giống âm bɯd. Thí dụ: , bʱi̯uət (Cao Bổn Hán 高本漢), bĭuət (Vương Lực 王力), biuət (Lý Vinh 李榮 và Thiệu Vinh Phân 邵榮芬), bɨut (Trịnh Trương Thượng Phương 鄭張尚芳), biut (Phan Ngộ Vân 潘悟雲), but (Bồ Lập Bổn 蒲立本). Ngoài ra, cũng cần kể đến cách phát âm chữ phật 佛 từ âm cổ của tiếng La Mã là byot và biut. Chúng ta thấy gì? Tất cả các âm cổ của phật 佛 đều có phụ âm đầu là b và khá giống với âm but của Bồ Lập Bổn cũng như âm trung cổ sơ kỳ do Pulleyblank phục dựng kể trên. Hiện tượng này có thể lý giải như sau:
Phật giáo chia thành 2 nhánh chính: Phật giáo Bắc tông (Đại thừa) và Phật giáo Nam Tông (Tiểu thừa). Phật giáo Bắc tông từ Thiên Trúc (Ấn Độ) du nhập vào Trung Quốc rồi chủ yếu từ Trung Quốc truyền sang nước ta, ngoài ra còn phải kể đến Phật giáo Nam tông từ những nước khác truyền vào Việt Nam như Indonesia, Sri Lanca và Đông Dương...

Trong tiếng Sanskrit và Pali có trên 40 chữ được dịch là buddha (tiếng Anh) và đều có nghĩa là Phật (2), trong đó từ thường sử dụng nhất là बुद्ध, được phiên âm sang tiếng Latin là buddha giống như trong tiếng Anh. Chữ phật 佛 trong Hán ngữ là chữ phiên âm trực tiếp từ chữ बुद्ध trong tiếng Sanskrit (Bắc Phạn) và Pai (Nam Phạn), phiên chính xác phải là buddh như đã trình bày ở trên, chứ không phải là buddha. Như vậy, chữ phật 佛 có âm thượng cổ và trung cổ sơ kỳ là but thì vô cùng hợp lý. Điều này phù hợp với chữ có nghĩa là Bụt trong tiếng Việt và những chữ có âm tương ứng với but, cũng dùng để chỉ Phật đối với những nước theo Phật giáo Nam tông. Thí dụ: ពុទ្ធ = bout (trong tiếng Khmer); ພຸດ = but (Laos); พุทธ = but (Thái Lan)…

Kết luận
Từ những dẫn chứng trên, có thể khẳng định rằng Bụt và Phật là 2 cách gọi chữ 佛 qua từng thời kỳ, song đều có nghĩa giống nhau. Bụt là âm Hán Việt cổ, còn Phật là âm Hán Việt. Chính vì thế, Bụt là Phật, chứ không phải là hình tượng ông tiên như trong truyện cổ tích. Hơn 30 năm qua, chẳng phải ngẫu nhiên mà thiền sư Thích Nhất Hạnh nhắc đến đạo Bụt và việc thờ Bụt.

Vương Trung Hiếu
-------------------------
(1): E. G. Pulleyblank. Middle Chinese: A Study in Historical Phonology. University of British Columbia Press. Vancouver, 1984.
(2): Thí dụ như बुद्ध (buddha), करुण (karuNa), सूचक (sUcaka), लोकज्येष्ठ ( lokajyeSTha), तमोघ्न (tamoghna), सरल (sarala), विगतद्वन्द्व (vigatadvandva), धर्मकेतु (dharmaketu) hay आर्य (Arya)…

Tuesday, June 9, 2020

Suy Nghĩ Về Văn Học Phật Giáo Việt Nam

Hoa Ðàm số 4: Suy Nghĩ Về Văn Học Phật Giáo Việt Nam

Ðặc san Hoa Ðàm – Số 4 – Chủ Ðề “Văn Học Phật Giáo”,
phát hành ngày 30 tháng Tư, 2017
Chủ trương và thực hiện:
Hoa Ðàm Group
Kết tập:Tâm Thường Định Bạch Xuân Phẻ – Nguyên Túc Nguyễn Sung
Tâm Khai Sơn Nguyễn Anh Thy
Nhuận Pháp Trần Nguyễn Nhị Lâm – Quảng Pháp Trần Minh Triết
Ðây là điều người viết từng ưu tư khi nhìn lại quãng đường trên một phần tư thế kỷ của nền văn học Phật giáo trong nước cũng như hải ngoại. Những ưu tư này đã được trình bày một cách sơ sài qua buổi thuyết trình với một số Tăng Ni tại trường hạ Chùa Phật Tổ, Long Beach, California, Hoa Kỳ vào ngày 25/6/2006, chủ đề “Mấy suy nghĩ về văn học Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại.” Thời gian ít ỏi chưa đầy hai giờ đồng hồ không đủ để nói và lắng nghe được những gì cần thiết liên quan đến chủ đề. Đa số Tăng Ni đã chia sẻ với người viết về những thao thức và hoài vọng đóng góp cho văn học Phật giáo, nhưng đi vào đường hướng và hành động cụ thể thì dường như không có gì, bởi vì, có thể nói rằng, Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại không có một tư tưởng chủ đạo hay một hướng đi rõ rệt nào trên phương diện văn học. Nói theo ngôn ngữ chuyên khoa thời thượng, điều này có nghĩa rằng chúng ta chưa có một ‘định hướng văn học’ Phật giáo.
Thực ra, Phật giáo có cần một định hướng văn học chăng? Đây là một chủ đề lớn, vượt khỏi tầm mức của người viết, cần được thảo luận và học hỏi nhiều hơn từ những bậc cao minh thức giả có thẩm quyền về Phật học và văn học. Nhưng có thể từ vị trí của một người sáng tác, xin đưa ra một vài nhận xét có tính cách gợi ý để mong cầu sự hồi ứng từ những người làm văn học Phật giáo:
– Sự dậm chân của sáng tác: Không khác những người làm văn học ở thế tục, những người sáng tác Phật giáo bị khựng lại một thời gian khá dài sau biến cố lịch sử của đất nước từ năm 1975. Liền sau đó là một nền văn học bị phá sản và o ép đi vào ‘định hướng xã hội chủ nghĩa’ trong nước, trong khi ngoài nước là một nền văn học tạm dung, rồi văn học lưu vong, văn học hoài niệm, văn học hội nhập… có vẻ như không dính dự và theo kịp các trào lưu văn học thế giới mà chỉ là những diễn đạt có tính cách phản ứng theo tâm thức và hoàn cảnh của mình. Theo cách ấy, có thể nói là chính từ biến cố và hoàn cảnh mà bộc phát những”trào lưu” của một nền văn học khu biệt, dậm chân tại chỗ. Từ khuynh hướng cho đến thể loại sáng tác, những phật-tử nghệ sĩ và những nghệ sĩ phật-tử của 30 năm qua tại hải ngoại không có gì khác hoặc khá hơn so với những người sáng tác trước năm 1975. Trong nước bị hạn chế vì “quan điểm và lập trường” và chính sách độc quyền tư tưởng, bưng bít thông tin đã đành, ngoài nước quá tự do thì sự dậm chân không thể qui lỗi cho hoàn cảnh được nữa. Thiếu nhân lực chăng? Thiếu tài lực chăng? — Không phải. Thế thì, làm thế nào để phát huy một nền văn học Phật giáo Việt Nam rực rỡ không chỉ cho chính nó mà còn đi vào dòng chính của văn học dân tộc, văn học thế giới?
– Mục đích và định hướng văn học Phật giáo: Mục tiêu tối hậu của hành giả Phật giáo là giải thoát, giác ngộ thì mục đích của Tam tạng thánh điển hoặc văn học Phật giáo cũng qui vào đó. Nhưng có chăng một con đường dẫn đến mục tiêu ấy? Đứng về mặt chân đế (cứu cánh) mà nói, chẳng có thứ phương tiện ngữ ngôn văn tự nào có thể chạm đến tuyệt đối. Vậy thì, mọi cố gắng của Tam tạng kinh điển cũng như các thể loại và văn bản Phật giáo được sáng tác đều chỉ mang tính cách ước lệ, tương đối, giới hạn, nhằm gợi ý hoặc hướng dẫn sự trực nhập chân lý chứ không phải tự thân chúng là chân lý. Không có con đường dẫn đến thực tại tối hậu. Giới hạn của văn học như thế, đã được đề cập qua bài “Dẫn vào thế giới văn học Phật giáo” của Tuệ Sỹ: “…mọi diễn tả của ngôn ngữ không được phép vượt qua giới hạn của tri thức thường nghiệm. Chân lý chỉ tuyệt đối ở tự thân của nó, nhưng là tương đối ở lãnh vực diễn đạt của ngôn ngữ. Vì vậy, các tác giả của Phật học có thói quen mở đầu tác phẩm của mình bằng một thái độ khiêm tốn: những gì họ sẽ trình bày không liên hệ đến tự thân của chân lý mà họ muốn hướng đến.” Hệ luận có thể rút ra từ đây là, khi văn học được xem là ‘phương tiện’ để thuyết minh cứu cánh, văn học không còn là văn học. Bởi nếu tự thân văn học không là cứu cánh, nó không quan hệ gì đến chân lý; còn nếu chỉ là phương tiện cho một cái gì ngoài nó, muôn đời nó chỉ là xác khô. Thế nhưng, ai cũng biết là Tam tạng kinh điển đã được thuyết minh, là một kho tàng văn học đồ sộ của Phật giáo. Tam tạng kinh chỉ là phương tiện, không phải là cứu cánh, nhưng qua đó, thế giới tịch lặng linh động của bản thể có thể được trình hiện bởi sự trực nhận sâu sắc của người nghe (đọc). Không thể vì giới hạn của ngôn ngữ mà không thuyết giáo. Đức Phật đã kinh qua con đường ấy, và người sau cũng cứ thế mà đi. Có nghĩa là vẫn có mục đích và định hướng hay một phương thức nào đó để diễn đạt chân lý. Mục đích là giải thoát giác ngộ. Định hướng hay phương thức diễn đạt chính là Tứ Diệu Đế. Phật giáo đã có sẵn một khuôn mẫu, một định hướng rõ rệt cho giáo điển. Văn học Phật giáo mọi thời mặc nhiên đi theo định hướng ấy.
– Định mà bất định: Tứ Diệu Đế không phải là một khuôn mẫu cứng ngắc. Đó là cánh cửa tóm thâu hai vòm trời chân đế và tục đế. Như hai mặt gương soi chiếu vào nhau, mở vào tương quan vô tận. Từ chỗ này, chẳng có biên giới giữa phương tiện và cứu cánh; cũng chẳng có giới hạn của tư tưởng, phương thức và thể tài văn học. Nói theo ngôn ngữ của Kim Cang bát-nhã thì cứu cánh chẳng phải là cứu cánh thì mới là cứu cánh; định hướng chẳng phải là định hướng thì mới là định hướng. Tất cả các pháp đều chẳng phải là pháp, đồng thời, không có pháp nào mà chẳng là Phật pháp. Từ không tính mà phủ nhận tất cả, cũng từ không tính mà xác lập tất cả. Lấy diệu hữu mà phô diễn chân không; từ chân không mà trình bày diệu hữu. Nói mà thực ra chẳng nói gì cả. Định hướng mà kỳ thực là bất định hướng. Như vậy, một hướng mà mở ra muôn hướng. Đó là con đường thênh thang của văn học Phật giáo.
Nhưng cần gì phải lý luận dông dài! Vẻ mênh mông tráng lệ của tư tưởng văn học Phật giáo dường thế, nhưng đâu là thực tế của nền văn học Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại (và trong nước)?
– Văn học kinh viện: Văn học Phật giáo Việt Nam 30 năm nay có vẻ khép kín, thầy-trò trong chùa đóng cửa nói nhau nghe, dường như không liên hệ tới nền văn học dân tộc. Văn học dân tộc ở đây là nói một nền văn học của một cộng đồng con người dùng chung một ngôn ngữ, có những sinh hoạt sáng tác nghệ thuật, góp phần tạo nên bản sắc của một nền văn hóa đặc trưng, có thể thăng trầm đổi thay, nhưng nhất quán. Ở đây không dám vượt qua lằn ranh tính thể của văn học, mà chỉ xin xét nơi hiện tượng sinh hoạt của văn học. Có thể nói sinh hoạt văn học Phật giáo Việt Nam 30 năm qua là sinh hoạt “cửa tùng đôi cánh gài.”thử nhìn lại thời kỳ 1964-1975, những Nhất Hạnh, Huyền Không, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Quách Tấn, Võ Hồng, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Đức Sơn, Trịnh Công Sơn, Phạm Thiên Thư… không những là văn thi sĩ lỗi lạc của Phật giáo mà còn là những danh tài nghiễm nhiên chiếm lĩnh những vị trí hàng đầu trong vuông chiếu văn học nghệ thuật miền Nam Việt Nam. Những văn thi tài ấy cùng những tác phẩm cũ hoặc mới của họ cho đến ngày nay, vẫn còn là những ngôi sao sáng ảnh hưởng sâu đậm trong nền văn học dân tộc (và trong một vài trường hợp đặc biệt, văn học thế giới). Nhưng sau năm 1975, ở trong và ngoài nước, sao lại có hiện tượng vắng hoe nhân tài văn học trong giới Phật giáo như thế? Chúng ta có thể tính kể cho nhau nghe, nào là nhà văn A, nào là nhà thơ B, nào là nhạc sĩ C, nào là họa sĩ D… nhưng tại sao những văn nghệ sĩ ấy nổi danh trong Phật giáo lại không hề được biết đến trong giới văn nghệ sĩ cũng như giới thưởng ngoạn văn học nghệ thuật bên ngoài? Khi họ vào chùa, nhìn kinh sách báo chí nhà chùa thì họ biết thoáng qua những tên tác giả, nhưng ra khỏi chùa thì không còn nhớ đến nữa. Điều này có nghĩa gì? – Một là, Phật giáo thiếu những nhân tài văn học nghệ thuật kiệt xuất; hai là các nhân tài văn học Phật giáo chỉ sáng tác với mục đích truyền bá Phật Pháp, không quan tâm đúng mức chức năng thực sự của văn học, cho nên, không có tác phẩm xuất sắc; ba là sinh hoạt văn học Phật giáo rất cục bộ, không tiếp cận cuộc đời. Ba lý do ấy tác động hỗ tương với nhau, cô lập nền văn học Phật giáo khỏi dòng chính của văn học nhân gian.
– Nghệ sĩ phật tử và phật tử nghệ sĩ sáng tác gì? Báo chí Phật giáo kêu gọi sự góp mặt của những ‘nghệ sĩ phật tử’ có tiếng tăm, nhưng những nghệ sĩ này không biết phải góp mặt bằng cách nào. Nhà thơ tìm trong tập thơ trăm bài của mình xem bài nào có vẻ thuần tịnh, tả cảnh chùa với tiếng chuông mõ, hoặc phảng phất bóng dáng từ bi. Nhà văn tìm bài nào có liên hệ tới Phật và Bồ-tát hoặc một vị sư nào đó. Không tìm được bài thích hợp thế giới chay tịnh của thiền môn, các nghệ sĩ phật tử đành bó tay, im lặng, và đôi khi phải lánh mặt không bén mảng đến chùa. Còn những ‘phật tử nghệ sĩ’ thì lúc nào cũng hăng say sáng tác, nhưng bài vở chỉ rập khuôn một công thức “văn dĩ tải đạo.” Viết cho báo chùa thì phải viết về chùa. Ăn chay, trì chú, tụng kinh, niệm Phật, hình như là đề tài muôn thuở không thể thiếu trong các sáng tác Phật giáo. Thế nên, số lượng sáng tác thì nhiều mà phẩm chất lại kém, thơ văn của người này sàng sàng na ná của người kia, chẳng có cá tính, chẳng có sự đặc thù. Một nền văn học đầy dẫy những sáng tác có vẻ “vô ngã” tương tự nhau như thế, không thể gọi là một nền văn học thuần túy, mà chỉ là phòng thông tin của một cơ quan truyền giáo. Thiền sư nghệ sĩ như Nhất Hạnh có thể dùng văn học làm phương tiện truyền đạo mà phương tiện ấy vẫn cứ là tối hảo; nghệ sĩ thiền sư như Tuệ Sỹ sáng tác hào hoa cách nào cũng thể hiện lồng lộng cung trời tính Không. Nhưng đó là những tài năng ngoại hạng. Nơi họ, văn học cũng là phương tiện, cũng là cứu cánh. Nói cách nào cũng là đạo, mà im lặng cũng là đạo. Còn những người nghệ sĩ phật tử và phật tử nghệ sĩ ‘tầm tầm bậc trung’ như chúng ta, tất phải vạch một “khởi điểm” nhắm đến một “đích điểm.”tức là cần phải có một định hướng văn học với những chủ đề mở rộng, được khai triển từ Tứ Diệu Đế, có thể tạm gọi là nền ‘văn học Tứ Đế.’ Các nghệ sĩ phật tử và phật tử nghệ sĩ có thể bổ túc cho nhau, học hỏi và trao đổi nhau về tư tưởng phật học và các thể loại sáng tác văn học. Mà quan trọng nhất là từ phía hàng tăng sĩ lãnh đạo Phật giáo, cần phải có một cái nhìn cởi mở đối với văn học, từ nội dung đến hình thức, từ ý tứ đến thể tài. Một nền văn học khởi sắc rực rỡ chỉ có thể nẩy mầm và vươn cao từ mảnh đất tự do. Chất liệu giải thoát và tư tưởng mênh mông khoáng đạt của Phật giáo là nguồn tài nguyên vô tận cho cảm hứng sáng tạo của nghệ sĩ. Những nhà lãnh đạo Phật giáo không thể không quan tâm.
 Với mấy suy nghĩ và nhận xét khái quát về hiện trạng văn học Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại (và trong nước) như thế, người viết luôn kỳ vọng báo chí Phật giáo sẽ là những quán trọ ở ngã tư đường, mở toang bốn hướng cửa để tiếp đón lữ khách bốn phương, là chỗ nối kết cho các khuynh hướng sáng tác văn học Phật giáo, là viên gạch lót đường cho những khai phá, sáng tạo, tìm tòi, thử nghiệm… như là khởi điểm cho một viễn trình làm mới bộ mặt văn học Phật giáo. Sẽ có ít người đồng tâm hưởng ứng. Sẽ có khá nhiều người bảo thủ chống đối. Nhưng không sao. Chẳng có cuộc cách mạng nào có thể diễn ra một cách êm thấm xuôi thuận.
Mở hướng mới không thể không nhìn lại chặng đường đã qua. Tản mạn đôi điều về văn học Phật giáo Việt Nam như thế nếu có làm phật lòng ai, cũng là điều vạn bất đắc dĩ.
Bởi vì, đích điểm của văn học Phật giáo là gì?
Là sự vượt qua.
Ma ha bát nhã ba la mật.
California, ngày 01 tháng 9 năm 2006
Vĩnh Hảo

10 cách sử dụng mạng xã hội có ý thức

10 cách sử dụng mạng xã hội có ý thức

Lori Deschene / Hoa Ðàm dịch

Ðặc san Hoa Ðàm, số 2 chủ đề Truyền Thông Phật Giáo.
Chủ trương: Lotus Media.
Thực hiện: Tâm Thường Ðịnh – Nguyên Túc – Quảng Pháp

Thay lời nói đầu: Tái lập truyền thông và đem lại sự hòa giải là chuyện có thể làm được. Sự thực tập ái ngữ và lắng nghe giúp cho chúng ta thiết lập lại truyền thông và đưa tới sự hòa giải. “Anh ơi, em biết là anh có rất nhiều khổ đau trong những năm vừa qua. Em đã không giúp gì được cho anh mà còn làm cho tình trạng trở nên tệ hại hơn. Em xin lỗi anh! Em không cố ý làm cho anh khổ. Nhưng em đã không thấy và không hiểu được nỗi khổ niềm đau trong anh, vì vậy anh phải giúp cho em. Anh phải nói cho em biết những gì trong lòng anh, những khó khăn và những khổ đau của anh. Em tin chắc rằng nếu hiểu được khổ đau trong anh thì em sẽ không hành xử như em đã từng làm những năm qua. Anh phải giúp cho em. Anh phải nói cho em biết những gì chất chứa trong lòng. ” Đó là ái ngữ, là chìa khóa để mở cửa trái tim của người kia. Sự thực tập này rất là hiệu nghiệm, cho dù là giữa hai người đã có khó khăn trong 5 năm rồi. Người kia sẽ nói cho ta biết những gì trong trái tim họ và bây giờ ta có thể thực tập như Bồ tát Avalokiteshvara (Bồ tát Quán Thế Âm): Chỉ lắng nghe thôi và lắng nghe với tâm từ bi. Lắng nghe với tâm từ bi có mục đích: Giúp cho người kia trải hết lòng ra để cho họ bớt khổ. Nếu người kia có những cái thấy sai lầm thì ta cũng không nên cắt ngang. Ta phải để cho người kia nói. Sau này, nếu có thì giờ thì ta sẽ cung cấp vài dữ kiện để người kia thấy được tri giác sai lầm đó, nhưng bây giờ thì chưa. Bây giờ là lúc mình thiết lập lại truyền thông và hòa giải với nhau. [Pháp thoại của Sư Ông Làng Mai ngày 27. 10. 2014  trong khóa tu chánh niệm dành cho thầy cô giáo và các nhà giáo dục được tổ chức tại Làng Mai từ ngày 25/10 – 1/11/2014]

10 cách  sử dụng mạng xã hội  có ý thức

Trong hai năm qua, mỗi ngày tôi đã đăng lên trang Twitter Tiny Buddha của mình những câu trích dẫn về trí tuệ. Vì số lượng người theo dõi đã gia tăng đáng kể, nhiều người đã gợi ý tôi nên đăng bài thường xuyên hơn. Tuy nhiên, tôi nhận ra rằng bài học lớn nhất tất cả chúng ta có thể học được là: ít là đủ. Trong thời buổi mà những kết nối dường như là những hàng hóa và những tương tác trực tuyến có thể trở nên giả tạo một cách bình thường, tỉnh thức (mindfulness) không phải chỉ đơn giản gia tăng ý thức (awareness), mà là hiệp thông một cách tỉnh thức với người khác và với chính mình. Hướng tới mục tiêu này, tôi đã soạn ra một danh sách 10 mẹo vặt để sử dụng mạng xã hội một cách tỉnh thức hơn.

1. Biết được ý định của chính mình

Tác giả Doug Firebaugh của trang SocialMediaBlogster.com đã nêu ra 7 nhu cầu tâm lý chúng ta có thể có mỗi khi đăng nhập: sự công nhận, chú ý, chấp thuận, biết ơn, khen ngợi, bảo đảm, và hội nhập. Trước khi bạn đăng một cái gì, hãy hỏi chính mình: Có phải mình đang muốn được mọi người nhìn thấy hay chấp thuận? Mình có thể làm được điều gì mang tính cách xây dựng hơn không để đạt được nhu cầu đó?

2. Sống thật với chính mình

Trong thời đại của sự đánh bóng thương hiệu cá nhân, đa số chúng ta đều có một cá tính chúng ta muốn phát triển và gìn giữ. Những câu status từ – bản – ngã tập trung vào một lịch trình; còn bản chất thật thì đối thoại từ trái tim. Hãy nói về những điều thật sự quan trọng với bạn. Nếu bạn cần một lời khuyên hay hỗ trợ, hãy hỏi mọi người. Sống trong hiện tại trở nên dễ dàng hơn khi bạn sống thật với chính mình.

3. Nếu bạn chuẩn bị đăng status, hãy luôn hỏi bản thân: Nó có thật không? Nó có cần thiết không? Nó có tử tế không?

Đôi khi chúng ta đăng những câu status mà không nghĩ đến nó sẽ ảnh hưởng tới những người đọc như thế nào. Chúng ta rất dễ quên rằng có bao nhiêu người đang đọc nó. Trước khi bạn chia sẻ điều gì, hãy hỏi bản thân: Liệu chuyện này có làm hại ai không?

4. Làm một người tốt bụng

Thỉnh thoảng tôi hay tweet trên Twitter, “Tôi có thể làm được gì để giúp đỡ hay hỗ trợ bạn hôm nay không?” Nó là một cách đơn giản của sự cho đi mà không mong nhận lại. Bằng cách dang tay ra giúp một người lạ, bạn tạo ra một khả năng kết nối thân thiết với những người theo dõi mình, bằng không thì bạn chỉ biết họ ở bề ngoài.

 5. Trải nghiệm trước, chia sẻ sau

Không có gì lạ khi bạn lấy điện thoại của mình ra và chụp một tấm ảnh rồi đăng lên Facebook. Điều này che lấp đi trải nghiệm hiện tại. Nó cũng làm giảm đi sự gần gũi riêng tư của khoảnh khắc, bởi vì toàn bộ followers của bạn sẽ tham gia nhập hội ngay lúc đó. Cũng giống như khi chúng ta cố gắng giảm bớt những âm thanh ồn ào nội tâm để sống trong hiện tại, chúng ta cũng có thể làm được điều tương tự với những âm thanh kỹ thuật số.

6. Hãy chủ động, đừng thụ động

Bạn có thể nhận email thông báo mỗi khi có hoạt động gì đó trên các tài khoản truyền thông xã hội, hay cũng có thể nhận được các thông báo qua điện thoại. Điều này khiến bạn phải quyết định xem mình có muốn hay cần trả lời không. Một cách tiếp cận khác đó là lựa chọn cẩn thận những cuộc đối thoại, và sử dụng thời gian offline của mình để quyết định những giá trị nào bạn có thể mang lại.

7. Hãy trả lời với tất cả sự chú ý

Nhiều người thường chia sẻ những đường link mà chưa thật sự đọc chúng, hay tham gia bình luận các bài viết khi chỉ mới đọc lướt qua. Nếu món quà lớn nhất chúng ta có thể tặng một người là sự chú ý, thì mạng xã hội cho phép chúng ta rộng lượng vô tận. Chúng ta có thể sẽ không trả lời được tất cả mọi người, nhưng một câu trả lời chứa đầy tư duy khi có thể tạo ra tất cả sự khác biệt.

8. Hạn chế sử dụng mạng xã hội bằng mobile

Năm 2009, Pew Research có thống kê cho thấy 43% người dùng di động truy cập internet trên điện thoại nhiều lần trong ngày. Điều mà Linda Stone, cựu nhân viên Microsoft, gọi là sự tập trung liên tục ngắt quãng – khi bạn thường xuyên check facebook không bỏ sót chuyện gì. Nếu bạn tự giới hạn chính mình sử dụng điện thoại để truy cập internet, bạn có thể sẽ bỏ sót những gì trên mạng, nhưng bạn sẽ không bỏ sót những gì ngay trước mắt mình.

9. Luyện tập sự buông bỏ

Có thể bạn sẽ có cảm giác như mình không tốt lắm khi lờ đi một số status hay tweets, nhưng chúng ta cũng phải cần thời gian cho chính mình. Hãy cho phép bản thân bỏ đi những gì ngày hôm qua. Như vậy bạn sẽ không cần phải “bắt kịp” với những status đã qua rồi và thay vào đó bạn sẽ có cơ hội được tham gia vào những gì xảy ra ngày hôm nay.

10. Tận hưởng niềm vui!

Những điều ở trên chỉ đơn thuần là những gợi ý để giúp bạn cảm nhận hiện tại và nhiều hơn sử dụng mạng xã hội một cách có chủ đích hơn; chúng không phải là những quy luật cứng nhắc. Hãy làm theo bản năng của bạn và hãy tận hưởng niềm vui. Nếu bạn có thể sống tỉnh thức khi ngắt kết nối với công nghệ, bạn đã có đủ mọi công cụ cần thiết để có thể tỉnh thức khi lên mạng.