Saturday, February 27, 2021

Greelane: Tên chính thức cho mọi thế hệ là gì?

 

Các thế hệ ở Hoa Kỳ được định nghĩa là các nhóm xã hội gồm những người sinh ra trong một khoảng thời gian xác định có chung các đặc điểm văn hóa, giá trị và sở thích. Ở Hoa Kỳ ngày nay, hầu hết mọi người xác định là Millennials, Xers hoặc Boomers. Trong khi tên thế hệ đã tồn tại trong nhiều năm, việc sử dụng chúng thường xuyên là một hiện tượng văn hóa khá gần đây.

Lược sử về các thế hệ đặt tên

Các nhà sử học thường đồng ý rằng việc đặt tên theo thế hệ bắt đầu từ thế kỷ 20. Chính nhà văn Mỹ đã qua đời Gertrude Stein là người đã đặt ra thuật ngữ “Thế hệ mất tích” trong tác phẩm của cô. Bà đã ban tặng danh hiệu này cho những người sinh ra vào khoảng đầu thế kỷ 20, những người đã cống hiến cả cuộc đời mình để phục vụ trong Thế chiến thứ nhất. một thế hệ đã mất. “

Thế kỉ 20

Còn đối với những thế hệ còn lại? Các nhà lý thuyết thế hệ Neil Howe và William Strauss thường được ghi nhận là người xác định và đặt tên cho các thế hệ thế kỷ 20 của Hoa Kỳ trong cuốn sách năm 1991 của họ có tựa đề “Các thế hệ”. Hầu hết các nhãn này đều bị kẹt, mặc dù ngày xác định chúng hơi linh hoạt. Trong nghiên cứu này, hai nhà sử học đã xác định thế hệ đã chiến đấu trong Thế chiến II là Thế hệ GI (viết tắt của “Government Issue”), nhưng tên gọi này sẽ sớm được thay thế. Chưa đầy một thập kỷ sau, Tom Brokaw xuất bản cuốn “Thế hệ vĩ đại nhất”, cuốn sách bán chạy nhất lịch sử văn hóa của cuộc Đại suy thoái và Thế chiến thứ hai, và cái tên đó vẫn được sử dụng cho đến ngày nay.

Thế hệ x

Tác giả người Canada Douglas Coupland, sinh năm 1961 ở phần cuối của Baby Boom, chịu trách nhiệm đặt tên cho thế hệ tiếp nối chính mình. Cuốn sách năm 1991 của Coupland “Thế hệ X: Những câu chuyện về một nền văn hóa tăng tốc” và các tác phẩm sau đó đã ghi chép lại cuộc đời của những người thuộc thế hệ 20 và được coi là đại diện chính xác cho tuổi trẻ của thời đại đó. Không hề hay biết, Coupland vĩnh viễn mang tên Gen X.

Bạn có biết không?

Các nhà lý thuyết thế hệ Neil Howe và William Strauss đã gợi ý tên Thirtearies (dành cho thế hệ thứ 13 sinh ra từ cuộc Cách mạng Hoa Kỳ ) cho Thế hệ X, nhưng thuật ngữ này chưa bao giờ được chú ý.

Thế hệ gần đây nhất

Nguồn gốc của các thế hệ sau Thế hệ X ít rõ ràng hơn nhiều. Vào đầu những năm 1990, những đứa trẻ sinh ra sau Thế hệ X thường được các phương tiện truyền thông như Advertising Age gọi là Thế hệ Y, vốn được công nhận là những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này vào năm 1993. Nhưng đến giữa những năm 90, giữa sự hỗn loạn về Bước sang thế kỷ 21, thế hệ này thường được gọi là Millennials, một thuật ngữ mà Howe và Strauss sử dụng lần đầu tiên trong cuốn sách của họ. Hiện tại có một thế hệ X và một thế hệ Millenial.

Tên của thế hệ gần đây nhất thậm chí còn biến đổi hơn. Một số thích Thế hệ Z hơn, tiếp tục xu hướng bảng chữ cái bắt đầu từ Thế hệ X, trong khi những người khác thích những tựa game nổi tiếng hơn như Centennials hoặc iGeneration. Điều gì sẽ đến trong tương lai là điều ai cũng đoán được và với mỗi thế hệ mới lại có thêm nhiều bất đồng.

Tên và Ngày thế hệ

Một số thế hệ như Baby Boomers chỉ được biết đến với một cái tên, nhưng các thế hệ khác có nhiều danh hiệu để lựa chọn và những điều này gây ra tranh cãi không nhỏ giữa các chuyên gia. Đọc một số hệ thống phân loại và đặt tên các thế hệ thay thế bên dưới.

Howe và Strauss

Neil Howe và William Strauss xác định các nhóm thế hệ ở Hoa Kỳ từ năm 1900 trở đi như sau.

  • 2000–: Thế hệ im lặng mới hoặc thế hệ Z
  • 1980 đến 2000: Millennials hoặc Thế hệ Y
  • 1965 đến 1979: Thirtenies hoặc Thế hệ X
  • 1946-1964:  Baby Boomers
  • 1925 đến 1945: Thế hệ im lặng
  • 1900 đến 1924: Thế hệ GI
    Cục tham khảo dân số

Văn phòng Tham khảo Dân số cung cấp danh sách thay thế và ngày của tên các thế hệ, cho thấy rằng các đường phân cách mỗi thế hệ không nhất thiết phải cụ thể.

  • 1997 đến 2012: Thế hệ Z
  • 1981 đến 1996: Millennials
  • 1965 đến 1980: Thế hệ X
  • 1946-1964: Baby Boomers
  • 1928 đến 1945: Thế hệ im lặng
    Trung tâm Động học Thế hệ

Trung tâm Động học Thế hệ liệt kê 5 thế hệ sau hiện đang hoạt động trong nền kinh tế và lực lượng lao động của Hoa Kỳ. Họ sử dụng các xu hướng nuôi dạy con cái, công nghệ và kinh tế để xác định ngày tháng của mỗi thế hệ.

  • 1996–: Gen Z, iGen hoặc Centennials
  • 1977 đến 1995:  Millennials hoặc Gen Y
  • 1965 đến 1976: Thế hệ X
  • 1946-1964: Baby Boomers
  • 1945 trở về trước: Những người theo chủ nghĩa truyền thống hoặc Thế hệ im lặng

Thế hệ trẻ nhất thì sao?

Nhà nghiên cứu người Úc Mark McCrindle có thể khẳng định công lao khi đặt tên cho nhóm thuần tập trẻ nhất, mà các nền tảng khác đã bỏ qua và không cập nhật: ông gọi những người sinh từ năm 2010–2024 là Thế hệ Alpha.

Trong cuốn sách “ABC của XYZ: Hiểu về các thế hệ toàn cầu”, McCrindle gật đầu với các lý thuyết được trình bày trong nghiên cứu của Howe và Strauss bằng cách gọi trẻ em của thế hệ thiên niên kỷ là “alpha” trên cơ sở rằng thế hệ này rất có thể sẽ lớn lên trong một thời kỳ tái sinh và phục hồi. Thế hệ Alpha, thế hệ đầu tiên được sinh ra hoàn toàn trong thế kỷ 21, đánh dấu một khởi đầu mới cho nền kinh tế, môi trường chính trị, môi trường và hơn thế nữa.

Đặt tên thế hệ bên ngoài Hoa Kỳ

Trong khi khái niệm thế hệ xã hội là một quan niệm phần lớn của phương Tây, thì việc đặt tên theo thế hệ không phải là duy nhất ở khu vực này. Các quốc gia khác cũng đặt tên cho các thế hệ của họ, mặc dù chúng thường bị ảnh hưởng bởi các sự kiện địa phương hoặc khu vực và ít bị ảnh hưởng bởi những người theo chủ nghĩa xã hội và văn hóa không chính thức. Ví dụ, ở Nam Phi, những người sinh sau khi kết thúc chế độ phân biệt chủng tộc vào năm 1994 được gọi là Thế hệ không sinh ra. Những người Romania sinh ra sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vào năm 1989 đôi khi được gọi là Thế hệ Cách mạng. 

_________________________________________
Tài liệu tham khảo bổ sung

Brokaw, Tom. Thế hệ vĩ đại nhất . Ngôi nhà ngẫu nhiên, 2005.
Đảo chính, Douglas. Thế hệ X: Những câu chuyện về một nền văn hóa tăng tốc . Lần xuất bản đầu tiên, St. Martins Griffin, 1991.
Hemingway, Ernest. Mặt Trời Cũng Mọc . Hemingway Library Edition, Tái bản, Scribner, ngày 25 tháng 7 năm 2002.
Chào, Neil. Thế hệ: Lịch sử tương lai của Hoa Kỳ, 1584 đến 2069 . William Strauss, Bìa mềm, Tái bản, Quill, ngày 30 tháng 9 năm 1992.
McCrindle, Mark, et al. ABC của XYZ: Hiểu về Thế hệ Toàn cầu . UNSW Press, 2009.

Xem nguồn bài viết:

COMMON BUDDHIST TEXT: GUIDANCE AND INSIGHT FROM THE BUDDHA: 6. Introduction to the selections from Vajrayāna Buddhism

 

Chief Editor: Venerable Brahmapundit
Editor: Peter Harvey

Translators: Tamás Agócs, Peter Harvey | Dharmacārī Śraddhāpa | P.D. Premasiri
G.A Somaratne | Venerable Thich Tue Sy

Introduction to the selections
from Vajrayāna Buddhism

Tamás Agócs

1.

The passages marked ‘V.’ in this book represent the textual tradition of Vajrayāna Buddhism. Vajrayāna emerged as a distinctive school of method (upāya) within the Mahāyāna, teaching ways of meditation said to effect awakening more rapidly than the practice of the perfections (pāramitās) presented in the sūtras. These esoteric methods are taught in a distinct class of Buddhist scriptures known as tantraswhich started to appear in great number from the fifth century CE in India. Like the Mahāyāna sūtras, most Buddhist tantras also trace their origins back to the historical Buddha. But the tantric system of practice known as Vajrayāna seems to have been developed by a group of yogis known as mahā-siddhas (‘great accomplished ones’)most of whom were active under the Pāla Empire (750–1120).

2. The spread of the Vajrayāna

The Vajrayāna was introduced to Tibet during the eighth to eleventh centuries CE, and it here became the official state religion. From there it spread to Mongolia and parts of China. Today, though having suffered heavy losses during the Chinese ‘cultural revolution’, Vajrayāna Buddhism is still present in historically Tibetan areas of China (not only in the Tibetan Autonomous Region but also in Quinghai, Gansu, Sichuan, and Yunnan provinces) and everywhere in the Himalayan region where Tibetan culture prevails, including the kingdom of Bhutan, parts of Nepal, and the Himalayan states of India. After seven decades of Russian-backed Communist repression, it was revived at the end of the twentieth century in Mongolia, Buryatia, and Kalmykia (parts of Russia with people of Mongolian ethnicity). A separate strand of the Vajrayāna tradition has been preserved by the Newari Buddhists  of Nepal, and a tantric school known as Shingon has flourished as one of the schools of Japanese Buddhism.

3. The three Wheels of Dharma

Tibetan Vajrayāna is heir to the cultural forms of late North-Indian Buddhism, which was characterized by a double strand of philosophical study and tantric practice. The former flourished mainly in the great monastic universities, such as Nālandā, where a synthesis of different Buddhist philosophies was taught. All the teachings of the Buddha were seen as belonging to three turnings of the ‘Wheel of Dharma’ (or three teaching-cycles, Dharma-cakra): the first one on the four ‘Noble Truths’ (see *L.27) and ‘non-Self’ (*Th.170–171) represented the ‘Hīnayāna’ (‘Lesser Vehicle’) level of practice,[1] and the other two belonged to the Mahāyāna. The second Wheel emphasized the teaching of emptiness (śūnyatā) of inherent nature/inherent existence and the bodhisattva path as presented mainly in the Perfection of Wisdom (PrajñāpāramitāSūtras, and the third was seen to contain formulations of ultimate reality in terms more positive than ‘emptiness’, such as the teaching of ‘mind-only’ (citta-mātra) and the ‘Buddha-nature’ (Tathāgatagarbha). By extension, the tantras later also came to be seen as belonging to this latter category, though some Tibetan schools classified them as a fourth Wheel. The meaning of all these different teachings contained in the sūtras and their complex relationships were elucidated by the great Mahāyāna philosophers in their śāstras (treatises), and late Indian Buddhist philosophy developed an understanding based on a synthesis of their ideas. Thus, studies at the monastic universities centred on the treatises, rather than on the sūtras directly, though both the Indian and Tibetan treatises often cite the sūtras.

4. Vajrayāna, Mantrayāna, Tantrayāna

The Vajrayāna is also known as the Mantra-, or Tantra-yāna. Though the three terms are often used as synonyms, each one has a slightly different connotation. According to the Tibetan tradition, ‘mantra’ literally ‘protects the mind’ (man-tra), through disrupting negative mental patterns and focusing it on the awakened qualities being cultivated. ‘Tantra’ is understood to mean the ‘continuity’ of the awakened nature of the mind present in all sentient beings (not just humans) that is known as Buddha-nature (Tathāgata-garbha). It is uncovered or awakened through the unbroken ‘continuity’ of the master-disciple tantric lineages that are understood to go back to the Buddha himself. While in the general Mahāyāna, the process of attaining full Buddhahood is said to take three incalculable eons, in the Vajrayāna, one can aspire to attain Buddhahood in one lifetime through the methods taught by the great accomplished tantric masters (mahā-siddhas) of India. They gave rise to teaching lineages that eventually reached Tibet where it inspired the founding of different schools or orders (Nyingmapa, Kagyupa, Sakyapa, and Gelukpa being the four main ones) that were dedicated to preserving and transmitting the methods for realizing that continuity. Tantra-yāna is a general name for the way of practice laid down in the Buddhist tantras, characterised by visualization, mantra recitation, and cultivation of various states of meditative concentration (samādhi). Finally, the term ‘Vajra-yāna’ refers to the foremost symbol of the awakened mind, ‘vajra’, often translated as ‘diamond’ or ‘thunderbolt’. It is actually the name of the mythical weapon of Indra, chief of the pre- Buddhist gods in India, which was a symbol of indestructibility and mastery.

5. Schools of Tibetan Buddhism[2]

The Nyingmapa school are those who (pa) are ‘Adherents of the Old (Tantras)’. It looks to Padmasambhava, an eighth century Indian tantric guru who did much to establish Buddhism in Tibet, as its founder. It has a system of nine spiritual ‘vehicles’ (yāna): those of the Disciple, Solitary-buddha and Bodhisattva, which it sees as ways of ‘renunciation’ of defilements; those of the three ‘outer Tantras’, which it sees as ways of ‘purification’; and those of the three ‘inner Tantras: Mahā-yoga, Anu- yoga and Ati-yoga, which it sees as ways of transformation, which transmute defilements into forms of wisdom, rather than seeking to simply negate them. In Nyingmapa doctrine, these are all seen as appropriate for people at different levels of spiritual development. However, in practice, everyone is encouraged to practise the inner Tantras, provided that the basic refuge and Bodhisattva commitments and vows are also maintained. Ati-yoga, the highest teaching, concerns the doctrines and practices of the Dzogchen, or ‘Great Completion/Perfection’. This seeks to bring the practitioner to awareness of an uncreated radiant emptiness known as rig pa (Skt vidyā, insight-knowledge). This is symbolized by Samantabhadra (see *V.6), the primordial Buddha who embodies the Dharma-body (see *M.9), but it also already present in all beings, as in one interpretation of the Tathāgata- garbha/Buddha-nature teachings. The aim is to let go of all mental activities and content, so as to be aware of that in which they occur. The Nyingmapas follow the Old Tantras translated during the first dissemination of Buddhism in Tibet (7–10th centuries). Over the next centuries, they claim to have discovered many termas or ‘treasure’ texts, which are attributed to Padmasambhava and seen as discovered by a tertön or ‘treasure-finder’. Termas might be physical texts or religious artefacts. In the case of ‘mind termas’, they are seen to have been buried in the unconscious mind of a disciple by Padmasambhava, then rediscovered there by a later incarnation of that disciple. The teaching- transmission by termas, which is seen to jump direct from a past teacher to a present recipient, is seen to complement the more usual Kama (Oral Tradition) transmission, by which oral and written teachings are passed down the generations.

In the eleventh century, a renaissance of Buddhism led to its firm establishment throughout Tibet and the development of several new schools of Buddhism that were based on new translations of Buddhist texts, so as to be referred to as ‘new translation’ (sarma) schools. At the invitation of a regional king, the ageing monk-professor Atiśa came from India on a missionary tour in 1042. He helped purify the Sangha, emphasizing celibacy, and improved Tibet’s understanding of Buddhist doctrine, as based on a mix of Madhyamaka and the TantrasHis reforms led his main disciple to establish the Kadampa, or ‘Bound by Command (of monastic discipline) School’, and also influenced two other new schools of the period. The first was the Kagyupa, the ‘Whispered Transmission School’. Its founder was Marpa (1012–97), a married layman who had studied with tantric gurus in India and translated many texts. He emphasized a complex system of yoga and secret instructions whispered from master to disciple. His chief pupil was the great poet-hermit-saint Milarepa, whose own pupil Gampopa first established Kagyupa monasteries. The other new school was the Sakyapa, founded in 1073 at the Sakya monastery. It is noted for its scholarship and is close to the Kagyupa in most matters.

An idea which seems to have originated with the Kagyupas in the thirteenth century is that of recognized Emanation-bodies or tulkus, of which there are now around 3,000 in Tibet. A tulku is often referred to as a ‘reincarnate (yangsidLamaThough in Buddhism all people are seen as the rebirths of some past being, tulkus are different in being the rebirth of an identified past person, who was a key Lama, and also an emanation of a celestial being. Tulkus are recognized as children, based on predictions of their predecessors and the child’s ability to pick out the latter’s possessions from similar looking ones.

The last major school of Tibetan Buddhism was founded by the reformer Tsongkhapa (1357– 1419), on the basis of the Kadampa school and Atiśa’s arrangement of teachings in a series of levels, with a purified tantrism at the top. He founded the Gelukpa, or ‘Followers of the Way of Virtue’, whose monks are distinguished from others by the yellow colour of their ceremonial hats. Tsongkhapa emphasized the study of Madhyamaka, and the following of moral and monastic discipline. In his ‘Great Exposition of the Stages of the Way’ (Lamrim Ch’enmo), he argues that one should progress from seeking a good rebirth (a worldly goal), to seeking liberation for oneself (Hīnayāna motivation), to seeking Buddhahood so as to aid the liberation of others (Mahāyāna motivation), with Vajrayāna methods then helping to more speedily attain the Mahāyāna goals. Higher levels of truth or practice are seen to build on, but not subvert, lower ones. Logical analysis prepares the way for direct, non- conceptual insight, and textual transmissions are as important as oral ones.

In the sixteenth century, the head of the Gelukpa school reintroduced Buddhism to the Mongols, who had lapsed from it. One of the Mongol rulers, Altan Khan, therefore gave him the Mongolian title of Dalai, ‘Ocean (of Wisdom)’, Lama. He was regarded as the second reincarnation of a former Gelukpa leader, Tsongkhapa’s nephew, so that the latter was seen, retrospectively, as the first Dalai Lama. Each Dalai Lama was seen as a tulku who was also a re-manifested form of the great Bodhisattva embodiment of compassion, Avalokiteśvara. The other major Gelukpa tulku is the Panchen Lama, seen as a repeated incarnation of Amitābha Buddha.

In 1641, the Mongolians invaded Tibet and established the fifth Dalai Lama as ruler of the country. From then on, the Gelukpa school became the ‘established church’. In the nineteenth century, a movement developed known as the Ri-may, meaning ‘Impartial’, ‘Non-aligned’ or ‘All- embracing’. This was a kind of universalistic eclectic movement that arose in Nyingmapa circles in eastern Tibet, and came to draw in adherents of other schools, even including some Gelukpa ones. However, the Ri-may movement was primarily a teachings-synthesis that rivalled the Gelukpa synthesis. With few exceptions, Lamas of the Ri-may traditions trained at Ri-may centres, and Gelukpa ones at Gelukpa ones, with only limited contact between them. The Ri-may synthesis drew together the three non-Gelukpa schools (and some of the semi-Buddhist Bön). These already had in common the existence of lay yogins, an interest in the old Tantras and termas, and the relatively formless Dzogchen teachings/practices provided a unifying perspective.

6. The Tibetan canon

In this book, the term ‘Vajrayāna’ is used in a wider sense to refer to the entire system of Tibetan (or Northern Mahāyāna) Buddhism, which has preserved the whole edifice of late Indian Mahāyāna. This is reflected in the structure of the Tibetan Buddhist Canon, which divides the Tibetan translations of Indian Buddhist texts into two main parts: the Kangyur (bKa’ ‘gyur[3]) or ‘Translated Buddha Word’ – two thirds of which is comprised of Mahāyāna Sūtras – and the Tengyur (bsTan ‘gyur) or ‘Translated Treatises’. In the Peking edition of these two collections, there are 330 volumes with 5,092 texts and 224,241 pages.31 The Kangyur contains mainly Mahāyāna sūtras and the root-tantras (mūla-tantras) attributed to the Buddha. In the Peking edition, it consists of 106 vols. With 66,449 pages and 1,112 translated texts, grouped in the following order:

(i) Tantras (738 texts in 25 volumes)
(ii) Perfection of Wisdom Sūtras (17 texts, plus 13 pre-Mahāyāna ‘Protection’ texts, in 24 )
(iii) Avatasaka Sūtras (1 text with 45 chapters in 6)
(iv) 
Ratnakūa Sūtras (49 Sūtras in 6)
(v) Other sūtras (268 texts in)
(vi) 
Vinaya (monastic discipline) (8 texts in 13)
vii) Praidhāna (aspiration prayers) (18 short texts at the end of final volume)

The Tengyur includes the authoritative treatises (śāstras) by Indian scholars, with a handful of texts by early Tibetan masters, who commented on the meaning of the sūtras and tantras. In its Peking edition, it consists of 224 vols with 3,980 texts and 157,792 pages, which are grouped as follows:

(i) Stotras (hymns of praise) (63 texts in 1)
(ii) Commentaries on the tantras (3,136 texts in 87)
(iii) Commentaries and treatises on the sūtras (and useful worldly subjects): commentaries on the Perfection of Wisdom Sūtras and the vinaya; Madhyamaka and Yogācāra treatises, abhidharma works, tales and dramas, treatises on such topics as logic, medicine, grammar, arts and applied crafts (e.g., architecture), and other miscellaneous works (781 texts in 136 ).

Most of the canonical scriptures – sūtras, tantrasand śāstras – were translated from Sanskrit originals, under the guidance of Indian scholars (paṇḍita) who helped the transmission of Buddhism into Tibet. The translations were carried out in a ‘scientific’ manner – with standardized terminology and syntactic rules – to maintain maximum closeness to the original. Therefore, Tibetan translations are generally held to be very reliable. Yet, no text was meant to be studied without oral transmission and detailed practical instruction from a learned and experienced master. The tantras in particular have always been considered as esoteric, virtually unintelligible without oral transmission of their actual meaning and proper initiation into their practice.

By the time the enormous task of translating the Indian Buddhist heritage was completed, the development of an indigenous Tibetan scholarship was well under the way. Tibetan authors started composing their own treatises to elucidate the meaning of the sūtras and śāstras, including the tantric scriptures. Faced with the immense variety of narrative, doctrine, and liberating technique contained in the canonical texts, they inevitably found themselves at the job of ordering and systematizing the material. Following the tradition of North-Indian Buddhist scholarship, they based their doctrinal syntheses on the śāstras of Nāgārjuna (ca. 150–250), Asaṅga (ca. 310–90, with Maitreya-nātha as his teacher), Vasubandhu (ca. 310–400), Dharmakīrti (ca. 530–600), Candrakīrti (7th century), and Ṥāntideva (ca. 650–750) – to mention only the greatest Mahāyāna philosophers. The tantras were also studied through the commentaries, instructions, and practice manuals written by Indian mahā– siddhas and tantric scholars, which were contained in a bulky section of the Tengyur. The different tantric lineages – systems of tantric practice handed down from master to disciple reaching Tibet from the seventh to twelfth centuries – became institutionalized in the four main schools and their various branches. Over time, those schools each developed its own literary tradition, resulting in an astonishing proliferation of Vajrayāna literature. Though following the Indian ways was the norm everywhere, there was room for creative innovation. These include ‘treasure’ texts hidden in Tibet or in the mind stream of Tibetan students by the Indian masters to be rediscovered later at an appropriate time which were included in canonical collections.[4]

7The selected passages

Passages selected from the Vajrayāna tradition for this book represent the Vajrayāna Buddhist views on the topics selected for the volume. In accordance with the kind of texts emphasized in Tibetan Buddhism, these are best summarized by well-known Tibetan authors like Gampopa (1079–1153) or the Nyingmapa teacher Patrul Rinpoche (1808–1887), whose works we have most often utilized as sources for the selections. From among canonical sources, we have included a few passages from treatises of Nāgārjuna (*V.12) and Ṥāntideva (*V.34–5, 38), as well as Atiśa’s (982–1054) ‘Lamp for the Path to Awakening’ (*V.10) in its entirety. Texts from Gelukpa teachers are Tsongkhapa’s ‘The Abbreviated Points of the Graded Path’ (*V.40), ‘Prayer of the Secret Life of Tsongkhapa’ (*V.91), on the latter, and ‘The Song of the Four Mindfulnesses’ (*V.69) of the Seventh Dalai Lama (1708–1757). ‘Mind Training: An Experiential Song of Parting from the Four Attachments’ (*V.16) is by Sakyapa and Ri-may teacher Khyentse Wangpo (1829–1870). The tantric genius for poetry is illustrated by some verses from Tibet’s greatest poet, Milarepa (*V.8, 11, 17, 23). Specifically tantric texts are best featured in Chapter 2. (‘Different Perspectives on the Buddha’) – where the tantric view of innate Buddhahood is illustrated by passages taken from the textual tradition of the Great Completion (Dzogchen; *V.2–6). More information on these and other texts are supplied in the introductions and footnotes.

Most English translations have been newly prepared from the Tibetan by myself for the purpose of inclusion in this volume, though they have profited from already existing translations, which are duly noted.

The translator wishes to thank all those who supported the project. May it benefit many!

Tamás Agócs

 

____________________________________

[1] See ‘Hīnayāna’ in Glossary.
[2] By Peter Harvey
[3] This book uses forms of Tibetan that give a fair guide to their pronunciation, but where another form follows in brackets, this is the more exact transliteration of the Tibetan.
31 For an overview of a number of Tibetan editions of the Kangyur and Tengyur, see: http://84000.co/kangyur- tengyur-genres/.
[4] Such as the Nyingma Gyubum (rNying ma’i rGyud ‘bum) of the Nyingma school.

Đức Đạt Lai Lạt Ma: Tâm Biên Kiến không thể thấy được Sự Thật

Tôi rất vui mừng tham gia hội nghị liên tôn giáo về việc bảo tồn sự hòa hợp tôn giáo, đồng hành và hòa bình toàn cầu do hiệp hội tự do tôn giáo quốc tế (IARF), Ladakh tổ chức. Cảm ơn quý vị rất nhiều vì đã giải thích chi tiết về lịch sử, hoat động, mục tiêu và sự liên quan của hiệp hội trong thế kỷ này. Tôi không có gì để thêm vào những gì quý vị đã nói ở trước. Nhưng tôi muốn nói vài điều.

Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma nói chuyện tại nhà thờ Hồi giáo Shia
ở Leh, Ladakh, J & K, Ấn Độ vào ngày 27 tháng 7 năm 2016.
 | Ảnh: Tenzin Choejor / VPTĐĐL

Hiện nay chúng ta đang sống ở thế kỷ 21. Chất lượng nghiên cứu về cả thế giới nội tâm và thể chất đều đạt đến mức độ khá cao, nhờ vào bước tiến vĩ đại trong tiến bộ công nghệ và trí thông minh con người. Tuy nhiên, như vài vị diễn thuyết đã trình bày trước, thế giới cũng đang đối diện với nhiều vấn đề mới, hầu hết là do con người tạo ra. Nguyên nhân gốc rễ của những vấn đề này là sự bất lực của con người trong việc kiểm soát tâm bị kích động của họ. Rất nhiều tôn giáo trên thế giới cũng dạy cách để kiểm soát tâm như thế nào.

Tôi là một người tu hành theo Phật giáo. Hơn một nghìn năm đã trôi qua kể từ khi các tôn giáo lớn của thế giới phát triển, bao gồm Phật giáo. Trong suốt những năm tháng ấy, thế giới đã chứng kiến những cuộc xung đột mà những người theo các tôn giáo khác nhau tham gia. Vì là một hành giả, tôi công nhận một sự thật rằng những tôn giáo khác nhau trên thế giới đã cung cấp những giải pháp về việc làm thế nào để kiểm soát một tâm trí bị kích động. Mặc dù vậy, tôi vẫn cảm thấy chúng ta vẫn chưa nhận ra hết tiềm năng của mình.

Tôi luôn nói rằng mọi người trên trái đất này đều có quyền tự do thực tập hoặc không theo tôn giáo. Cũng có thể theo cả hai. Nhưng một khi bạn chấp nhận tôn giáo, điều cực kỳ quan trọng là bạn có thể tập trung tâm mình vào đó và thực hành chân thành những lời dạy đó vào đời sống hằng ngày của mình. Tất cả chúng ta có thể thấy rằng chúng ta có khuynh hướng thỏa mãn chủ nghĩa thiên vị tôn giáo khi nói rằng: “tôi theo tôn giáo này hoặc tôn giáo nọ”, hơn là cố gắng kiểm soát tâm bị kích động của mình. Sự lạm dụng tôn giáo này, vì tâm trí bị rối loạn, đôi khi cũng tạo ra các vấn đề.

Một nhà vật lý ở Chile đã nói với tôi rằng thật không thích hợp cho một nhà khoa học có cái nhìn biên kiến với khoa học vì tình yêu và niềm đam mê anh ta dành cho khoa học. Tôi là một hành giả Phật giáo và có nhiều niềm tin và sự kính trọng đối với những lời dạy của Đức Phật. Tuy nhiên, nếu tôi hòa lẫn tình yêu cho Phật giáo và chấp thủ vào nó, thì tâm của tôi sẽ bị chấp trước vào nó. Một tâm chấp trước, sẽ chẳng bao giờ thấy được toàn cảnh và không thể nhận được chân lý. Và bất kỳ hành động nào từ trạng thái tâm như vậy sẽ không phù hợp với chân lý. Như vậy nó gây ra nhiều vấn đề.

Theo triết học Phật giáo, hạnh phúc là kết quả của tâm giác ngộ trong khi tâm tán loạn là nguyên nhân gây ra khổ đau. Điều này rất quan trọng. Tâm tán loạn, trái ngược với tâm giác ngộ, nó không phù hợp với chân lý. Mọi vấn đề, bao gồm các hoạt động chính trị, kinh tế và tôn giáo mà con người theo đuổi trên thế giới này, nên được thấu hiểu rõ ràng trước khi đưa ra phán xét. Vì thế, rất quan trọng để biết các nguyên nhân. Dù là vấn đề gì, chúng ta nên thấy được cái mặt toàn diện của nó. Điều này làm cho chúng ta thấu rõ được toàn bộ câu chuyện. Những lời dạy trong Phật giáo được dựa trên tính hợp lý, và tôi nghĩ chúng rất hiệu quả.

Cầu nguyện và phản ánh tại Tu viện Westminster
ở London, Anh vào ngày 20 tháng 6 năm 2012.
 | Ảnh của Ian Cumming

Hôm nay, nhiều người đến từ nhiều tôn giáo khác nhau hiện diện ở đây. Mỗi một tôn giáo, có những siêu việt riêng vượt ngoài ngôn ngữ và tâm thức. Thí dụ, khái niệm về thiên chúa trong Ki-tô giáo và Hồi giáo và thân chân tuệ trong Phật giáo là siêu hình, người thường khó mà nhận biết được như người tu. Đây là một khó khăn chung mà mỗi tôn giáo phải đối diện. Tất cả các tôn giáo, bao gồm Ki-tô, Phật giáo, Hindu giáo, Hồi giáo đều dạy rằng chân đế được niềm tin dẫn dắt.

Tôi muốn nhấn mạnh điều cực kỳ quan trọng cho những hành giả là tin tưởng một cách chí thành vào tôn giáo tương ứng của họ. Thường thì, tôi nói rằng rất quan trọng để phân biệt giữa “niềm tin vào một tôn giáo” và “niềm tin vào nhiều tôn giáo”. Điều trước trực tiếp mâu thuẫn với điều sau. Vì thế, chúng ta nên kiên quyết giải quyết những mâu thuẫn này. Điều này chỉ có thể bằng việc suy nghĩ trong những tình huống đó. Một điều tương phản trong một ngữ cảnh nào đó có thể không giống với cái khác. Trong tình huống của một người, một chân lý duy nhất gắn liền với một nguồn quy y duy nhất. Điều này cực kỳ cần thiết. Tuy nhiên, trong bối cảnh của xã hội hay nhiều hơn một người thì cần có những nguồn quy y, tôn giáo và niềm tin khác nhau.

Trước đây đó không phải là vấn đề chính vì các quốc gia cách biệt nhau với tôn giáo riêng của họ. Tuy nhiên, thế giới ngày nay gần gũi và liên kết với nhau, có khá nhiều sự khác biệt giữa các tôn giáo khác nhau. Chúng ta phải giải quyết rõ ràng những vấn đề này. Ví dụ, có rất nhiều tôn giáo ở Ấn Độ trong hàng ngàn năm qua. Một vài trong số đó được du nhập từ nước ngoài, trong khi một số có nguồn gốc ở chính Ấn Độ. Mặc dù vậy, thực tế các tôn giáo này có thể cùng tồn tại với nhau, và nguyên tắc bất bạo động (ahimsa) thực sự phát triển mạnh mẽ ở nước này. Thậm chí ngày nay, nguyên tắc này còn ảnh hưởng mạnh mẽ trong mỗi tôn giáo. Điều này rất quý báu và Ấn Độ thực sự nên tự hào về nó.

Phật giáo chiếm ưu thế trong nhiều thế kỷ ở Ladakh. Nhưng những tôn giáo khác như Hồi, Ki-tô, Hindu và Xích giáo cũng đã phát triển ở đây. Mặc dù người dân Ladakh có niềm đam mê và tình yêu dành riêng cho tôn giáo của họ một cách tự nhiên, nhưng nơi này có một môi trường an lành không có vấn đề gì về sự không nhượng bộ tôn giáo xảy ra. Trong chuyến thăm đầu tiên của tôi tới Ladakh, tôi nghe các trưởng lão Hồi giáo dùng cụm từ “cộng đồng Tăng Già” trong các bài diễn thuyết của họ. Mặc dù những cụm từ như vậy không có trong đạo Hồi, nhưng sự tham khảo của loại này dẫn đến nhiều sự tin tưởng trong giới Phật tử. Do đó, người ta có nguồn gốc tôn giáo khác nhau ở Ladakh sống rất gần gũi và hài hòa với nhau.

Theo như các vị Hồi giáo, thích hợp cho họ thành tâm hoàn toàn với thánh Allah khi cầu nguyện trong các thánh đường. Điều này cũng tương tự với các Phật tử, họ rất thành tâm với Đức Phật khi cầu nguyện trong các ngôi chùa Phật giáo. Một xã hội mà có nhiều tôn giáo cũng nên có nhiều giáo đồ và nguồn quy y. Xã hội như vậy có được sự hòa hợp và tôn trọng lẫn nhau giữa các tôn giáo và những hành giả của họ là rất quan trọng. Chúng ta phải phân biệt giữa niềm tin và sự tôn trọng. Niềm tin đề cập đến sự tin tưởng hoàn toàn, mà bạn phải có đối với tôn giáo của chính mình. Đồng thời bạn nên có sự tôn trọng với tất cả các tôn giáo khác. Truyền thống tin vào tôn giáo mình và tôn trọng những tôn giáo bạn đã có ở Ladakh từ thời tổ tiên quý vị. Do đó, quý vị không cần phải sáng tạo nó. Điều quan trọng nhất vào lúc này là bảo tồn và quảng bá truyền thống này. Tôi xin cảm ơn tất cả quý vị đã làm việc chăm chỉ về vấn đề này và mong rằng quý vị tiếp tục làm thế trong tương lai.

Nếu một mối quan hệ hòa hợp được thiết lập giữa xã hội và niềm tin tôn giáo trong thế giới đa sắc tộc, đa tôn giáo và đa văn hóa ngày nay, thì đó chắc chắn sẽ là thí dụ rất tốt cho những người khác. Tuy nhiên, nếu tất cả các bên trở nên bất cẩn, thì có nguy cơ có vấn đề xảy ra. Trong một xã hội đa sắc tộc vấn đề lớn nhất là giữa số đông và thiểu số. Thí dụ như ở thủ đô Leh, Phật giáo chiếm đa số trong khi Hồi giáo chiếm số ít trong cộng đồng. Đa số phải xem thiểu số như là khách của họ. Mặt khác, thiểu số có thể nhạy cảm với đa số. Nói cách khác, cả hai nên sống hài hòa với nhau. Để duy trì sự hòa hợp này, cả hai bên không nên xem nhẹ những vấn đề nhạy cảm giữa họ. Thực vậy, đa số nên chú ý và đánh giá cao quan điểm và chánh kiến của thiểu số. Cả hai nên thảo luận và diễn đạt rõ ràng những gì họ nghĩ về quan điểm và chánh kiến của nhau. Ngược lại, thiểu số nên quan tâm về những vấn đề nhạy cảm của đa số nằm ở đâu và diễn đạt bất kỳ khi nào nghi ngờ có trong tâm. Nếu những vấn đề được giải quyết thân thiện như vậy; thì cả hai bên đều có lợi. Nghi ngờ lẫn nhau chỉ gây hại cho cả hai cộng đồng. Do đó, rất quan trọng để sống hòa hợp và phân tích quan điểm của đối phương. Cách tốt nhất để thực hiện điều này là tham gia đàm phán, đàm phán và đàm phán.

Phần trích dẫn bài diễn văn của Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Hội nghị liên tôn giáo do Hiệp hội Tự do Tôn giáo Quốc tế, Tập đoàn Ladakh tổ chức tại Leh vào ngày 25 tháng Tám.

Nguồn: VĂN PHÒNG THÁNH ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA