Wednesday, May 4, 2022

Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Thực hành Bồ Tát hạnh trong một thế giới khủng hoảng – Phần một | Sustainable Bodhisattva Practice in a World on Fire – Part 1

 


Phật giáo trong thời kỳ khủng hoảng:
Thực hành Bồ Tát hạnh trong một thế giới khủng hoảng
Phần một

Tâm Quảng Nhuận dịch Việt
theo Domyo Burk, The Zen Studies Podcast

Chủ đề Phật giáo thời kỳ khủng hoảng là một ý niệm mới trong việc thực hành Phật giáo mà tôi đã nghĩ ra và mong mỏi sẽ giúp các bạn điều hướng cuộc sống hàng ngày khi đối mặt với sự suy giảm sinh thái và khí hậu. Nó đòi hỏi chúng ta cân bằng một cách ý thức ba lĩnh vực thực hành thiết yếu: Nhận chân, hoặc thấu cảm về sự đau khổ của thế gian dưới mọi hình thức để đưa ra quyết định sáng suốt, kích hoạt lòng trắc ẩn thuần khiết của chúng ta và đánh thức lòng bi mẫn; Hành động, hoặc tham gia một cách thực tiễn để giúp giảm bớt hoặc ngăn chặn những đau khổ mà chúng ta đ và đang chứng kiến; Chăm sóc, hoặc tham gia vào các hoạt động, duy trì mối tương sinh quan và sự thực hành của chúng ta.

Tất nhiên là Phật tử, chúng ta thường quan tâm sâu sắc đến những khổ đau trên thế gian cũng như biết rằng tất cả đều phụ thuộc vào nhau, nhưng làm thế nào để chúng ta đối mặt với những gì đang diễn ra mà không bị choáng ngợp hoặc chán nản? Làm thế nào để chúng ta sống đúng với giá trị và khát vọng của mình mặc dù bị mắc kẹt trong một hệ thống hủy diệt cuộc sống? Làm thế nào để chúng ta tìm ra những cách có ý nghĩa để giúp đỡ nhau khi cuộc sống của mình vốn đã quá đa đoan? Làm thế nào để chúng ta duy trì sự luyện tập, năng lượng và sự tích cực của mình giữa một thảm họa sinh thái đang diễn ra từ từ? Làm thế nào chúng ta có thể phản ứng một cách thích hợp, kịp thời, nhưng tránh làm bản thân kiệt quệ?

Cân bằng ba lĩnh vực thực hành cần thiết

Phật giáo thời kỳ khủng hoảng giải quyết tất cả những câu hỏi trên bằng cách yêu cầu chúng ta cân bằng ba lĩnh vực thực hành thiết yếu: Thấu cảmHành động và Chăm sóc. Ba yếu tố này của Phật giáo Thời kỳ Khủng hoảng – về mặt lý tưởng – tất cả đều được thể hiện trong thực hành của chúng ta ở một khía cạnh nào đó. Bearing Witness có nghĩa là nhận chân về sự đau khổ của thế giới dưới mọi hình thức của nó để đưa ra quyết định sáng suốt, kích hoạt lòng trắc ẩn của chúng ta và đánh thức kịp thời cảm xúc. Hành động có nghĩa là tham gia một cách thực tiễn để giúp giảm bớt hoặc ngăn chặn những đau khổ mà chúng ta chứng kiến. Chăm sóc có nghĩa là tham gia vào các hoạt động, duy trì mối quan hệ và sự thực hành của chúng ta.

Nhiệm vụ chính trước mắt của chúng ta khi thực hành Phật Giáo Thời Kỳ Khủng Hoảng là cân bằng một cách khéo léo và bền bĩ thời gian cũng như năng lượng của mình giữa Ba Lĩnh Vực. Sự tập trung và nguồn lực mà chúng ta dành cho mỗi lĩnh vực sẽ khác nhau trong suốt cuộc đời và sẽ tùy thuộc vào hoàn cảnh. Đôi khi, chúng ta sẽ tràn đầy năng lượng và cần phải nhớ Chăm sóc bản thân trong các hoạt động liên quan đến Thấu cảm và Hành động. Vào những lúc khác, chúng ta sẽ phải giải quyết quá nhiều thứ trong cuộc sống cá nhân nên phần lớn thời gian và năng lượng của chúng ta sẽ dành cho việc Chăm sóc bản thân và những người thân yêu của chúng ta, chỉ còn lại rất ít cho hai lĩnh vực còn lại. Không có một tỷ lệ cố định nào giữa các lĩnh vực mà một “Phật tử tốt” sẽ đạt được, và việc duy trì sự cân bằng phù hợp là một quá trình liên tục đối với mỗi chúng ta.

Có một số lợi ích khi kiến lập Phật giáo thời kỳ khủng hoảng bao gồm ba thành phần thiết yếu mà chúng ta cần phải cân đối một cách cẩn thận. Đầu tiên, nó nhấn mạnh rằng bản thân sự cân bằng là một phần quan trọng của việc luyện tập; không có một khía cạnh nào trong ba khía cạnh của thực hành này là đủ và tự nó cũng không phải là ưu việt hơn hẳn các khía cạnh khác. Thứ hai, nó giúp chúng ta thấy Bearing Witness là một thực hành có giá trị về bản thân, độc lập với khả năng của chúng ta để giải quyết bất kỳ đau khổ cụ thể nào mà chúng ta chứng kiến. Thứ ba, nó khuyến khích chúng ta dấn thân vào những lãnh thổ đầy thử thách của Bearing Witness và Take Action trong khi đảm bảo rằng mình sẽ không thỏa hiệp, khuất phục hoặc bị kiệt sức khi đối mặt với những đau khổ trên thế gian. Thứ tư, nó thúc đẩy sự Chăm sóc như một thành phần của thực hành Bồ tát đạo, cho phép chúng ta tham gia mà không có cảm giác tự ti mặc cảm hoặc sự bất đồng nhận thức trong việc tận hưởng cuộc sống và các mối quan hệ của chúng ta, cũng như trong các khía cạnh chiêm nghiệm của việc thực hành.

Trong phần một này, tôi sẽ bắt đầu trình bày về Phật giáo thời kỳ khủng hoảng bằng cách giải thích hai “Quy tắc vàng”. Những nguyên tắc tổng thể này rất quan trọng đối với toàn bộ nỗ lực, vì vậy tôi muốn trình bày chúng trước khi mô tả chi tiết hơn về ba lĩnh vực Thấu cảmHành động và Chăm sóc. Trong phần tiếp theo, tôi sẽ bắt đầu khám phá ba lĩnh vực vừa nêu.

Hai quy tắc vàng của Phật giáo thời khủng hoảng

Mỗi người trong chúng ta đều cố gắng hết sức để thực hiện ý định hoặc thệ nguyện của mình với tư cách là Phật tử, nhưng có hai “Quy tắc Vàng” của Phật giáo Thời kỳ Khủng hoảng:

1. Luôn được thúc đẩy bởi tình thương

Điều này có nghĩa là tình thương đối với người khác cũng như đối với chính mình. Nỗ lực thực hành Phật giáo trong thời kỳ khủng hoảng của chúng ta sẽ không dẫn đến sự phán xét, khắc nghiệt, cảm giác vượt trội, hoặc cảm giác thấp kém. Bất kể quan điểm của chúng ta về thế gian sẽ như thế nào, hoặc về cách chúng ta nên phản ứng với nó, chúng ta hướng tới việc tương tác với mọi người một cách tôn trọng và khéo léo, chân thành quan tâm đến hạnh phúc của tất cả những người có liên hệ. Đôi khi, chúng ta mượn sự tức giận, sự phán xét và lòng thù hận để rèn luyện tính kiên nhẫn cho người khác – và chúng ta cũng mở rộng sự tôn trọng, khéo léo và kiên nhẫn đó đối với chính bản thân.

Metta, hay thiện chí, là đạo đức đầu tiên trong bốn Phạm thiên của Phật giáo, hay Thái độ xã hội tích cực, mà chúng ta nên trau dồi để thiết lập cho mình sự thực hành tinh thần hiệu quả. Trong hướng dẫn tu tập metta, chúng ta được yêu cầu quán chiếu sự tức giận và thù hận đã làm tổn thương “kẻ thù”, hơn là của chính mình như thế nào; Một ví dụ trong văn học Phật giáo là cảm thấy ác ý đối với ai đó giống như nhặt một hòn than nóng ném vào họ. Metta trở thành một phương pháp thực hành thanh lọc tâm linh khi chúng ta có thể mở rộng nó thậm chí đối với những người đã làm tổn thương chúng ta, hoặc đã gây ra tổn hại lớn trên thế gian này. Chúng ta thực hành tình thương, một phiên bản khác của metta, bất kể thế nào, bất kể ai.

Chúng ta cố gắng hết sức để luôn được thúc đẩy bởi tình yêu thương vì lợi ích đạo đức của chính chúng ta, nhưng cũng vì đó là cách tiếp cận duy nhất thực sự hiệu quả để thay đổi suy nghĩ và trái tim của người khác. Phật giáo thời khủng hoảng đòi hỏi rất nhiều ở chúng ta, nhưng nếu chúng ta dùng sự phán xét và ghen ghét để đạt được nguyện vọng của mình, chúng ta sẽ thất bại. Như Đức Phật đã dạy trong Kinh Pháp Cú:

“Hận thù diệt hận thù
Đời này không thể có
Từ bi diệt hận thù
Là định luật ngàn thu”.[1]

Ngoài ra, còn có phẩm chất giải thoát của tình yêu vô điều kiện hoặc thiện chí. Trong bài giảng “Hãy yêu thương kẻ thù của bạn”, Linh Mục Martin Luther King, Jr. đã nói về lời dạy này của Chúa Giê-su. Sau khi nói về cách yêu kẻ thù của mình, King nói rằng cũng cần phải hiểu tại sao chúng ta nên làm như vậy, và đưa ra ba lý do. Lý do đầu tiên của ông lặp lại lời Phật dạy: Sự căm ghét đó chỉ làm tăng số lượng sự căm ghét trên thế gian. Lý do thứ hai là “sự ghét bỏ làm biến dạng nhân cách của kẻ ghét.” Anh ấy giải thích lý do thứ ba của mình như thế này:

“Bây giờ có một lý do cuối cùng tôi nghĩ rằng Chúa Giê-su nói, ‘Hãy yêu kẻ thù của bạn’ Đó là vì điều này: tình yêu thương có trong nó một sức mạnh cứu chuộc… nếu bạn ghét kẻ thù của mình, bạn không có cách nào để cứu chuộc và biến đổi kẻ thù của mình. Nhưng nếu bạn yêu kẻ thù của mình, bạn sẽ khám phá ra rằng tận gốc rễ của tình yêu là sức mạnh của sự cứu chuộc. Bạn cứ yêu mọi người và tiếp tục yêu họ, mặc dù họ đang ngược đãi bạn… Ồ, ngay từ đầu họ đã phản ứng theo nhiều cách. Họ phản ứng bằng sự cay đắng vì họ tức điên lên khi bạn yêu họ như vậy. Họ phản ứng với cảm giác tội lỗi và đôi khi họ sẽ ghét bạn hơn một chút vào giai đoạn chuyển tiếp đó, nhưng hãy cứ yêu họ. Và trước sức mạnh của tình yêu thương của bạn, họ sẽ tan vỡ khi chịu tải trọng… Có điều gì đó về tình yêu được xây dựng và sáng tạo. Có điều gì đó về sự căm ghét khiến nó rơi lệ và có tính hủy diệt.”[2]

Một nguyên tắc vàng về “Hãy luôn được thúc đẩy bởi tình yêu” có vẻ như không thể thực hiện được. Tất nhiên, tất cả những gì chúng ta có thể làm là hết sức mình. Điều quan trọng cần nhớ là tình yêu không nhất thiết phải là một cảm giác ấm áp, trừu tượng và điều đó không có nghĩa là chúng ta chấp nhận những gì mọi người đang làm. Trong cùng bài giảng mà tôi vừa trích dẫn, Martin Luther King nói:

“Mến chuộng là một cái gì đó tình cảm, một cái gì đó trìu mến. Có rất nhiều người mà tôi cảm thấy rất khó ưa. Tôi không thích những gì họ làm với tôi. Tôi không thích những gì họ nói về tôi và những người khác. Tôi không thích thái độ của họ. Tôi không thích một số việc họ đang làm. Tôi không thích chúng. Nhưng Chúa Giê-su nói hãy yêu họ. Và tình yêu lớn hơn sự mến chuộng. Tình yêu là sự thấu hiểu, là thiện chí cứu chuộc dành cho tất cả mọi người…”[ii]

Còn nhiều điều có thể nói về tầm quan trọng của việc thực hành thiện chí hay tình yêu thương vô điều kiện đối với tất cả chúng sinh. Hiện tại, tôi chỉ nhấn mạnh việc giữ nguyện vọng này là điều cần thiết như thế nào nếu chúng ta thực hành Phật giáo thời kỳ khủng hoảng. Thời điểm chúng ta bắt đầu Chứng kiến cho nỗi đau khổ trên thế gian và thời điểm chúng ta bắt đầu Hành động để giảm bớt hoặc ngăn chặn sự đau khổ đó, chúng ta sẽ phải đối mặt với những tình huống khác với cách chúng ta mong muốn. Chúng ta sẽ bị lôi cuốn vào sự phán xét và thù hận, nâng cao tầm quan trọng của lý tưởng và quan điểm của chúng ta đối với hạnh phúc của những người chống trái chúng ta. Việc quên đi những lời dạy cốt lõi về tình yêu thương của Đức Phật, Chúa Giê-su và tất cả các truyền thống tâm linh quan trọng khác, đã dẫn đến tất cả những tệ nạn tồi tệ nhất mà con người gây ra, và sự phân cực ý thức hệ cản trở sự tiến bộ trong thế giới của chúng ta ngày nay.

2. Mở rộng phạm vi quan tâm và trách nhiệm của bạn càng xa càng tốt.

Hầu hết mọi người sẽ đồng ý rằng họ có trách nhiệm với bản thân và con cái của họ nếu có. Một bộ phận nhỏ hơn những người xem bản thân ít nhất phải chịu trách nhiệm một phần đối với hạnh phúc của gia đình trực hệ hoặc đại gia đình của họ: Cha mẹ, ông bà, anh chị em, v.v. chẳng hạn như những người bạn đã cam kết, hoặc một số thành viên nhất định trong Tăng thân của chúng ta hoặc cộng đồng thân thiết khác. Tôi đoán rằng đối với đại đa số chúng ta, đó là chừng mực mà phạm vi quan tâm và trách nhiệm có ý nghĩa của chúng ta mở rộng. Chắc chắn, chúng ta có thể cảm thấy buồn khi các thành viên trong cộng đồng của chúng ta là người vô gia cư, hoặc một số lượng lớn người dân ở các quốc gia khác đang chết đói. Có lẽ chúng ta cân nhắc điều này khi bỏ phiếu hoặc quyên góp tiền cho những mục đích tốt, hoặc cố gắng giảm thiểu tác hại mà chúng ta gây ra thông qua các lựa chọn lối sống của mình, nhưng hầu hết chúng ta không cảm thấy có trách nhiệm cá nhân nhận thấy ​​hoặc giải quyết những đau khổ vượt quá những gì mà mọi người phải trải qua song mình không trực tiếp nhận biết.

Là Phật tử, chúng ta được yêu cầu mở rộng phạm vi quan tâm và trách nhiệm của mình càng nhiều càng tốt. Thực hành Metta có nghĩa là được mở rộng vô điều kiện cho tất cả mọi người và nó liên quan đến mối quan tâm đến phúc lợi của mỗi chúng sinh. Đầu tiên, chúng ta thực hành metta cho những người mà chúng ta cảm thấy yêu mến, nhưng tối hậu là cố gắng mở rộng cho tất cả mọi người. Các giới luật đạo đức của chúng ta chống lại việc gây tổn hại bằng cách giết người, trộm cắp, lạm dụng năng lượng tình dục, nói dối hoặc buôn bán chất nghiện ngập, không chỉ đề cập đến các tương tác của chúng ta với gia đình, bạn bè hoặc cộng đồng trực tiếp với bản thân. Chúng ta phải cẩn thận để không gây tổn hại cho bất kỳ sinh vật nào, ngay cả khi họ sống ở phía bên kia của hành tinh chúng ta. Nếu chúng ta là Phật tử Đại thừa, chúng ta cũng thừa nhận sự phụ thuộc lẫn nhau của chúng ta với vạn vật, và mong muốn hoàn thành lời nguyện Bồ tát giải thoát tất cả chúng sinh. Như được đề cập trong Kinh Kim Cương:

“Đức Phật nói với anh ta, ‘Subhuti, những người bây giờ sẽ khởi hành trên con đường Bồ tát, do đó nên sinh ra ý nghĩ này: ‘Tuy nhiên, nhiều chúng sinh ở bất cứ cõi nào có thể tồn tại, cho dù họ được sinh ra từ một quả trứng hay sinh ra từ trong bụng mẹ, sinh ra từ nước hay sinh ra từ không khí, cho dù chúng có hình dạng hay không có hình dạng, cho dù chúng có tri giác hay không tri giác, trong bất kỳ lĩnh vực có thể tưởng tượng được về bản thể mà người ta có thể hình dung về bản thể, trong cõi niết bàn trọn vẹn, ta sẽ độ giải thoát tất cả.’”[3]

Đây là khát vọng vĩ đại. Hãy suy nghĩ về nó. Để giải thoát một chúng sinh vào cõi niết bàn, bạn phải biết chúng sinh đó, và đảm bảo rằng chúng được đáp ứng những nhu cầu cơ bản để có thể thực hành. Bạn phải đối mặt với họ bằng lòng trắc ẩn và khéo léo. Bạn không giới hạn sự quan tâm của mình vào bất kỳ cảnh giới cụ thể nào, trong vũ trụ học Phật giáo cổ điển bao gồm cõi thiên đàng, các á thần ghen tị (asuras), con người, ngạ quỷ, dã thú và địa ngục. Bạn bao gồm cả những sinh vật không phải con người được sinh ra từ trứng, như chim và bò sát, và những sinh vật sinh ra dưới nước. Bạn đang bao gồm cái gọi là “sinh vật” thậm chí không có nhận thức. Đó sẽ là những loại sinh vật nào? Đá? Những con sông? Núi? Rõ ràng, mọi sinh linh không bị loại trừ khỏi việc chăm sóc và trách nhiệm của Bồ tát.

Tất nhiên, chúng ta không thể chăm sóc mọi sinh vật theo nghĩa đen. Điều này được phản ánh trong lời phát nguyện truyền thống của Bồ tát, trong đó nói, “Chúng sinh là vô số, tôi nguyện giải thoát tất cả.” Lời thệ nguyện không thể làm nổi của chúng ta được thiết lập ngay từ ban đầu; nếu chúng sinh thực sự là vô hạn, thì không thể cứu được tất cả. Tuy nhiên, đó là lời thề chân thành của chúng ta. Nó liên quan đến một vấn đề có chủ đích. Khả năng của chúng ta có giới hạn, nhưng không có thực thể – không có thứ gì – bị loại ra khỏi lĩnh vực chăm sóc và trách nhiệm của chúng ta.

Điều này không có nghĩa là một nỗi mặc cảm to lớn, vì bạn liên tục tự trách bản thân về tất cả những sinh vật mà bạn không thể cứu được. Nếu bạn làm vậy, bạn đang vi phạm Quy tắc vàng đầu tiên của Phật giáo về thời kỳ khủng hoảng: Luôn được thúc đẩy bởi tình yêu (bao gồm cả tình yêu dành cho bản thân). Thay vào đó, sự rộng lớn của lời nguyện bồ tát giúp chúng ta duy trì một tấm lòng cởi mở, sẵn sàng khiêm tốn coi bản thân là phụ thuộc lẫn nhau với tất cả Chúng sinh, và do đó được khơi dậy lòng từ bi bất cứ khi nào chúng ta nhìn thấy bất kỳ phần nào của Bản thể đó đang đau khổ.

Nhân duyên để có phương pháp thực hành “Phật giáo trong thời khủng hoảng”

Trong phần tiếp theo của tôi, tôi sẽ bắt đầu đi vào “cách thức” và “lý do tại sao” của Ba lĩnh vực của Phật giáo thời kỳ khủng hoảng, bắt đầu với Bearing Witness. Song, để kết thúc ngày hôm nay, tôi muốn nói một vài lời về nguồn gốc của phương pháp thực hành “Phật giáo thời kỳ khủng hoảng” này.

Như bạn có thể biết từ nhiều tập podcast khác nhau mà tôi đã phổ biến trong vài năm qua, tôi đã vật lộn từ lâu với câu hỏi về cách thức thực hành Phật giáo liên quan đến phản ứng của chúng ta đối với đau khổ trong cuộc sống thực tại, đặc biệt là đau khổ do các vấn đề hệ thống gây ra. Rõ ràng là Phật giáo yêu cầu chúng ta đáp lại một cách từ bi và rộng lượng đối với một người xuất hiện ngay trước mặt chúng ta – một người đang rất cần sự giúp đỡ và người mà chúng ta có thể giúp đỡ một cách ngay lập tức, trực tiếp. Mọi thứ trở nên phức tạp hơn ngay khi người đau khổ không ở ngay trước mặt chúng ta, hoặc không phải là một người, hoặc đang vật lộn với một vấn đề phức tạp, lâu dài, hoặc khi đau khổ là do các vấn đề hệ thống mà chúng ta không có khái niệm hoặc kinh nghiệm. Tôi không tin rằng tất cả những gì Phật giáo có thể cung cấp cho chúng ta trong những trường hợp này là một lời khuyên nên đi thiền vì khi đó chúng ta sẽ không cảm thấy buồn phiền gì nữa.

Tôi đã nghiền ngẫm tất cả những điều này trong hơn hai mươi năm. Trước khi trở thành một nhà sư, tôi đã học cao học để trở thành một nhà sinh vật học động vật hoang dã nhằm “giải cứu thế giới”. Tại một thời điểm nào đó, tôi đã tuyệt vọng rằng sự nghiệp trở thành nhà sinh vật học động vật hoang dã sẽ tạo ra nhiều khác biệt; Xét cho cùng, chúng ta đã biết quá đủ về các sinh vật hoang dã để biết rằng chúng ta đang gây ra sự hủy diệt hầu hết cho chúng, nhưng kiến ​​thức đó dường như không ảnh hưởng nhiều đến quyết định của chúng ta với tư cách là một xã hội. Không biết phải làm gì khác, tôi xuất gia trở thành một thiền sư và dành khoảng 10 năm miệt mài với công việc huấn luyện đó.

Khi tôi trở thành một thiền sư, tự nhiên lại nảy sinh câu hỏi đối với bản thân: Tôi nên ứng phó với những đau khổ trong đời thực trên thế gian như thế nào? Với tình trạng khẩn cấp về khí hậu và sinh thái ngày càng trở nên rõ ràng, tra vấn trở nên cấp thiết hơn. Nhiều lần, tôi đã nghe các sinh viên của mình bày tỏ sự lo lắng về sự phá vỡ hệ sinh thái và tất cả những tệ nạn mà con người đã góp phần gây ra rồi sẽ trở nên trầm trọng hơn, như phân biệt chủng tộc, lòng tham, bất bình đẳng tài nguyên và thái độ bóc lột đối với thiên nhiên. Họ nói: “Tôi không thể dành quá nhiều thời gian để đọc tin tức hoặc suy nghĩ về những vấn đề này, tôi hoàn toàn bó tay…”

“Ôi, không thể như vậy!” Tôi nghĩ trong lòng khi nghe nỗi bức xúc này được bày tỏ. “Chúng ta phải đến cùng nhau và hành động!” Như Margaret Mead đã nói,

“Đừng bao giờ coi thường rằng một nhóm nhỏ những công dân nhiệt huyết, tận tâm có thể thay đổi thế giới; thực sự, đó là điều đã từng xảy ra.”

Tôi đã thử nghiệm nhiều thứ trong nhiều năm – cách giảng dạy, chia sẻ sách vở, tổ chức nhóm (Ecosattva) – để mang lại vai trò có ảnh hưởng của tôi với tư cách là một thiền sư cùng với ý thức về mệnh lệnh đạo đức của mình hầu đáp ứng với sự đau khổ của thế giới theo nghĩa đen một cách thực tiễn. Tăng thân tội nghiệp của tôi đã phải chịu đựng những thử nghiệm, những mạo hiểm và niềm đam mê bướng bỉnh của tôi. Tôi thú thật rằng ý niệm về Phật giáo thời kỳ khủng hoảng của tôi đã đúc kết lại, trong một buổi thiền… và tôi hy vọng rằng nó sẽ hữu ích cho mọi người và chứng minh sự kiên nhẫn của Tăng thăng của tôi là xứng đáng và thật sự có ý nghĩa.

[ Đón nghe hoặc đọc phần 2 ]

_________________________

[1] Kinh Pháp Cú, Phẩm Song Yếu 5 & 6 (http://nalanda.org.my/e-library/dhammapada/thetwinverses/verse5&6.php)
[2] Martin Luther King, J, kẻ thù
[3] Kinh Kim Cương: Trí tuệ viên mãn. Berkeley, California: Counterpoint Press, 2001. Trang 2.

Source:

Crisis Buddhism:
Sustainable Bodhisattva Practice in a World on Fire – Part 1

Domyo Burk, The Zen Studies Podcast

As Buddhists, we care deeply about the suffering in the world and know we’re interdependent with all life, but how do we face what’s going on without becoming overwhelmed or depressed? How do we stay true to our values and aspirations despite being trapped in a system that destroys life? How do we find meaningful ways to help when our lives are already so busy? How do we sustain our practice, strength, and positivity in the midst of a slow-moving ecological catastrophe? How can we respond appropriately, with realistic urgency, but avoid burning ourselves out?

Balancing Three Essential Areas of Practice

Crisis Buddhism addresses all of these questions by asking us to mindfully balance three essential areas of practice: Bearing Witness, Taking Action, and Taking Care. These three parts of Crisis Buddhism, ideally, are all represented in our practice in some measure. Bearing Witness means learning about the suffering of the world in all its forms in order to make wise decisions, activate our natural compassion, and awaken a sense of urgency. Taking Action means participating in a tangible way to help alleviate or prevent the suffering we witness. Taking Care means engaging in activities, relationships, and practices that sustain us.

The principle task before us as we practice Crisis Buddhism is to skillfully and sustainably balance our time and energy among the Three Areas. The attention and resources we devote to each area will vary over the course of our lives, and will depend on our circumstances. At times, we will be bursting with energy, and will need to remember to Take Care of ourselves in the midst of activities involving Bearing Witness and Taking Action. At other times, we’ll have so much to deal with in our personal lives that most of our time and energy will go towards Taking Care of ourselves and our loved ones, with little left over for the other two areas. There is no set ratio among the areas that a “good Buddhist” will achieve, and maintaining the right balance is an ongoing process for each one of us.

There are several benefits to formulating Crisis Buddhism as composed of three essential components we need to carefully balance. First, it highlights that balance itself is a vital part of practice; no one of the three aspects of practice is sufficient in and of itself, nor is it inherently superior to either of the other aspects. Second, it helps us see Bearing Witness as a valuable practice in and of itself, independent of our ability to address any particular suffering we witness. Third, it encourages us to venture into the challenging territories of Bearing Witness and Taking Action while assuring us we will not be asked to succumb to overwhelm or exhaustion when facing the suffering in the world. Fourth, it establishes Taking Care as a legitimate component of bodhisattva practice, allowing us to engage without a sense of guilt or cognitive dissonance in enjoying our lives and relationships, and in the contemplative aspects of our practice.

In this episode I will begin my presentation of Crisis Buddhism by explaining its two “Golden Rules.” These overarching principles are important to the whole endeavor, so I want to lay them out before going into more detailed descriptions of the three areas of Bearing Witness, Taking Action, and Taking Care. In my next episode, I’ll begin an exploration of the three areas.

Two Golden Rules of Crisis Buddhism

It’s up to each of us to do our best to fulfill our intentions or vows as Buddhists, but there are two “Golden Rules” of Crisis Buddhism:

1. Always be motivated by love.

This means love toward others as well as toward yourself. At no point should our attempt to practice Crisis Buddhism lead to judgment, harshness, a sense of superiority, or a sense of inferiority. No matter what our views on how the world should be, or on how we should respond to it, we aim to interact with people respectfully and skillfully, sincerely concerned for the well-being of all involved. We work with our own anger, judgmentalism, and hatred in order to practice patience with others – and we extend that same respect, skillfulness, and patience toward ourselves.

Metta, or goodwill, is the first of the Buddhist four Brahmaviharas, or Sublime Social Attitudes, which we should cultivate in order to set ourselves up for fruitful spiritual practice. In instructions for cultivating metta, we’re told to consider how anger and hatred hurt us more than they hurt our enemy; one analogy in the Buddhist literature is that feeling ill-will toward someone is like picking up a hot coal to throw at them. Metta becomes a purifying spiritual practice when we can extend it even toward people who have hurt us, or have caused great harm in the world. We practice love, another translation of metta, no matter what, no matter who.

We do our best to be motivated by love at all times for our own moral welfare, but also because it’s the only approach that actually works to change the minds and hearts of others. Crisis Buddhism asks a lot of us, but if we resort to using judgment and shame to achieve our aspirations, we will fail. As the Buddha taught in the Dhammapada:

“Hatreds never cease through hatred
(in this world);
through love alone they cease.
This is an eternal law.”[i]

There’s also the redemptive quality of unconditional love, or goodwill. In his sermon “Loving Your Enemies,” Rev. Martin Luther King, Jr. spoke about this teaching of Jesus. After talking about how to love your enemies, King says it is also necessary to understand why we should do so, and offers three reasons. His first reason echoes the Buddha’s: That hate only increases the amount of hate in the world. The second reason is that “hate distorts the personality of the hater.” He explains his third reason like this:

“Now there is a final reason I think that Jesus says, ‘Love your enemies.’ It is this: that love has within it a redemptive power… if you hate your enemies, you have no way to redeem and to transform your enemies. But if you love your enemies, you will discover that at the very root of love is the power of redemption. You just keep loving people and keep loving them, even though they’re mistreating you… Oh, they react in many ways in the beginning. They react with bitterness because they’re mad because you love them like that. They react with guilt feelings, and sometimes they’ll hate you a little more at that transition period, but just keep loving them. And by the power of your love they will break down under the load… There’s something about love that builds up and is creative. There is something about hate that tears down and is destructive.”[ii]

A golden rule of “Always be motivated by love” may seem impossible to actually keep. Of course, all we can do is our best. It’s important to remember that love is not necessarily a warm and fuzzy feeling, and it doesn’t mean we accept what people are doing. In the same sermon I just quoted from, Martin Luther King says:

“Like is a sentimental something, an affectionate something. There are a lot of people that I find it difficult to like. I don’t like what they do to me. I don’t like what they say about me and other people. I don’t like their attitudes. I don’t like some of the things they’re doing. I don’t like them. But Jesus says love them. And love is greater than like. Love is understanding, redemptive goodwill for all men…”[ii]

There’s much more that can be said about the importance of practicing goodwill, or love, unconditionally toward all beings. For now, I’ll just emphasize how essential it is to hold this aspiration if we’re going to practice Crisis Buddhism. The moment we start Bearing Witness to the suffering in the world, and the moment we start Taking Action to alleviate or prevent that suffering, we’ll be faced with situations that are other than how we would like them to be. We’ll be tempted to descend into judgment and hatred, and to elevate the importance of our own ideals and opinions over the well-being of people who oppose us. Forgetfulness about the core teachings of love from the Buddha, Jesus, and all other major spiritual traditions, has led to all of the worst ills perpetrated by human beings, and to the ideological polarization obstructing progress in our world today.

2. Extend your sphere of care and responsibility as far as possible.

Most people would agree they’re responsible for themselves and, if they have any, their children. A smaller subset of people see themselves as at least partly responsible for the well-being of their immediate or extended family: Parents, grandparents, siblings, etc. Some of us are fortunate enough to have other relationships that include mutual concern for one another’s well-being, such as committed friends, or certain members of our Sangha or other close-knit community. I would guess that for the vast majority of us, that’s about as far as our sphere of meaningful care and responsibility extends. Sure, we may feel sad that members of our community are homeless, or that large numbers of people in other countries are starving. Perhaps we take this into consideration when we vote, or donate money to good causes, or try to minimize the harm we do through our lifestyle choices, but most of us don’t feel personally responsible for witnessing or addressing suffering beyond that experienced by people we know directly.

As Buddhists, we’re asked to extend our sphere of care and responsibility as far as possible. Metta practice is meant to be extended unconditionally to everyone, and it involves a concern for each being’s welfare. First we practice metta for those we feel affection for, but eventually we try to extend to everyone. Our moral precepts against causing harm by killing, stealing, misusing sexual energy, lying, or trafficking in intoxicants, do not refer only to our interactions with our family, friends, or immediate community. We must take care not to cause harm to any beings, even if they live on the other side of the planet from us. If we’re Mahayana Buddhists, we also acknowledge our interdependence with all things, and aspire to fulfill the bodhisattva vow to free all beings. As it says in the Diamond Sutra:

The Buddha said to him, ‘Subhuti, those who would now set forth on the bodhisattva path should thus give birth to this thought: “However many beings there are in whatever realms of being might exist, whether they are born from an egg or born from a womb, born from the water or born from the air, whether they have form or no form, whether they have perception or no perception or neither perception nor no perception, in whatever conceivable realm of being one might conceive of being, in the realm of complete nirvana I shall liberate them all.”’”[iii]

This is mighty aspiration. Think about it. In order to liberate a being in the realm of nirvana, you have to get to know that being, and make sure they have their basic needs met so they can practice. You have to address them with compassion and skillfulness. You’re not limiting your attention to any particular realm, which in classic Buddhist cosmology includes the realm of heaven, the jealous demigods (asuras), humans, hungry ghosts, beasts, and hell. You’re including non-human beings born of eggs, like birds and reptiles, and beings born in the water. You’re including so-called “beings” who don’t even have perception. What kinds of beings would those be? Rocks? Rivers? Mountains? Clearly, form of life is excluded from the bodhisattva’s realm of care and responsibility.

Of course, we can’t possibly take care of every being in a literal sense. This is reflected in the traditional bodhisattva vow, which says, “Beings are numberless, I vow to free them all.” The impossibility of our vow is built in from the very beginning; if beings are actually infinite, there’s no saving all of them. Nonetheless, that is our sincere vow. It comes down to a matter of intention. Our capabilities are limited, but no being – no thing, actually – is excluded from our sphere of care and responsibility.

This isn’t meant to amount to massive guilt trip, where you constantly berate yourself about all the beings you’re failing to save. If you did that, you’d be breaking the first Golden Rule of Crisis Buddhism: Always be motivated by love (including love for yourself). Instead, the vastness of the bodhisattva vow helps us maintain an openhearted, humble willingness to see ourselves as interdependent with all Being, and to consequently be aroused to compassion whenever we see any part of that Being suffering.

The Origins of Crisis Buddhism

In my next episode, I’ll start going into the “hows” and “whys” of the Three Areas of Crisis Buddhism, starting with Bearing Witness. To wrap up today, I’ll say a few words about the origins of this paradigm of “Crisis Buddhism.”

As you may be aware from various podcast episodes that I’ve produced over the past couple years, I’ve long wrestled with the question of how Buddhist practice relates to our response to real-life suffering, especially suffering caused by systemic problems. It’s pretty obvious that Buddhism asks us respond compassionately and generously to someone who appears right in front of us – someone who is in dire need, and whom we can help in an immediate, straightforward way. Things get more complicated as soon as the person suffering isn’t right in front of us, or isn’t a person, or is struggling with a complicated, long-term issue, or when the suffering is due to systemic issues we have no idea how to address as an individual. I refuse to believe all Buddhism can offer us in these circumstances is a recommendation to go meditate because then we won’t feel so upset by it all.

I’ve been mulling over all of this for over twenty years. Before I became a monk, I went to graduate school to become a wildlife biologist in order to help “save the world.” At some point I despaired that a career as wildlife biologist would make much difference; after all, we already know more than enough about wild creatures to know we’re causing the destruction of most of them, but that knowledge doesn’t seem to much affect our decisions as a society. Not knowing what else to do, I got ordained as a Zen monk and spent about 10 years absorbed in that training.

When I emerged as a Zen teacher, the question naturally arose for me again: How should I respond to real-life suffering in the world? With the climate and ecological emergency becoming more and more obvious, the question only became more urgent. Over and over again I have heard my students express concern over ecological breakdown and all of the human ills that contributed to it and will be exacerbated by it, like racism, greed, resource inequality, and an exploitative attitude toward nature. “I can’t spend too much time reading the news or thinking about these issues,” they say. “There’s nothing I can do.”

“Oh no!” I think inwardly when I hear this sentiment expressed. “We have to come together and act!” As Margaret Mead famously said,

“Never doubt that a small group of thoughtful, committed citizens can change the world; indeed, it’s the only thing that ever has.”

I’ve experimented with many things over the years – ways of teachings, books to share, Ecosattva groups – in order to bring my influential role as a Zen teacher together with my sense of moral imperative to respond to the world’s suffering in a literal, tangible way. My poor Sangha has suffered through my experimentations, my doubts, and my stubborn passion. My concept of Crisis Buddhism coalesced, I confess, during a session of zazen… and I hope that it will prove to helpful to people and prove my Sangha’s patience was worth it.

________________________

Endnotes

[i] Dhammapada, Twin Verses 5&6 (http://nalanda.org.my/e-library/dhammapada/thetwinverses/verse5&6.php)
[ii] Martin Luther King, Jr: “Loving Your Enemies,” sermon delivered at Dexter Avenue Baptist Church in Montgomery, Ala. in 1957 (https://kinginstitute.stanford.edu/king-papers/documents/loving-your-enemies-sermon-delivered-dexter-avenue-baptist-church)
[iii] Pine, Red. The Diamond Sutra: The Perfection of Wisdom. Berkeley, California: Counterpoint Press, 2001. Pg 2.

[ Read/listen to Crisis Buddhism Part 2 ]

Chia sẻ bài vở từ trang Hội Đồng Hoằng Pháp và Thư Viện Phật Việt 04.05.22





Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni
Kính thưa quý pháp hữu,
Chúng con/chúng em xin được mạn phép chia sẻ những bài mới của trang nhà Hội Đồng Hoằng Pháp và trang nhà Thư Viện Phật Việt. Đồng thời kính nhờ quý vị chuyển tiếp/chia sẻ cho đạo tràng hay thân hữu của mình.

Để Pháp Phật được lan truyền rộng như vết dầu loang, kính mong quý vị "Like" hai trang nhà này, chia sẻ cùng đạo tràng của mình, bạn bè hoặc người thân để FB tính logarithm chuyển tải Giáo lý Phật Đà một cách hiệu quả hơn.
https://www.facebook.com/hoangphap21
https://www.facebook.com/thuvienphatviet

Chúng con/chúng em xin dự định sẽ chia sẻ những bài khi thời gian cho phép, nếu không muốn nhận email này, thì cho chúng con/em hay để lấy ra khỏi email listing hoặc muốn thêm ai thì cũng xin cho hay.

Khi chia sẻ trên các trang nhà khác, xin hãy ghi nguồn xuất phát từ 2 trang nhà HĐHP và Phật Việt.

Từ trang nhà HỘI ĐỒNG HOẰNG PHÁP

1. Vĩnh Hảo: Quán niệm mùa Phật đản
https://hoangphap.org/vinh-hao-quan-niem-mua-phat-dan/

2. Thích Nhuận Châu: Phước lạc thay sự xuất hiện của chư Phật
https://hoangphap.org/thich-nhuan-chau-phuoc-lac-thay-su-xuat-hien-cua-chu-phat/

3. HT Thích Thái Hòa: Bụi đời trong mắt tôi
https://hoangphap.org/ht-thich-thai-hoa-bui-doi-trong-mat-toi/

4. Thích Nữ Tịnh Quang: Huyền thoại đản sanh
https://hoangphap.org/thich-nu-tinh-quang-huyen-thoai-dan-sanh/

5. Huyền Lam: Ngày Phật sinh – Khẽ gọi tên Thầy
https://hoangphap.org/huyen-lam-ngay-phat-sinh-khe-goi-ten-thay/

6. GHPGVNTN Hoa Kỳ: Thông Bạch Phật Đản Phật lịch 2566 – 2022
https://hoangphap.org/ghpgvntn-hoa-ky-thong-bach-phat-dan-phat-lich-2566-2022/

7. GHPGVNTNHN tại Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan: Thông bạch Phật đản 2646
https://hoangphap.org/ghpgvntnhn-tai-uc-dai-loi-tan-tay-lan-thong-bach-phat-dan-2646/

8. HT Thích Như Điển: Pháp thoại nhân lễ Phật Đản Sanh lần thứ 2646, Phật lịch 2566
https://hoangphap.org/ht-thich-nhu-dien-phap-thoai-nhan-le-phat-dan-sanh-lan-thu-2646-phat-lich-2566/

9. Hội Đồng Hoằng Pháp: Thành kính tưởng niệm Trưởng Lão HT Thích Lương Phương
https://hoangphap.org/hoi-dong-hoang-phap-thanh-kinh-tuong-niem-truong-lao-ht-thich-luong-phuong/

10. Huỳnh Kim Quang dịch: Câu chuyện về cuộc đời Đức Phật
https://hoangphap.org/huynh-kim-quang-dich-cau-chuyen-ve-cuoc-doi-duc-phat/


Từ trang nhà Thư Viện Phật Việt

1. Kỷ yếu tưởng niệm Hòa thượng Thích Giác Nhiên – Đệ Nhị Tăng Thống GHPGVNTN
https://thuvienphatviet.com/ky-yeu-tuong-niem-hoa-thuong-thich-giac-nhien-de-nhi-tang-thong-ghpgvntn/

2. Nguyệt san Chánh Pháp số 126 | tháng 05.2022
https://thuvienphatviet.com/nguyet-san-chanh-phap-so-126-thang-05-2022/

3. Minh Đức Triều Tâm Ảnh: Đại Bồ-tát đản sinh
https://thuvienphatviet.com/minh-duc-trieu-tam-anh-dai-bo-tat-dan-sinh/

4. Thích Tâm Nhãn: Ví dụ về con kiến
https://thuvienphatviet.com/thich-tam-nhan-vi-du-ve-con-kien/

5. Lam Khê: Âm vang mùa hạ
https://thuvienphatviet.com/lam-khe-am-vang-mua-ha/

6. Huỳnh Kim Quang: Cỡi Tâm vào cõi lời
https://thuvienphatviet.com/huynh-kim-quang-coi-tam-vao-coi-loi/

7. Viên Linh: Báo chí Miền Nam trước 1975: “Giữ Thơm Quê Mẹ” của Nhất Hạnh
https://thuvienphatviet.com/vien-linh-bao-chi-mien-nam-truoc-1975-giu-thom-que-me-cua-nhat-hanh/

8. Thích Thiện Siêu: Cương Yếu Giới Luật | Phần 3
https://thuvienphatviet.com/thich-thien-sieu-cuong-yeu-gioi-luat-phan-3/

9. Minh Hải: Truyền bá đạo Phật cho giới trẻ: Chúng ta chỉ bị giới hạn bởi trí tưởng tượng và sáng tạo(!?)
https://thuvienphatviet.com/minh-hai-truyen-ba-dao-phat-cho-gioi-tre-chung-ta-chi-bi-gioi-han-boi-tri-tuong-tuong-va-sang-tao/

10. Thị Nghĩa Trần Trung Đạo: Nếp sống Gia Đình Phật Tử
https://thuvienphatviet.com/thi-nghia-tran-trung-dao-nep-song-gia-dinh-phat-tu/

Từ trang nhà Lotus Media
1. Nguyễn Hữu Huấn: Dr. Rupert Neudeck, người đã cứu 11.300 người Việt trên biển Đông
https://www.bodhimedia.org/nguyen-huu-huan-dr-rupert-neudeck-nguoi-da-cuu-11-300-nguoi-viet-tren-bien-dong/

2. Thích Thanh Thắng: Môn sử và Sử luận
https://www.bodhimedia.org/thich-thanh-thang-mon-su-va-su-luan/

3. Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: 8 lời khuyên của Phật giáo để đối phó với sự tức giận
https://www.bodhimedia.org/tam-quang-nhuan-dich-viet-8-loi-khuyen-cua-phat-giao-de-doi-pho-voi-su-tuc-gian/

4. Nguyên Giác: Thiền Tỉnh Thức với Vô Ngã
https://www.bodhimedia.org/nguyen-giac-thien-tinh-thuc-voi-vo-nga/

5. Thích Thanh Thắng: Đừng mãi tự hào vì sự bất tử trong xiềng xích
https://www.bodhimedia.org/dung-mai-tu-hao-vi-su-bat-tu-trong-xien-xich/

6. GS. Cao Huy Thuần: Làm thế nào để phỏng vấn Đức Phật?
https://www.bodhimedia.org/gs-cao-huy-thuan-lam-the-nao-de-phong-van-duc-phat/

7. Vũ Hoàng Chương: Trả ta sông núi
https://www.bodhimedia.org/vu-hoang-chuong-tra-ta-song-nui/

8. Tuấn Khanh (2014): Chiến Tranh là gì?
https://www.bodhimedia.org/tuan-khanh-2014-chien-tranh-la-gi/

9. Chân Văn Đỗ Quý Toàn: Ngôn ngữ từ ái
https://www.bodhimedia.org/chan-van-do-quy-toan-ngon-ngu-tu-ai/

10. Trần Kiêm Đoàn: Từ Việt Hán đến Ngữ Văn – Nghĩ về một danh xưng hợp lý cho môn học tiếng Việt
https://www.bodhimedia.org/tran-kiem-doan-tu-viet-han-den-ngu-van-nghi-ve-mot-danh-xung-hop-ly-cho-mon-hoc-tieng-viet/