Thursday, November 18, 2021

Simon Brenner* | Tâm Thường Định lược thuật: Chỉ Là Một Ngón Tay Khác Chỉ Trăng | A different finger pointing at the moon

 

Simon Brenner là học trò của Ji Kwang Dae Peop Sa Nim. Ông là một nhà khoa học về công nghệ máy vi tính, làm việc trong lĩnh vực phục hồi các bản thảo cổ kỹ thuật số

Học và giảng Phật Pháp bằng phương tiện truyền thông kỹ thuật số và internet có thể là một chủ đề vẫn cần thảo luận nhiều. Bây giờ hầu như mọi thứ trong cuộc sống của chúng ta đều tràn ngập bởi công nghệ thông tin, do đó ý nghĩ về sự tác động của kỹ thuật số cũng đang xảy ra ở các cộng đồng Phật giáo khiến nhiều người không khỏi lo ngại. Phật giáo không phải là đối tượng cuối cùng bị tác động bởi công nghệ thông tin, vốn là lãnh vực ảnh hưởng đến tần suất chánh niệm trong một thế giới đầy tin nhắn tức thời và sự hài lòng tức thì. “Tại sao tôi nhất định phải đọc bài báo trực tuyến này thay vì ngồi trên đệm thực hành chánh niệm?” – Nhiều lúc bạn sẽ tự hỏi như vậy. Đối với nhiều người trong chúng ta, Phật giáo là cội rễ bất di bất dịch giữa vòng xoáy của sự quá tải và kích động thông tin.

Tôi thường nghĩ về những người ở Ấn Độ cổ đại, những người sau nhiều năm truyền khẩu những lời dạy của Đức Phật đã viết ra và những lời nói hay những điều chỉ dẫn của Ngài. Khởi từ “do đó tôi đã nghe” cho đến “do đó tôi đã đọc” có thể gây ra nhiều tranh cãi đối với con người thời đó, cũng như đối với chúng ta ngày nay về những nỗ lực hiện đại mà chúng ta đang thực hiện nhằm làm cho Pháp của Phật có thể truy cập được trên internet. Nhìn lại, truyền thống văn bản có lẽ là một bước đi tốt, vì nó đã giúp giáo lý của Đức Phật truyền bá đến nhiều quốc gia và tồn tại qua nhiều thế kỷ, đến nỗi ngay cả chúng ta, những người châu 

Âu hiện đại, cũng có thể hưởng sự lợi lạc ở 2600 năm sau. Chúng ta cũng phải thừa nhận sự thật rằng các bản Kinh được viết ra không chỉ đơn thuần là một phương tiện truyền đạt thông tin, mà chính mỗi văn bản đã trở thành những thực thể tâm linh và đã truyền cảm hứng cho những trường phái Phật giáo hình thành xung quanh.

Vì vậy, chúng ta đang ở đây, có hai phương thức truyền đạt Giáo Pháp từ người này sang người khác, cảm thấy thuần khiết như nhau, tự nhiên và phù hợp với truyền thống: một mặt là trao đổi trực tiếp giữa người với người, giữa sư phụ và học trò hoặc giữa các học viên đồng đẳng, và các văn bản bằng văn bản, mặt khác, các truyền thống Phật giáo khác nhau có thể đề cao khác nhau về một trong hai, nhưng tôi nghĩ tất cả chúng ta có thể đều đồng ý rằng không gì có thể thay thế được hai phương thức truyền đạt trên. Trong khi giao tiếp cá nhân là tự nhiên đối với con người và có thể có chiều sâu tâm linh khó chuyển tải dưới dạng văn bản, nó dễ bay hơi và bị ràng buộc trong một không gian và thời gian eo hẹp. Trong khi kinh bằng văn bản có giá trị vĩnh viễn và phổ biến rộng rãi, nhưng chúng có thể khó tiếp cận; thậm chí khó khăn hơn cho thành phần mù hoặc ít chữ.

Vì vậy, ngày nay phương tiện nghe-nhìn đang lấp đầy khoảng cách giữa văn bản và giao tiếp mặt đối mặt, trong đó chúng cung cấp một kênh giao tiếp tự nhiên và dễ tiếp cận, không bị ràng buộc về mặt không gian và tạm thời như chữ viết. Cho nên, thay vì lo sợ rằng những phương tiện này sẽ thay thế bất cứ thứ gì đã được chứng minh và thiết lập trong nhiều thế kỷ, tôi khuyên bạn nên xem chúng như một công cụ hữu ích, một phương tiện khẩn cấp nếu bạn muốn, để thực hiện một mục đích nhất định trong một tình huống nhất định.

Một trong những mục đích này chắc chắn là việc gỡ bỏ các rào cản: video và podcast có thể là phương tiện liên lạc hoàn hảo ở cấp độ ban đầu cho những người bị lôi cuốn vào các Tư tưởng Phật giáo nhưng chưa đủ quyết tâm để thực hành thông qua kinh sách hoặc trực tiếp tham gia vào một Tăng thân. Tôi đã nghe thấy những lo ngại xác đáng rằng việc cung cấp ‘đường tắt’ đến Pháp này sẽ thúc đẩy sự lười biếng, thời gian chú ý ngắn và sự thiếu chánh niệm nói chung, và do đó, theo một cách nào đó mâu thuẫn với các giá trị mà Phật tử đề cao. Mặc dù điều này không thể tranh cãi, nhưng hãy để tôi hỏi bạn thử xem: nếu bạn tin rằng những đặc điểm nêu trên là vấn đề của xã hội thông tin hiện đại của chúng ta (cũng như tôi), và bạn muốn cung cấp những góc nhìn khác, bạn sẽ làm thế nào để mọi người nghe được? Dí sách vào họ nghe có vẻ không phải là giải pháp khả thi duy nhất.

Đối thoại cá nhân chắc chắn là hiệu quả nhất nhưng giới hạn về số lượng người mà bạn có thể tiếp cận. “Chất lượng trước số lượng!” Ở đây tôi hình dung và đề xuất như thế này: Nếu bạn nghiêm túc với niềm tin của mình và nghĩ rằng Giáo Pháp của Đức Phật là con đường để chấm dứt đau khổ và thúc đẩy hòa bình trên thế giới này, thì việc chia sẻ Giáo Pháp với càng nhiều người càng tốt sẽ trở thành một mục đích lớn nhưng “chỉ dành cho những người xứng đáng” thì có vẻ hơi phản tác dụng. Đây không chỉ là vấn đề truyền giáo, bạn đang được tiếp cận, nhìn thấy và cung cấp những gì bạn có, và mọi người có thể tự do lắng nghe hoặc không.

Tuy nhiên, dẫn nhập dễ dàng để theo đuổi Giáo Pháp nghiêm túc hơn không phải là ứng dụng duy nhất của phương tiện kỹ thuật số-internet. Tôi nghĩ rằng các podcast đặc biệt đáng được chúng ta quan tâm ở đây. So với các video trực tuyến, podcast có xu hướng dài hơn và ít tập trung hơn vào việc thu hút sự chú ý. Các chương trình radio gần như theo yêu cầu này thường là lựa chọn tốt cho những ai muốn tìm hiểu sâu hơn. Thêm vào đó, nghe podcast đặc biệt dễ dàng để tích hợp trong một lịch trình bận rộn; đi xe hơi hoặc xe lửa là những cơ hội lý tưởng.

Vì vậy, chỉ còn lại một câu hỏi: trong số những nội dung tràn ngập trên internet, làm thế nào để bạn tìm thấy tài liệu Phật giáo đích thực trong số tất cả những thông điệp về lối sống xây dựng-nhân cách-có động lực-và-những-gì-chúng-ta-đang-là… bằng cách nào đó gợi ý một Nền tảng và triết học Phật giáo? Và bạn bắt đầu tìm kiếm ở đâu? Điều này có thể là một thách thức, đặc biệt là khi là một “người mới bắt đầu”.

Mạng lưới Phật giáo Châu Âu là một dự án gần đây của EBU có thể giúp thực hiện điều đó. Ngoài các mục tiêu khác, chúng tôi cố gắng thu thập các video và podcast từ tất cả các cộng đồng Phật giáo Châu Âu tại một nơi, để giúp tất cả người Châu Âu có thể dễ dàng tiếp cận những hiểu biết chân thực về Phật giáo, không phụ thuộc vào nền tảng tôn giáo của họ. Chúng tôi hy vọng rằng dự án này sẽ mang lại lợi ích cho những người thực hành các truyền thống Phật giáo khác nhau, các tín đồ của các tôn giáo khác cũng như những người vô thần.

Đối với những người đang tìm kiếm con đường của mình, Mạng lưới Phật giáo Châu Âu cung cấp một cái nhìn tổng quan súc tích về các trường học Phật giáo ở Châu Âu. Tuy nhiên, bạn sẽ không tìm thấy bất kỳ mô tả lý thuyết nào ở đó, bạn có thể xem video và nghe podcast trực tiếp từ Sanghas.

Đối với các Phật tử, Mạng lưới này thúc đẩy một sự hiểu biết về “Phật giáo Châu Âu” và đem đến cơ hội để tất cả có cái nhìn xa hơn một chút. EBU đang thực hiện những Phật sự quan trọng ở tầm vóc của một tổ chức, nhưng các nỗ lực của những người chủ trương phần lớn vẫn bị hạn chế. Vì vậy, ý tưởng thiết lập một mức độ kết nối hữu hình hơn của Phật giáo châu Âu luôn được quan tâm, nơi các Tăng đoàn có thể được xem là một phần của một cộng đồng quốc tế tươi đẹp, hơn là một con thuyền đơn độc. Khi bạn hạnh phúc và mãn nguyện trong Tăng thân của chính mình, hầu như không có lý do gì để đầu tư thời gian và công sức để cố gắng dò xét người khác; đó là một điều đáng tiếc. Thái độ hiểu biết như vậy thực sự có thể làm phong phú thêm việc thực hành của chính bạn và thay đổi quan điểm của bạn trong nhiều vấn đề của cuộc sống.

Ít nhất đây là kinh nghiệm thực tế của tôi: Sau khi lớn lên với Tăng đoàn Yun Hwa của Phật giáo-Xã hội-Thế giới mà ban đầu tôi đã không bao giờ cảm thấy bị thôi thúc phải tìm kiếm điều gì đó khác biệt, cho đến khi tôi bị cuốn vào EBU, tôi mới bắt đầu thực sự đánh giá cao sự phong phú của Những truyền thống Phật giáo mà chúng ta có thể tìm thấy ở Châu Âu. Tôi tin rằng việc sử dụng các phương tiện nghe nhìn cũng có thể giảm bớt các rào cản trong bối cảnh này và hỗ trợ rất nhiều cho việc nhận thức và đánh giá lẫn nhau giữa các truyền thống Phật giáo; một video bài giảng Pháp dài vài phút có thể mang đến cho bạn cảm nhận về bản chất của một trường học Phật giáo.

Phương tiện truyền thông kỹ thuật số và việc phân phối chúng qua internet sẽ không thay thế việc giảng dạy cá nhân truyền thống hoặc các bài kinh bằng văn bản theo bất kỳ cách nào; chúng ta hãy xem chúng như một phần mở rộng cho tập hợp các phương pháp của chúng ta để chuyển tiếp Giáo Pháp. Chỉ là một ngón tay khác chỉ vào mặt trăng.

A different finger pointing
at the moon

Simon Brenner

Learning and teaching Buddha’s Dharma via digital media and the internet – this could be a controversial topic. Every part of our lives is permeated by information technology; and yet – or exactly therefore – the thought of this digital transformation also happening in our Buddhist communities is unsettling for many. Should Buddhism not be our last technology-independent resort? Our domain of de-accelerated mindfulness in a world of instant messaging and instant satisfaction? “Why am I reading this online article instead of actually sitting on the cushion?” you might think now. For many of us, Buddhism is the unmoving root in a whirlpool of information overload and overstimulation.

I like to think about the people of ancient India, who after years of oral tradition of the Buddha’s teachings started to write his words and instructions down. Going from “thus I have heard” to “thus I have read” might have been as controversial for the people of the time as it is for us today in regard of our modern attempts to make Buddha’s Dharma accessible on the internet. In hindsight, textual tradition was probably a good move, considering that it has helped Buddha’s teachings to spread to multiple countries and endure the centuries, so much so that even we, as modern Europeans, can benefit from it 2600 years later. We must also acknowledge the fact that the written Sutras have become more than just a medium that conveys information; they themselves have become spiritual entities and have inspired Buddhist schools to form around them.

So here we are, having two modes of transporting the Dharma from one person to another, which feel equally pure, natural and in accordance with tradition: on the one hand the direct person-to-person exchange between master and student or among peer practitioners, and the written texts on the other hand. Different Buddhist traditions may place different emphasis on either of the two, but I think we can all agree that both are irreplaceable. While personal communication is natural for human beings and can have a spiritual deepness which is difficult being transported in a written form, it is volatile and bound to a small space and time. While written sutras are permanent and widely distributable, they can be hard to access; even more so their non-intellectual components.

Audiovisual media are filling the gaps between text and face-to-face communication, in that they provide an accessible and natural communication channel that is as spatially and temporarily unbound like the written word. So rather than fearing that these media would replace anything that is proven and established for centuries, I would suggest viewing them as a useful tool, an expedient means if you will, to fulfill a certain purpose in a certain situation.

One of these purposes is certainly the lowering of barriers: videos and podcasts can be the perfect entry-level contact for people who are drawn to Buddhist Ideas but not yet determined enough to work through scriptures or directly join a Sangha. I have heard valid concerns that providing this kind of ‘shortcuts’ to the Dharma further promotes laziness, short attention spans and a general lack of mindfulness, and thus in a way contradicts values held up by Buddhists. Although this can’t be argued with, let me ask you this: if you believe that the traits named above are problems of our modern information society (as do I), and you would like to provide other perspectives, how would you get people to listen? Throwing books at them doesn’t sound very promising; personal dialogue is surely most effective but limited in the number of people you can reach. “Quality before quantity!” I hear my imaginary discussion tell me; but here is what I propose: If you are serious about your beliefs and think that Buddha’s Dharma is the way to end suffering and promote peace in this world, then sharing the Dharma with as many people as possible becomes a great purpose (and saving it for the “worthy ones” sounds a bit counterproductive). This is not about proselytizing; if you are visible and offer what you have, everyone is free to listen or not.

However, providing an easy entry to a more serious pursuit of the Dharma is not the only application for digital media. I think especially podcasts deserve our attention here. In comparison to online videos, podcasts tend to be longer and less focused on the grabbing of attention. These quasi on-demand radio shows are generally a good choice for those who want to dive deeper. Plus, listening to podcasts is exceptionally easy to integrate in a busy schedule; car- or train rides are ideal opportunities.

So, there is only one question remaining: among the flood content out there on the internet, how do you find authentic Buddhist material among all the lifestyle- motivational- personality-building- and-what-have-you- messages that somehow suggest a Buddhist background and philosophy? And where do you start looking? This can be challenging, especially as a “beginner”.

The European Buddhist Network is a recent project of the EBU that can help with that. Aside from other goals, we try to collect videos and podcasts from all European Buddhist communities at one place, in order to make authenticBuddhist insights easily accessible to all Europeans, independent of their religious background. We hope that this project will benefit practitioners of various Buddhist traditions, believers of other religions and atheists alike.

For people on the search for their path, the European Buddhist Network provides a concise overview of Buddhist schools in Europe. However, you will not find any theoretical descriptions there, rater you can listen to videos and podcasts directly from the Sanghas. In this respect, we believe that the proof of the pudding is in the eating.

For Buddhists, the Network promotes a sense of “European Buddhism” and a chance to look a bit beyond their noses. The EBU is doing important work on an institutional level, but these attempts are largely hidden from the individual practitioner. So, the idea was to establish a more tangible level of connected European Buddhism, where the individual Sanghas can be perceived as a part of a beautiful international community rather than a solitary boat. When you are happy and content in your own Sangha, there is hardly any reason to invest time and effort to try and understand others; which is a pity, as these kinds of insights can really enrich your own practice and change your perspective on it. At least this was my experience: After practically growing up with the Yun Hwa Sangha of World Social Buddhism and never feeling the urge to look for something different, it was not until I got entangled with the EBU that I started to really appreciate the richness of Buddhist traditions that we can find in Europe alone. I believe that the use of audiovisual media could lower the barriers in this context as well and greatly support the mutual awareness and appreciation between Buddhist traditions; a video of a Dharma speech a couple of minutes long might bring give you a taste of a Buddhist school’s essence.

Digital media and their distribution over the internet will not substitute traditional personal teaching or the written sutras in any way; let us rather view them as extension to our set of methods for relaying the Dharma. Just a different finger pointing at the moon.

About the Author: Simon Brenner is a student of Ji Kwang Dae Peop Sa Nim. He is a computer scientist working on the digital restoration of ancient manuscripts.

Nguồn: Sen Trắng

Friday, October 29, 2021

Tình Em iMac

Chiếc máy cũ không chịu làm việc. Ảnh BXP

 

Tình Em iMac


Tình em đã bảy năm
Thuở ban đầu da diết
Ôi tình em rất thiệt
Bao cay đắng ngọt bùi

Bao kỷ niệm buồn vui
Em vẫn luôn lưu giữ
Anh con người vô sự
Mãi đồng hành cùng em

Những vạt nắng bên thềm
Hay mưa rào tí tách
Em vẫn luôn trong sạch
Chờ đợi gót anh về

Một buổi chiều xa quê
Cách lòng quên em thật
Dỗi hờn không oán trách
Lặng lẽ rồi ra đi

Anh nhớ mãi xuân thì
Thương luôn lúc già yếu
Như một thời đã yêu
Anh đây luôn trân quý

Cảm ơn em thuỳ mị
Đã giúp anh giúp người
Chào nhau lên đường vui
Ta mỉm cười em nhé!


Bon Voyage
Sacramento, 10/28/2021

Thursday, October 21, 2021

Tâm Hòa Ngô Mạnh Thu [2000]: Gia Đình Phật Tử Việt Nam Tại Hoa Kỳ


Lời thưa: Một bài viết đã cũ lắm, của cố trưởng niên Tâm Hoà Ngô Mạnh Thu, nhưng “note’ vào đây để anh chị em áo lam tham khảo. Bài viết tất nhiên cần được cập nhật theo tiến trình thăng trầm của phong trào… và đang đợi anh-chị-em chúng ta cùng làm việc đó, trong thực tiễn hành động. Mong lắm thay!

Trong các sinh hoạt của Cộng Ðồng Người Việt hải ngoại, đặc biệt tại Hoa kỳ, người ta thường thấy có sự hiện diện của một đoàn thể trẻ đồng phục gần giống với tổ chức Hướng Ðạo. Ðó là Gia Ðình Phật Tử, một phong trào Thanh niên của Phật giáo Việt-nam. Ðể rõ hơn về một đoàn thể từ lâu đã có những đóng góp âm thầm trong việc hình thành một cộng đồng Việt-nam, thiết nghĩ cũng cần lược qua tiến trình hình thành của Gia Ðình Phật Tử từ những ngày khởi đầu.

Bối cảnh lịch sử:

Vào những thập niên đầu thế kỷ 20, cùng với các phong trào vận động canh tân đất nước, phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt nam cũng sôi nổi trên cả nước từ Bắc đến Nam. Các bậc chân tu, các nhà trí thức đều lưu tâm, tham gia chấn chỉnh lại niềm tin cùng phát huy tinh thần đạo Phật như một phương cách bảo tồn truyền thống văn hóa Việt nam. Trong bối cảnh lịch sử thời đó, việc năng cao dân trí, cũng như tìm về nguồn cội, bản sắc văn hóa dân tộc là điều cấp thiết. Ðạo Phật từng gắn bó với dân tộc suốt chiều dài lịch sử từ trước khi bị Tàu cai trị, cho đến những ngày khôi phục lại quyền tự chủ. Thịnh suy của đất nước cũng là thịnh suy của Phật giáo. Chấn hưng Phật giáo không chỉ là phục hồi một sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo. Mà cũng là công cuộc vận động tái tạo Con Người Việt Nam có truyền thống Từ hòa Nhân ái.

Giai đoạn hình thành:

Tái tạo Con Người Việt Nam không chỉ riêng những người lớn tuổi, mà kể cả lớp con cháu cũng được lưu tâm. Ðó là tương lai, là sinh mệnh đất nước. Vì vậy, từ cuối thập niên 1930, tại Huế và Hà nội, các em bé nhi đồng cũng đã cùng cha mẹ, ông bà đến chùa. Các em được đoàn ngũ hóa một cách đơn sơ thành những ban Ðồng Ấu Phật Giáo.

Việc đoàn ngũ hóa này hoàn toàn có tính cách tự phát. Tùy sáng kiến từng địa phương mà có các cách thức sinh hoạt khác nhau. Tại Hà-nội, quý Thượng Tọa và một số cư sĩ trong ban quản trị đã lập một đoàn gồm con em của hội viên Phật tử gọi là ban Ðồng Ấu để làm lễ dâng hương hoa trong các ngày đại lễ. Các em vừa sử dụng nhạc cụ dân tộc vừa hát các bài cổ truyền bằng lời ca mới do cụ Thiều Chửu (tức là cư sĩ Nguyễn Hữu Kha) soạn. Tuy nhiên, thông thường các em được hướng dẫn lễ Phật, nghe kinh và dâng hương hoa trong những ngày lễ lớn. “Ban đồng ấu, áo dài the xanh, đeo băng vàng ghi câu Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng tôi vừa theo xe hoa vừa hát bài điệu Ðăng Ðàn Cung… vui mừng gặp ngày nay mồng tám tháng tư, là khánh tiết Phật Thích Ca Ngài, hiện về Ca Tỳ La Vệ…). Ðầu thập niên 1940, một số cư sĩ ở Huế tập hợp con cháu trong dòng tộc, thân thuộc sinh hoạt tại nhà riêng mang tính cách gia đình. Do đó có tên gọi là Gia Ðình Phật Hóa Phổ. Ðây là tiền thân của Gia Ðình Phật Tử ngày nay.

Giai đoạn kiện toàn:

Năm 1946, chiến tranh toàn quốc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Mọi sinh hoạt tạm ngưng. Năm 1948, mọi người hồi cư. Cùng với các tổ chức Phật giáo trong vùng quốc gia, tại Hà-nội và Huế vài Gia đình Phật hoá Phổ đầu tiên phục hoạt. Các sinh hoạt vẫn chỉ giới hạn trong phạm vi địa phương. Giai đoạn này, có các huynh trưởng gốc Hướng đạo (Trần Ðiền, ở Huế, Trần Trung Du ở Hà-nội) tham gia sinh hoạt. Gia đình Phật hóa Phổ vốn chưa có nền nếp, nên mô phỏng theo tổ chức Hướng đạo khá nhiều. Từ hình thức đồng phục đến phân chia chương trình huấn luyện. Nhất là kỹ thuật sinh hoạt, dường như rập khuôn Hướng đạo.

Giai đoạn phát triển:

Năm 1951 các tập đoàn Phật giáo Nam Trung Bắc thống nhất thành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Gia dình Phật hóa Phổ, một bộ phận của Tổng Hội, có danh xưng mới: Gia đình Phật tử. Năm 1954, đất nước chia đôi. Một phần Gia đình Phật tử Miền Bắc di cư vào Nam. Tiếng súng tạm ngưng nổ, dất nước tạm yên bình. Gia đình Phật tử phát triển mạnh mẽ. Nhất là từ năm 1964, khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập. Ðầu thập niên 1970, toàn miền Nam có trên nửa triệu đoàn viên Gia đình Phật tử sinh hoạt thường xuyên. Việc hướng dẫn thanh, thiếu, đồng niên thành những Phật tử chân chính, không chỉ giới hạn trong khuôn viên nhà chùa mà còn tạo cho các em ý thức liên đới xã hội. Gia đình Phật tử hướng hoạt động của mình vào những công tác xã hội. cứu trợ. Trên khắp nước, người đồng phục Áo Lam, cờ Hoa Sen Trắng lăn mình vào làm công tác xã hội. Họ ước mong xoa dịu bớt thương đau của đồng bào đang phải gánh chịu trước cuộc chiến vô cùng tàn khốc.

Nổi trôi theo vận nước:

Biến cố 1975 ảnh hưởng nặng nề trên toàn thể người dân Việt nam Cộng hòa. Phật giáo cũng như Gia đình Phật tử không là ngoại lệ. Chế độ Việt nam Cộng hòa sụp đổ. Người dân hỗn loạn di tản ra khắp nơi hải ngoại. Ngay ngày đầu tiên trong các trại tạm cư trên đất Hoa Kỳ, Gia đình Phật tử đã kết hợp công tác giúp ổn định đời sống cho đồng bào. Cùng với những đợt người vượt biển tìm tự do, tại các trại tị nạn vùng Ðông và Nam AÙ, Gia đình Phật tử có mặt để tự giúp và giúp người đồng cảnh vượt khó.

Gia đình Phật tử Việt nam tại Hoa Kỳ:

Ðến năm 2000, có thể nói khắp năm châu nơi nào cũng có người Việt nam cư ngụ. Hoa kỳ là quốc gia đông người Việt nhất. Trên hơn 30 tiểu bang Hoa kỳ có chùa hay niệm phật đường.

Mùa hè năm 1976, tại hai miền cực Ðông và Tây Hoa kỳ đã có hai đơn vị Gia đình Phật tử tiên khởi tự phát. Gia đình Giác Hoàng do các trưởng: Phúc Thiện Ngũ Duy Thành và Thiện Thanh Ðặng Ðình Khiết (nguyên Tổng Thư Ký Ban Hướng Dẫn GÐPT miền Vĩnh Nghiêm) thành lập tại chùa Giác Hoàng Washington DC. Gia đình Cựu Kim Sơn do trưởng Thuyền Vị Nguyễn Thị Ngà thành lập tại chùa Từ Quang San Francisco. Tính đến mùa hè năm 2000, trên toàn quốc Hoa kỳ có trên 60 đơn vị Gia đình Phật tử sinh hoạt đều đặn mỗi cuối tuần. Trong số đó, hai đơn vị tiên khởi Giác Hoàng và Cựu Kim Sơn vẫn còn sinh hoạt mạnh mẽ. Sĩ số mỗi đơn vị thường thường có trên dưới 100 đoàn sinh và huynh trưởng. Một số đơn vị, sĩ số đó đạt đến 3 hay 4 trăm.

Trên quê hương mới, Gia đình Phật tử phải thích nghi với tập quán, văn hóa mới. Ðồng thời vẫn phải gìn giữ truyền thống của mình. Duy trì và phát huy tín tâm đối với đạo pháp là điều tất nhiên. Hợp lực với đồng hương, cộng đồng bảo tồn truyền thống văn hóa dân tộc là trách nhiệm mới của Gia đình Phật tử hải ngoại nói chung, Gia đình Phật tử Việt-nam tại Hoa kỳ nói riêng. Hướng dẫn đoàn sinh các nghi thức tụng niệm, các sinh hoạt tu tập là công việc quen thuộc. Nhưng hợp lực với đồng hương, cộng đồng bảo tồn truyền thống văn hóa dân tộc nơi xứ người là trách nhiệm mới và lạ đối với một đoàn thể quen khép kín sau cánh cổng chùa. Ngoài nhận thức, còn cần tinh thần dấn thân tích cực. Qua thời gian đầu bỡ ngỡ, Gia đình Phật tử quen dần và tổ chức các sinh hoạt thích hợp hội nhập xã hội mới.

Năm 1978, trại huấn luyện Huynh trưởng toàn quốc đầu tiên được tổ chức tại Oaklahoma. Trại quy tụ trại sinh từ nhiều tiểu bang về dự. Từ trại huấn luyện này, một ban Liên Lạc được thành lập để vận động thống nhất sinh hoạt Gia đình Phật tử tại Hoa kỳ. Năm 1983 Ðại hội Huynh trưởng đầu tiên diễn ra tại chùa Pháp Quang tiểu bang Texas mở đầu cho sự kết hợp sinh hoạt chung của Gia đình Phật tử Việt nam tại Hoa Kỳ.

Ra khỏi cổng chùa:

Về tinh thần đã được kết hợp. Về hình thức và phương cách sinh hoạt đã đồng nhất. Nhưng tuỳ theo điều kiện địa phương và vị Thầy trụ trì cố vấn giáo hạnh mà các đơn vị có lịch trình sinh hoạt khác nhau. Sống trong một đất nước năng động, thời gian tính bằng giây, Gia đình Phật tử cũng phải chuyển mình, thích nghi để tồn tại và phát triển. Họ tích cực tham dự vào mọi sinh hoạt của cộng đồng. Là một tổ chức lấy giáo dục làm phương châm nên dù không ồn ào, họ có mặt trong hầu hết các sinh hoạt văn hóa, xã hội, giáo dục và cả đấu tranh nữa của cộng đồng. Trước nhất là giữ gìn tiếng nói và chữ viết. Mỗi đơn vị Gia điụnh Phật tử cũng là một Trung tâm Việt ngữ. Hai sinh hoạt này song hành và tương tác nhau. Hàng ngàn thanh thiếu niên, nhi đồng khắp nơi được các anh chị Trưởng cũng là thầy giáo, cô giáo dạy hát, dạy nói, dạy chữ Việt mỗi cuối tuần.

Các em đoạt được nhiều phần thưởng cao của giải Khuyến Học tổ chức hàng năm cũng như các cuộc thi viết văn thơ dành cho tuổi trẻ. Tại Nam California, có trên 10 Trung tâm Việt ngữ của Gia đình Phật tử và sẽ còn gia tăng cùng với sự phát triển các đơn vị mới. Hầu hết Gia đình Phật tử đều có đội múa Lân, giúp vui trong các dịp lễ lạc của Phật giáo và các lễ hội công cộng do cộng đồng tổ chức như mừng Xuân, giỗ Quốc Tổ, tết Trung Thu & góp phần bảo tồn truyền thống văn hóa Việt. Gắn Hoa Hồng, một nghi thức không thể thiếu trong dịp lễ Vu Lan hay Lễ Hiếu. Nghi thức này do Gia đình Phật tử thực hiện và quảng bá thể hiện lòng hiếu kính đối với cha mẹ. Ðến nay Lễ hội Hoa Hồng Vu lan đã trở thành của đại chúng. Châm ngôn vui hát, vui học được tích cực ứng dụng. Vì vậy, các Gia đình Phật tử đều hướng dẫn các em sinh hoạt văn nghệ. Ðặc biệt hình thái văn nghệ dân tộc rất được chú trọng. Từ mấy chục năm nay, đoàn vũ của Gia đình Phật tử Long Hoa (chùa Việt nam Los Angeles California) dẫn đầu về thể loại vũ dân tộc. Từ những năm đầu thập niên 1990, trong khi bộ môn cải lương bị bỏ quên ngay cả tại quốc nội, Gia đình Phật tử Chánh Pháp (chùa Dược sư Orange County California) đã sáng tác, dàn dựng và công diễn tuồng cải lương. Các vở Phật Thành Ðạo, Quan Âm Diệu Thiện, Lưu Bình Dương Lễ rất được đồng hương và Phật tử tán thưởng đã được thâu băng vidéo phát hành rộng rãi khắp nơi. Chỉ vài năm trở lại đây, cải lương mới được nhắc nhở trong cộng đồng qua các cuộc thi hát Vọng cổ. Sau hai chục năm, một thế hệ huynh trưởng trẻ lớn lên và trưởng thành. Sự tham gia của lớp huynh trưởng trẻ này đã phần nào thay đổi bộ mặt sinh hoạt của Gia đình Phật tử. Họ sát cánh với các đoàn thể trẻ khác thực hiện các công tác xã hội. Ði bộ cho thuyền nhân Pallawan, Cứu trợ bão lụt miền Trung Việt nam và Trung Mỹ, Rửa xe gây quỹ tặng bữa ăn cho người vô gia cư, Xuống đường quyên góp cứu trợ thiên tai trong nước &. Ðây là những sinh hoạt hoàn toàn mới lạ với Gia đình Phật tử. Nhưng lòng nhiệt thành và tính cách năng nổ, tháo vát của tuổi trẻ giúp họ tích cực tham gia không chút bỡ ngỡ. Ý thức trách nhiệm của những người mang danh tị nạn, lòng luôn hướng về quê hương còn nhiều khổ đau, Gia đình Phật tử cũng có mặt trong những lần biểu dương sức mạnh Cộng Ðồng Người Việt như Diễn Hành Mừng Xuân, Vận động Bầu cử Hoa kỳ&. Ðặc biệt, vụ Trần Trường năm 1999, họ đã góp công không nhỏ để đạt được sự thành công hoàn toàn trong việc dẹp cờ cộng sản và hình Hồ Chí Minh trong tiệm Hi-Tech trên đường Bolsa.

Gia đình Phật tử là một phong trào tuổi trẻ mới thành lập trên 50 năm và 25 năm nơi hải ngoại. Tuy thành tựu khích lệ. Song thời gian quá ngắn để họ lớn lên vững vàng. Hướng tới, đường đi tuy rõ ràng. Mà kinh nghiệm, chắc chắn không đủ đáp ứng sự phát triển quá nhanh. Ðôi khi họ cũng bị chao đảo, phân vân. Nhưng may mắn, họ luôn luôn có Thầy bên cạnh nhắc nhở: Việt nam lên đường. Họ biết sống xứng đáng là người Việt-nam và phát huy tính cách của người con Phật. Mùa xuân này, lại thêm một dịp để họ chứng tỏ tấm lòng thiết tha với văn hóa dân tộc. Năm mới sắp về thêm thời gian cho họ kiên cố tình người hăng say phục vụ.

California, Mùa Xuân 2000

TÂM HÒA NGÔ MẠNH THU
(Trích Kỷ yếu Vĩnh Nghiêm Hải Ngoại 2000)

HOÀNG HÔN MẸ

"Tiễn Mẹ" - Ảnh Huyền Ny.

 

HOÀNG HÔN MẸ


Mẹ ta mũi chỉ đường kim
Miệt mài khâu lại nỗi niềm âu lo 
Tiễn con chiều nặng bến đò,
Bước về thui thủi mẹ đo tháng ngày
 
Khuất cha, mẹ nặng hai vai
Vai mưa, vai nắng, gánh ngày sang đêm 
Nửa con mẹ giục con tìm
Còn nửa của mẹ, bên thềm gió lay

Dây trầu lại quấn thân cau
Quấn trăm năm một niềm đau u hoài
Cuộc đời có mấy vòng xoay
Xoay qua vòng cuối con hay được mình 

Con đi ôm hết bình minh
Để mẹ lại với vô tình - hoàng hôn
Giá mà đổi được càn khôn
Con xin đổi lại hoàng hôn của người

Ru con lòng mẹ đầy nôi
Mẹ ta tránh hát những lời thiếu cha
Tiệc tùng con ở nơi xa
Vườn xưa còn đó dưa cà muối rau

Nắng Miền Nam rát… rát đau
Nắng không theo được chuyến tàu về Trung.

Người đi dù khắp muôn trùng,
Tiếng ru lòng mẹ chập chùng non xanh

Về đây nguồn cuội đất lành
Thơ là nhang khói bay quanh chốn này

Mẹ ta cười ở đâu đây
Vườn xưa mây trắng về bay ngập ngừng

Sài Gòn 2010
Phan Thanh Cương.

Saturday, October 16, 2021

Uyên Nguyên giới thiệu: HOA ĐÀM #14: Trưởng Lão Tỷ Kheo Thích Trí Quang và Một Chặng Đường Phật Giáo Việt Nam


Tôi ngồi viết những dòng này, trên lầu bốn của bệnh viện Huntington Beach, nghe chung quanh sinh tử réo rắt – vô thường!

Mỗi khi nghĩ đến bất kỳ một Bậc Thầy của Phật Giáo Việt Nam, trong tâm tôi lại vọng lời dặn dò của cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu (Đệ Tam Tăng Thống, GHPGVNTN) – trong bản Di Huấn đã nhắc nhở thất chúng đệ tử trước giờ Ngài viên tịch:
“Suốt cuộc đời của Thầy hơn tám mươi năm, sống tận tụy bên đồ chúng, không phải giờ ra đi chỉ để lại có bấy nhiêu lời. Nhưng vì đó là những điều cần yếu khi lâm sự, nên phải dặn dò, còn những ưu tư trong bản nguyện của Thầy đối với Đạo Pháp, Dân Tộc và Đồ Chúng thì không sao nói hết được. Là những người thường sống bên cạnh Thầy, các con phải tế nhị mà tự cảm nhận lấy…” – Linh Mụ ngày 19 tháng 2 năm 1988, Lão bệnh Tỳ Kheo Đôn Hậu.

Kỳ thật đây cũng là một phần tâm niệm của anh em kết tập nên những ấn bản Hoa Đàm suốt mấy mươi năm qua. Sau số 12 – tưởng niệm cố Hòa Thượng Thích Đỗng Minh; và 13 tưởng niệm cố Hòa Thượng Thích Huyền Quang. Kỳ này Hoa Đàm 14 đặc biệt kính tưởng niệm Cố Hòa Thượng Thích Trí Quang. Nội dung sưu lục các bài viết liên quan đến Hòa Thượng, của nhiều tác giả khả tín, nghĩ là chừng mực đủ để khắc họa nên hành trạng một đời của Thầy mà tâm niệm như vừa bộc bạch, thương Đạo và tha thiết với Quê hương dân tộc, hiểu Thầy mình là một bổn phận của các thế hệ học trò, trong đó có anh chị em Huynh trưởng GĐPT Việt Nam – phải hiểu cho bằng những điều mà các bậc Thầy đã từng nói và cả những điều không nói ra.

Hiểu, để không hời hợt mà cũng không cần phô trương. Với người muốn nghe thì chia sẻ, với người không cần thì nên giữ im lặng vững chãi như núi.

Đặc biệt trong tuyển tập này, Hoa Đàm có thêm phần phụ lục mà khi nhắc đến tác giả của bài chính luận “Phật Giáo Việt Nam Muốn Gì Mà Thời Nào Cũng Đấu Tranh?”, nếu nhắc Ông như một Lý Thuyết Gia* thì có thể xa lạ với chúng ta, nên nhắc Ông là phu quân của Cô “nữ sinh Mai Tuyết An” thì rất quen thuộc và gần gũi. Tôi mượn lời Ông, bậc trưởng thượng nhận xét về người Thầy của mình để dẫn vào số báo này – nhân ngày Đại Tường của Hòa Thượng – Thượng Nhân Trí Quang, “một nhà thực học về duy thức đứng đầu của Việt Nam; việc tranh đấu của Giáo hội là việc rộng lớn lâu dài, mỗi người làm một việc, hết đợt này tới đợt khác, cho tới chừng nào dân chúng được tự do, dân tộc được thoát nạn đất nước có dân chủ hòa bình phát triển, con người thực sự làm chủ được mình, thăng hoa tâm linh, làm đẹp cuộc đời mà chẳng còn bị cấm đoán mới là lúc Phật giáo được mỉm cười…”.

Chốn bụi, 17 tháng Mười, 2021

UYÊN NGUYÊN
(Quảng Pháp Trần Minh Triết)

 

* Những người quen biết Lý Đại Nguyên từ hơn 60 năm qua đều nhận thấy một điều: Ông không quan tâm đến chính cá nhân mình. Không bao giờ nghe ông nói đến nhu cầu bình thường của một con người, gọi là “cơm, áo, gạo, tiền” cho đến lợi, danh, quyền thế! Lý Đại Nguyên hoàn toàn sống với lý tưởng. Một người quen biết Lý Đại Nguyên từ trước năm 1960, ông Việt Dương đã nhận xét: “Ông sống bình dị, an nhiên, khi ra đi cũng nhẹ nhàng, an nhiên.” Thời nay rất khó kiếm được một người như Lý Đại Nguyên. | Ngô Nhân Dụng

________________________________________

Bi chú: Nội dung tập san được đăng trọn ở đây, nhưng nếu quý anh chị Trưởng nào cần một bản in thì có thể liên lạc Cư sĩ-Huynh trưởng Tâm Thường Định.

ẤN BẢN PDF: HOA DAM 14 

Wednesday, October 6, 2021

Thích Tuệ Sỹ: Nước non cách mấy buồng thêu


Một ngày nóng, rồi một ngày lạnh. Người ta cứ mãi triền miên giữa những cơn nóng lạnh bức bách. Bức bách đến kỳ cùng, cho đến khi lòng người vĩnh viễn đắm chìm tận lòng biển. Không nghe và không thấy, người ta chỉ biết nói chuyện bằng những ngón tay, khi nào trời đã tối hẳn. Đến như thế thì đất đá lại biết nói chuyện hơn người. Để bàn tay bất động trên mặt bàn, mối mọt từ mấy trang sách sẽ từ từ chun ra. Trên mặt bàn sẽ hiện nhiều vết máu. Mùi tanh hôi từ các đồng trống kết tụ về ó tiếng quỷ cái đọc thư trên những xác lá.

Đừng nói chi đến mùa thu này đến mùa thu khác. Chỉ có mùi vị tức tưởi tanh hôi của những cảm khái trong các phong vận hư phù của tuế nguyệt. Những người quen thói chờ đợi và níu cái gì đến tức phải đến, những người ấy một khi ngửi ngửi phải mùi vị ấy thì lảo đảo ngây ngất như nhập đồng cốt, rồi sẽ chập chờn đứng dậy kêu gào, khản giọng kêu gào như quỷ đói. Quỷ đói thì cầu xin một bát cháo ở ngả ba đường, vạch cỏ mà tìm những hạt gạo muối.

Cũng thế, người ta có bổn phận tìm và lựa một đôi lời vụn vặt, nhưng nghe được, rồi đảo qua đảo lại để sắp đặt câu chuyện sinh tồn. Quỷ đói còn biết vạch cỏ để kiếm ăn để sống, người ta sao lại không? Tuy vậy, đã vì sinh tồn sao lại quên được cái cách điệu đong đưa tuế nguyệt? Dù sao, từng đoàn người cũng đã lũ lượt, chờ khi đêm tối, kéo nhau vào những chốn rừng thiêng nước độc, ghé mắt trông chừng những hang đá, mỗi hốc cây. Họ đi tìm ở đâu? Người ta nói, họ đi tìm tình yêu và sự chết. Có kẻ nói gọn hơn, họ đi tìm sự sống. Cũng có thể thực và cũng có thể không thực. Sự thực thì có đây, nhưng tình thực thì không. Sự tình nào thì chẳng nông và nổi. Cái sự của tình nó nông như vũng nước của dấu chân trâu, cái tình của nó nổi như bong bóng.

Rồi cứ thế mà nó mãi. Từng đoạn và từng đoạn xô bồ như đoàn người vội vã xô đẩy nhau. Gắng gượng chống chế để kéo dài mọi sự. Tóc càng dài càng trắng. Đoàn người càng dài càng tối đen, chuyện được kể lể càng dài càng sặc mùi quỷ quái tanh hôi. Cũng còn có những lời nói dài bất tận, dài đến độ trời trở nên xanh và lạnh, lá tre trở thành đỏ và rụng xuống như máu.

Mang nương ngâm lộng màn hàn không
Cửu Sơn tỉnh lục lệ hoa hồng.

Bài hát của cô gái mọi trên đỉnh Cửu Sơn, trong vùng đất Thương Ngô, chỉ hát cho một người nghe, và người độc nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc có thể nghe, là vua Thuấn. Cái tinh anh và thể phách của ngài không ngự trị trên lịch sử văn minh Trung Quốc, mà chỉ phảng phất trên môi của cô gái mọi. Người ta bắt chước điệu nói hư phù của quỷ mới nói ra như vậy, chứ như điệu nói của người thực thì không bao giờ. Bởi vì nhìn lên thì thấy một xe quỷ, nhìn xuống thì thấy một con heo ủi đất. Thế là trong cái phong vận tiêu tao của tuế nguyệt, một khi trời đất mở ra chỉ thấy toàn heo và đất bùn, khi khép lại, chỉ thấy toàn có quỷ.

Trung Hoa có ba người tài: Tiên tài Lý Bạch, Nhân tài Đỗ Phủ, Quỷ tài Lý Hạ. Tiên tài không thấy có sự nghiệp của Nghiêu Thuấn gì hết, mà có Hằng Nga, có Dao Trì, thành ra chỉ có đàn bà và rượu.

Nhân tài thì có cười có khóc; có sao hôm sao mai.

Quỷ tài chỉ có cái xác chết của vua Thuấn và những bài ca vu vơ của cô gái mọi thôi sao?

Nhưng có thể chắc chắn là không có mối tư lự não nùng giữa những cái còn cái mất của ngày qua tháng lại. Quỷ mà sống thì cũng đồng như không sống? Chở quỷ một xe? (Kinh Dịch) chẳng khác nào chở cái không hư dạo giữa cõi tuần hoàn có sinh có diệt. Quỷ chỉ biết khóc mà thôi, và tiếng khóc của nó làm cho người ta sợ hãi thực. Biết sợ như thế rồi sau đó mới biết cười và biết nghêu ngao trong Du hí tam muội. Tóc trắng da mồi là tinh thể của Du hí tam muội: Bạch phát thương nhan, chính thị Duy ma cảnh giới (Tô Đông Pha). Nơi cõi đó có một mùa xuân vĩnh cửu kết tụ thành bụi phân hoa liễu:

Chi thượng liễu miên suy hựu thiểu
Thiên nhai hà xứ vô phương thảo
(Tô Đông Pha)

Sự kết tụ ấy đã khơi mở một nguồn suối tuôn trào, thành một niềm tương ứng vừa gần gũi vừa xa xôi của kẻ ở góc biển này và người ở chân trời nọ:

Ngồi kể lại chuyện ngày xưa cũ kỹ
Em không nghe vì anh cũng không nghe
Hồn hoa phấn xông hương sầu dị dị
Tóc vàng tơ tỉ mỉ ngón tay đè
Vì ngọc trắng cát lầm thu xiêu lệch
Gió băng trời xin thổi bụi bay theo
Ngàn xuân rộng vô ngần trong bóng nguyệt
Đầu xanh em tư lự suốt sông đèo
(Bùi Giáng – Mưa Nguồn)

Vì sự bức bách của nóng và lạnh, cho nên cái chuyện chưa từng xảy ra, bỗng chốc đã trở thành cũ kỹ. Từng ngày từng ngong ngóng buổi chiều để đi suốt qua một cánh đồng cỏ, ghé mắt trông chừng bóng liễu rũ. Trời sáng người làm quỷ, trời tối quỷ làm người. Người và quỷ cứ gây phiền muộn mãi cho nhau đến thế thì thôi.

Nước non cách mấy buồng thêu
Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng

Trong buồng thêu đầy những mối mọt. Chúng không còn tham lam đắm đuối vật vờ với mùi giấy mùi mực của đống sách này chồng lên đống sách nọ như nấc thang dài vô tận đưa thẳng lên trời. Bây giờ chúng mê mẩn tâm thần chết lên chết xuống với cái mùi vị hương nồng của tóc cũ tóc mới, từ tóc ngắn chấm vai cho đến tóc dài chấm gót chân đó, chấm đến một vùng đất bạc.

Đứng mãi đây hay đi? Và đi đâu để đạp lên miền tương ứng? Tương ứng của xa vời trong gang tấc và của gang tấc trong xa vời? Hay một lần từ giã chỗ đứng đó để mà đi tức là đi mãi, đi cho biết hết cõi sinh tồn, hết cõi hủy diệt?

Gác kinh viện sách đôi nơi.
Trong gang tấc là gấp mười quan san.

Câu chuyện sau đây nghe được từ sau tấm vách của một gia đình nọ.

Cái gia đình ấy không tối nào mà vắng tiếng to tiếng nhỏ. Họ là hai anh em ruột thịt. Bằng cái tuổi ấy, nếu không nhịn được, ai cũng có quyền lập gia đình riêng, tội gì mà phải gắn bó, rồi chung đụng để cứ gây phiền toái cho nhau hoài. Họ làm phiền nhau thì có, mà làm phiền hàng xóm thì không. Bởi vì, dù họ có cãi nhau thực đấy, nhưng nghe rành rõi; không vội vàng gay gắt.

– Sao chú không bảo nó xéo đi nơi khác, thế có hơn không?

– Có gì mà phiền? Hắn đến đó vì chuyện riêng của hắn, can dự đến ai.

– Ừ, thì đã can dự gì đến ai. Sao chú không lấy mắt của chú treo lên trên cành cây mà nhìn nó có hơn không? Tội gì mà thấp thỏm trông chừng./.

Tuệ Sỹ

Mười huyền môn trật tự của thế giới trong tương quan vô tận


Nguồn: Thư Việt Phật Việt