Tuesday, December 12, 2023

Buddhistdoor Global | Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Các thế hệ Phật tử của chúng ta—Tăng thân Zoomer | Our Buddhist Generations—the Zoomer Sangha

 


Thay cho lời vào bài: Nếu đã trải qua một khoảng thời gian khó khăn đủ dài, có khi khốc liệt, nhưng vẫn kham nhẫn tận tụy với công việc, thì đó không còn là vấn đề của thử thách, mà là hạnh nguyện. Như vàng được đem đi nung chảy, để xác định là vàng thật. Từ Huệ Vũ Thị Mỹ Hạnh – huynh trưởng GĐPT – là hình ảnh như vậy. Nếu năm xưa Gia Đình Phật Tử là lò luyện, thì hôm nay Bodhi Youth Of Academy – một mô hình giáo dục tuổi trẻ Phật giáo cộng đồng – là môi trường để tỏa sáng.

Tôi ghé lại tu viện Đại Bi trưa Chủ Nhật để được nghe thấy tiếng cười rộn ràng của đàn em thơ, và khuôn mặt rạng ngời của ba Thầy-Trò Từ Huệ. Cả ba đứng trước các em như những tấm gương, tương chiếu cho nhau để làm thành những giây phút hạnh phúc. Các cháu cười, Thầy Cô cười!

Sự bền bĩ để nuôi dưỡng một cơ sở vật chất đã là khó. Giáo dưỡng chừng ấy các em nhỏ ở độ tuổi của thế hệ Z tất phải trang bị cho mình đủ những kiến thức chuyên môn, chuyên nghiệp và, trên hết một lòng từ mới có thể kiên nhẫn hoàn thành tâm nguyện.

Từ trong khốn khó tài vật để duy trì cơ sở, tổ chức nhân sự, tự thân Từ Huệ vẫn tìm ra lối thoát, duy nhất, chính là niềm hạnh phúc nơi các em.

Các em hạnh phúc, Thầy Cô được hạnh phúc!

*

Năm 1966, Thầy Nhất Hạnh ra mắt tác phẩm Nói với tuổi hai mươi, viết riêng cho giới trẻ. Vào thời điểm đó, đối tượng của Thầy sẽ là thế hệ baby boomer. Bất luận về những xung đột ngày nay giữa các thế hệ, lời khuyên của Thầy Nhất Hạnh dành cho những người thuộc thế hệ bùng nổ dân số sẽ có giá trị ngay hiện tại trong một viễn ảnh dành cho nhóm nhân khẩu học đã đến tuổi trưởng thành, Thế hệ Z:

“Chúng ta có mặt hôm nay vì chúng ta nhận thức được hoàn cảnh xã hội của mình. Chúng ta không muốn sống trong ảo tưởng hay chết trong ảo tưởng. Chúng ta phải nổi dậy chống lại những thế lực dẫn đến một cuộc sống vô nghĩa và ảo tưởng. Bí quyết là biết cách nổi loạn. Có nhiều cách nổi loạn chỉ tạo thêm trói buộc và đau khổ. Tuy nhiên, có những cách nổi loạn có thể mang lại cho chúng ta sự tự do thực sự”. (Thức tỉnh)

Thế hệ Z kết nối nhiều hơn, tự hiện thực hóa và cởi mở hơn. Họ cũng nằm trong số những thế hệ ít tôn giáo nhất cho đến nay. Nếu được xem xét một cách thấu đáo và cởi mở, xu hướng này có thể mang lại những hiểu biết sâu sắc cho các nhà lãnh đạo và giáo viên Phật giáo về cách điều chỉnh tốt nhất công việc phụng vụ và truyền bá Phật pháp của họ theo cách phù hợp và kịp thời cho Thế hệ Z.

Gen Z — những người sinh từ cuối những năm 1990 đến đầu những năm 2000 — đại diện cho tương lai trong việc định hình các xu hướng văn hóa toàn cầu và cho chúng ta cái nhìn thoáng qua về tương lai sẽ như thế nào. Kể từ COVID-19, đã có lý do thực sự cho việc sử dụng “Zoomer” như một từ hấp dẫn để dễ tham khảo—Zoomer nên được xác định bằng tốc độ tăng tốc vượt bậc của các công nghệ đã trở thành dấu ấn văn hóa, chẳng hạn như Zoom, Facebook, Instagram và TikTok .

Công nghệ ngày càng dễ sử dụng và tiện lợi đã nhanh chóng chi phối cách mọi người giao tiếp và tương tác, đặc biệt kể từ năm 2007, khi iPhone ra mắt. Những người Zoomers lâu đời nhất sẽ là 10. Những người sinh sau năm 1996 thậm chí không có thời gian thích nghi với Internet băng thông cao, WiFi có mặt khắp nơi và giải trí theo yêu cầu, không giống như Millennials. Cùng với một sự kiện định hình thế hệ khác, cuộc khủng hoảng kinh tế ở Mỹ năm 2008 và cuộc Đại suy thoái (và nhiều dư chấn còn vang vọng cho đến ngày nay), một mô hình mới đã xuất hiện: “mọi người không chỉ có quyền mà còn có nghĩa vụ lựa chọn thế giới quan của riêng họ.” Phương tiện truyền thông xã hội và công nghệ di động có thể đã định hình sự tương tác giữa con người và bản sắc cá nhân của Zoomers, nhưng triệt để hơn nữa là sự gia tăng của chủ nghĩa đa nguyên tôn giáo trùng lặp với chủ nghĩa phổ quát[1] và chủ nghĩa lâu đời[2].

Những viễn cảnh có vẻ khó hiểu ngoại trừ những người trong cuộc, những “hashtag-#” tự giới thiệu, những người có ảnh hưởng — đây là thế giới của Zoomer và bản thân tôn giáo đang trở thành một phần của hệ sinh thái công nghệ này. Sự xa lánh, hoài nghi và nỗi sợ hãi về một tương lai không chắc chắn không phải là những điều ngoại lệ đối với trải nghiệm Zoomer mà là cốt lõi của trải nghiệm đó.

Như một tác giả đã lập luận một cách đúng đắn, mặc dù COVID-19 có tác động lớn như vụ 11/9 đối với thế hệ Millennials hay Việt Nam đối với thế hệ bùng nổ trẻ em, nhưng các thế hệ không nên được xác định bởi những thảm họa ở thời đại của họ mà thay vào đó là cách họ định hình thời đại của họ: “Điều đó phù hợp với một nhóm thuần tập sớm sử dụng mạng xã hội để truy cập vào các diễn đàn và tổ chức do các chính khách lớn tuổi kiểm soát từ lâu — và thể hiện cách họ muốn được nhìn nhận.” (NBC news) Thẩm quyền tôn giáo chắc chắn bị suy giảm khi đối mặt với mô hình này. Trách nhiệm không còn thuộc về giới trẻ phải run rẩy và vâng lời một cách nhu mì mà là các nhà lãnh đạo tôn giáo phải “điều trần” và “hùng biện” trước những khán giả Zoomer đầy hoài nghi. Nếu không ấn tượng, họ sẽ chỉ “vuốt sang trái”[3].

Phật giáo, kể từ khi truyền bá ở phương Tây, thường tự đóng khung mình không phải là một giáo hội trực tiếp thay thế cho Cơ đốc giáo, mà là một mô hình mới để suy nghĩ nhiều ề cách tiếp cận cuộc sống hơn là một tôn giá. Sự hình thành kinh nghiệm Phật giáo phương Tây của các nhà hoằng pháp – một sự cân bằng hai chiều giữa Phật giáo như một triết lý kinh nghiệm và sự thệ nguyện – đã tương ứng với sự suy tàn của thể chế Cơ đốc giáo ở Hoa Kỳ. Ngày nay, Zoomers là thế hệ phi tôn giáo nhất: “Khoảng một phần ba không có tôn giáo—tỷ lệ tương đương với thế hệ Millennials—so với 23%, 17% và 11% tương ứng ở Thế hệ X, thế hệ bùng nổ trẻ em và Thế hệ thầm lặng.” Tuy nhiên, đây là phép tính nhân khẩu học dựa trên liên kết của tổ chức. Quan tâm đến mục đích cao hơn hoặc ý nghĩa lâu dài trong cuộc sống, trong khi một định nghĩa rộng hơn đáng kể, lại bao gồm các mối quan tâm về tôn giáo.

Kết quả từ Dự án iGen của Đại học Stanford dường như phản ánh sự phân định tôn giáo của Zoomer thành hai khía cạnh: sự thờ phượng có tổ chức và các giá trị cá nhân. Zoomers không xác định được yếu tố đầu tiên, cho thấy sự nghi ngờ ngày càng tăng về liên kết của tổ chức. Nhiều người cho rằng việc thờ phượng có tổ chức thường mâu thuẫn với các giá trị cá nhân của họ. Tôn giáo mang một sắc thái tích cực rõ rệt hơn đối với Zoomers nếu quan điểm chính trị, xã hội và văn hóa của một tổ chức tôn giáo phù hợp với các giá trị của họ. Thông thường, những giá trị này phản ánh quan điểm tự do, chẳng hạn như đánh giá cao sự đa dạng sắc tộc, bình đẳng giới, chấp nhận các xu hướng tình dục khác nhau và tính linh hoạt của giới tính. Thế hệ Zoomers đang tắm mình trong một nền văn hóa bao dung và kết nối, đồng thời mong đợi truyền thống đức tin của họ sẽ phản ánh trở lại nền văn hóa này. Nếu không có sự đảm bảo như vậy, Zoomers sẽ nhanh chóng từ bỏ một giáo đoàn hoặc tăng đoàn.

Chủ nghĩa tư tưởng của Zoomer về sự lựa chọn cá nhân, sự tự hiện thực hóa và thể hiện bản thân đã “cá nhân hóa” tôn giáo, tích cực hơn và cũng có tiêu cực hơn. Sự năng động là một phần của cách tiếp cận cuộc sống-và-để-sống phản ánh những lý tưởng của chủ nghĩa tự do và lòng khoan dung: “thế hệ này [có] một thực đơn phong phú để lựa chọn, một phần nhờ vào Internet. Họ duyệt qua những gì được cung cấp và đôi khi lắng nghe các nhóm khác nhau trước khi tham gia và đưa ra các cam kết của mình, trực tuyến hoặc ngoại tuyến. Họ đang tìm kiếm thứ gì đó có ý nghĩa, thứ gì đó phù hợp. Nếu không thành công, họ có thể đi tiếp.”

Trong tác phẩm Nói với tuổi hai mươi lăm, thông điệp của Thầy Nhất Hạnh gửi đến những người thuộc thế hệ bùng nổ tuổi trẻ của ông phản ánh những ưu tiên được trình bày trong cái mà Zoomers ngày nay gọi là “danh tính tự chọn” thay vì “gán”:

“Tôi không muốn biến bạn thành một ‘Phật tử hoàn hảo’. Tôi cũng không yêu cầu bạn từ bỏ niềm vui của tuổi trẻ. Đúng hơn, tôi muốn thấy bạn tự do, tự do phát triển và chạm tới hạnh phúc thực sự… Hãy nghiên cứu tôn giáo của bạn một cách thông minh, với tất cả chiều sâu và vẻ đẹp của nó để nó có thể nuôi dưỡng đời sống tâm linh của bạn. Một tôn giáo lành mạnh là một tôn giáo sống động. Nó phải có khả năng phát triển và học cách ứng phó với những khó khăn của thời đại chúng ta. Gặp gỡ bạn bè từ các tôn giáo khác. Hãy mở lòng với nhau và học cách làm việc cùng nhau. Làm việc với mục đích trong sáng là phục vụ mọi người chứ không phải để mở rộng quyền lực và ảnh hưởng của nhóm của bạn. Tôn giáo phải phục vụ nhân loại chứ không phải tôn giáo nhân loại. Đừng để ai phải chịu đau khổ hay mất mạng vì tôn giáo. (Thức tỉnh)

Bằng những lời lẽ ấm áp và khéo léo này, Thầy Nhất Hạnh phản ánh trực tiếp những mối quan tâm về đức tin của Zoomers: sự thừa nhận vai trò của cơ quan tự do và sự lựa chọn trong con đường tôn giáo, việc nhận ra một “bản sắc tự chọn” phù hợp và mang tính cá nhân mạnh mẽ, và việc bình thường hóa thẩm quyền đặt câu hỏi – bao gồm cả đạo sư hoặc người thầy của ai đó. Trong số các truyền thống tín ngưỡng đa dạng của phương Tây, Phật giáo có vị trí thuận lợi để áp dụng tầm nhìn nhân ái và yêu thương của Thầy Nhất Hạnh, điều dường như ở vị trí lý tưởng để thu hút trực tiếp đến thế hệ trẻ nhất này.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là quyền lực là không liên quan và tỷ lệ trầm cảm và tình trạng cảm xúc cao ở Thế hệ Z có thể một phần là do sự phân hóa cá nhân, sự tách biệt khỏi cộng đồng và sự loại bỏ toàn bộ “truyền thống”. Song, truyền thống sẽ không còn hoạt động theo hệ thống phân cấp một chiều để truyền tải cho giới trẻ, mà gần như là một phép biện chứng trong đó cả hai bên đều phát triển vì lợi ích của nhau.

Zoomers trên danh nghĩa tin tưởng vào hành trình cá nhân và sự tự hiện thực hóa của mọi người. Họ cũng cảm thấy xa lạ và không tin tưởng vào các cấu trúc quyền lực truyền thống, từ chính trị, truyền thông kế thừa đến tôn giáo, hơn bất kỳ thế hệ nào khác. Nhiều người ủng hộ sasana[4] Phật giáo ngày nay đủ khiêm tốn để chấp nhận rằng các quy tắc của trò chơi đã thay đổi, từ Phật giáo nhân văn sang Phật giáo nhập thế, và ngay cả những mô hình tư tưởng Phật giáo thích ứng, phù hợp với từng thời kỳ này cũng đang phát triển cho một thế giới hậu COVID.

_____________________

[1] Chủ nghĩa phổ quát là khái niệm triết học và thần học cho rằng một số ý tưởng có tính ứng dụng hoặc khả năng áp dụng phổ quát. Niềm tin vào một chân lý cơ bản là một nguyên lý quan trọng khác của thuyết phổ quát.
[2] Chủ nghĩa lâu năm coi trọng kiến thức vượt thời gian. Đây là một triết lý lấy chủ đề làm trung tâm. Mục tiêu của một nhà giáo dục theo chủ nghĩa lâu năm là dạy học sinh suy nghĩ hợp lý và phát triển những bộ óc có thể tư duy phản biện.
[3] Thấy không hấp dẫn
[4] Śāsana (tiếng Phạn: शासन, śāsana; tiếng Pali: sāsana) là một thuật ngữ Phật giáo chỉ triết lý và thực hành của họ. Nó có thể được dịch là giảng dạy, thực hành, kỷ luật, giáo lý và “lời dạy của Đức Phật”. Vì trong Phật giáo không có thần thánh nên Śāsana được coi là cách mô tả chính xác hơn “tôn giáo” vì nó tránh được hàm ý về một lời kêu gọi thiêng liêng không thay đổi từ một vị thần toàn tri.

* Ảnh: Buổi tu học, sinh hoạt phát chứng chỉ của trường Phật giáo Trường Thiếu Nhi Bồ Đề do Trưởng Từ Huệ Vũ Thị Mỹ Hạnh điều hành đã hơn 15 năm.

Buddhistdoor View:
Our Buddhist Generations—the Zoomer Sangha

By Buddhistdoor Global

In 1966, Thich Nhat Hanh published a book called Nói với tuổi hai mươi, written specifically for young people. At that time, his target audience would have been the baby boomer generation. Despite today’s narrative of inter-generational conflict, Thich Nhat Hanh’s advice for baby boomers would be right at home in a meme for the demographic cohort now coming of age, Generation Z:

We are here today because we are aware of the situation in our society. We do not want to live in illusion or die in illusion. We must rebel against the forces that lead to a meaningless and illusory life. The secret is knowing how to rebel. There are ways of rebelling which only create more bondage and suffering. However, there are ways of rebelling that can offer us real freedom. (Wake Up)

Generation Z is more connected, self-actualizing, and open-minded. They are also among the least formally religious generations to date. If thoughtfully and sympathetically examined, this trend can offer insights for Buddhist leaders and teachers on how to best tailor their pastoral and Dharma work in a way that is relevant and timely for the Gen Z.

Gen Z—those born between the late 1990s and early 2000s—represent the future in shaping global cultural trends and giving us a glimpse of what the future might look like. Since COVID-19, there has arisen a true justification for using “Zoomer” as a catchy word for easy reference—Zoomers should be defined by the stratospheric acceleration of technologies that have become cultural markers, such as Zoom, Facebook, Instagram, and TikTok.

Increasingly easy-to-use and convenient technology has rapidly dominated how people communicate and interact, especially since 2007, when the iPhone was launched. The oldest Zoomers would have been 10. Those born after 1996 didn’t even have a period of adjustment to high-bandwidth internet, omnipresent WiFi, and on-demand entertainment, unlike Millennials. Along with another generation-defining event, the 2008 American sub-prime mortgage crisis and the Great Recession (and the many aftershocks that reverberate to this day), a new paradigm has emerged: “everyone has not just a right but a duty to choose their own worldview.” (Pacific Standard) Social media and mobile technology might have shaped Zoomers’ human interactions and personal identities, but even more radical is the acceleration of religious pluralism that overlaps with universalism and perennialism.

Memes that might seem unintelligible except to insiders, self-referential hashtags, influencers—this is the world of the Zoomer, and religion itself is becoming a part of this technological ecosystem. Alienation, cynicism, and fear of an uncertain future are not outliers to the Zoomer experience, they are core to it.

As one author rightly argues, despite COVID-19 making as much of an impact as 9/11 did on Millennials or Vietnam on baby boomers, generations should not be defined by the disasters of their age, but rather by how they shape their era: “That’s appropriate for a precocious cohort that uses social media to catapult into forums and institutions long controled by elder statesmen—and to write the narrative about how they want to be perceived.” (NBC news) Religious authority is inevitably diluted in the face of this paradigm. The onus is no longer on the young to meekly tremble and obey, but on religious leaders to “pitch” and “audition” their tradition to a sceptical Zoomer audience. If they are not impressed, they will simply “swipe left.”

Buddhism, since its diffusion in the West, has commonly framed itself not as a direct church alternative to Christianity, but as a new paradigm of thinking more about an approach to life than strictly a religion. The shaping of the Western Buddhist experience by Dharma leaders—an ambivalent balance between Buddhism as experiential philosophy and formal commitment—has corresponded with the decline of institutional Christianity in the US. Today, Zoomers are the most non-religious generation: “About one third have no religion—about the same proportion as among Millennials—compared with 23 per cent, 17 per cent, and 11 per cent among, respectively, Generation X, baby boomers, and the Silent Generation.” (Pacific Standard) However, this is a demographic calculation based on institutional affiliation. Interest in a higher purpose or lasting meaning in life, while a considerably broader definition, does encompass religious concerns.

Results from Stanford University’s iGen Project seem to reflect the Zoomer bifurcation of religion into two aspects: organized worship and personal values. Zoomers do not identify with the first, displaying increasing suspicion of institutional affiliation. Many see organized worship as too often conflicting with their personal values. Religion takes on a distinctly more positive tone for Zoomers if the political, social, and cultural positions of a religious institution is in concord with their values. Commonly, these values reflect liberal views, such as an appreciation for ethnic diversity, gender equality, acceptance of different sexual orientations, and gender fluidity. Zoomers are immersed in a culture of tolerance and connectivity, and expect their faith tradition to reflect this culture back. Without such an assurance, Zoomers will quickly abandon a congregation or sangha.

The Zoomer zeitgeist of individual choice, self-actualization, and self-expression has “personalized” religion, for better and for worse. The dynamic is part of a live-and-let-live approach to life that mirrors the ideals of liberalism and tolerance: “this generation [has] a vast menu to choose from, thanks in part to the Internet. They browse what’s on offer and sometimes listen in on different groups before they get involved and make their commitments, online or off-. They are looking for something meaningful, something that fits. If it doesn’t work out, they can move on.” (Pacific Standard)

In Nói với tuổi hai mươi, Thich Nhat Hanh’s message to the boomers of his youth mirrors the priorities that are reflected in what today’s Zoomers call “elective identities” rather than “ascribed” ones:

I don’t want to make you into a “perfect Buddhist.” Nor do I ask you to give up the joys of youth. Rather, I want to see you free, free to grow and touch real happiness. . . . Study your religion intelligently, in all its depth and beauty, so that it can nourish your spiritual life. A healthy religion is a living religion. It should be able to evolve and learn to respond to the difficulties of our time. Meet with friends from other religions. Open your hearts to one another and learn to work together. Work with the pure intention to serve people, and not to expand the power and influence of your own group. Religion must serve humanity, not humanity religion. Don’t let anyone suffer or lose their life in the name of religion. (Wake Up)

In these warm and wise words, Thich Nhat Hanh directly reflects the faith concerns of Zoomers: the recognition of the role of free agency and choice in a religious path, the realization of an intensely personal, tailored “elective identity,” and the normalizing of questioning authority—including one’s guru or preceptor. Among the West’s diverse faith traditions, Buddhism is well-placed to apply the kind and loving vision of Thich Nhat Hanh, which seems ideally positioned to appeal directly to this youngest of generations.

This is not to say that authority is irrelevant, however, and the high rates of depression and emotional conditions in Gen Z could be partially attributed to the atomization of the individual, the unmooring of community, and the wholesale discarding of “tradition.” Nevertheless, tradition will no longer operate in a one-way hierarchy of transmission to the young, but rather almost as a dialectic in which both sides grow for the benefit of each other.

Zoomers nominally believe in everyone’s personal journey and self-actualization. They also feel more alienated and distrustful of traditional authority structures, from politics to legacy media to religion, than any other generation. Many supporters of the Buddhist sasana today are humble enough to accept that the rules of the game have changed, from humanistic Buddhism to engaged Buddhism, and even these adaptive, period-relevant patterns of Buddhist thought are evolving for a post-COVID world.


Huệ Trí Nguyễn Gia Hải: 3 Bài Học Lãnh Đạo Vượt Thời Gian Từ Thầy Nhất Hạnh: Bậc Thầy Tình Thương | 3 Timeless Leadership Lessons from Thich Nhat Hanh: A Master of Love

 

Thầy, như được biết đến, là một Thiền sư, một nhà lãnh đạo tinh thần toàn cầu và nhà hoạt động vì hòa bình, nổi tiếng với những lời dạy ý nghĩa về Phật giáo nhập thế và những bài thực tập về chánh niệm và an lạc.

Thầy cũng là mẫu mực của sự lãnh đạo thời hiện đại, một người coi tình thương là lý tưởng của cuộc sống và sự nghiệp của mình. Sự lãnh đạo lấy tình yêu làm trung tâm, như Thầy đã làm thúc đẩy các giải pháp bất bạo động nhằm giải quyết xung đột và nâng cao nhận thức về mối tương sinh quan của tất cả chúng sinh. Di sản của Thầy để lại, mời gọi chúng ta làm sáng tỏ những niềm tin và nguyên tắc chỉ đạo trong hành động tự giác và giác tha.

3 bài học lãnh đạo nổi bật từ Thầy

  1. Hãy thực hành tính hòa nhập. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận mọi người, kể cả những ai đối lập, cạnh tranh khốc liệt nhất của bạn. Hãy cho tất cả cơ hội thành công và sống bình yên như bạn hằng mong ước. Hãy hỏi: “Làm thế nào chúng tôi có thể giúp bạn tận hưởng sự bình an? Vui lòng nói với chúng tôi.”
  2. Hãy chấm dứt bạo lực trong suy nghĩ của bạn. Khi bạn nhận ra mầm mống bạo lực bám rễ trong suy nghĩ, niềm tin, lời nói và hành động của mình, bạn có thể thức tỉnh và trở nên khác biệt. Hãy hỏi: “Tôi có nghĩ rằng để sinh tồn, phải đấu tranh (cạnh tranh) không? Tôi có muốn đè bẹp đối thủ cạnh tranh của mình để chiếm lĩnh vị trí, hay ảnh hưởng?”
  3. Hãy là chính mình (Hải đảo tự thân). Đừng lệ thuộc mọi thứ bạn đã học được từ các nguồn bên ngoài. Mục đích duy nhất của chúng ta là đánh thức sự vô minh, thèm muốn, nỗi sợ hãi của mình và tìm thấy sự giác ngộ ngay tại đây, ngay trong thời điểm hiện tại. Hãy hỏi: “Tôi là ai mà không bị đồng nhất với bất cứ người khác hay bất cứ điều gì?”

___________________

* Bài viếdựa theo “The Amare Wave” –  Moshe Engelberg

Monday, December 11, 2023

Bửu Thành Phan Thành Chinh: Sự Lãnh Đạo Từ Lời Khuyên Của Đức Đạt Lai Lạt Ma | Leadership Lessons from the Dalai Lama


Bài học lãnh đạo từ Đức Đạt Lai Lạt Ma, một nhà lãnh đạo tinh thần lưu vong của Tây Tạng đã nêu bật tầm quan trọng của tinh thần đồng đội, năng lượng tiến và ý nghĩa thành công. Ở đây chúng tôi chỉ xin tóm tắt các nguyên lý lãnh đạo quan trọng từ những bài giảng của Ngài, và các dòng tweet.

Vào tháng 9, Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần lưu vong 76 tuổi của Tây Tạng đã đưa ra một tuyên bố nhằm giải đáp các câu hỏi về dự định “tái sinh” – hay kế hoạch – của Ngài, đồng thời cho thấy định hướng dài hạn cho hành trình thiêng liêng của mình.

While the Dalai Lama, a Buddhist monk, chose to focus on teachings about compassion and peace, he sounded a lot like a Great Leader preparing to pass the reins. Indeed, effective leadership is an underlying theme through his prolific teachings, which he also tweets about regularly.

Là một tu sĩ Phật giáo, Ngài chọn tập trung vào những lời dạy về lòng từ bi và hòa bình hơn bất cứ điều gì, và có vẻ, như đang chuẩn bị chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm. Thật vậy, khả năng lãnh đạo hiệu quả là một chủ đề cơ bản thông qua những lời dạy phong phú của Đức Đạt Lai Lạt Ma, điều mà Ngài cũng thường xuyên nhắc đến trên Twitter.

“The nature of our motivation determines the character of our work.” – Dalai Lama

Phát triển nhận thức của bạn

Trong thông điệp về Phong cách lãnh đạo nói rõ: để lãnh đạo, bạn phải nhận thức nguyên do hành động của mình. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chia sẻ: “Bản chất động lực của chúng ta quyết định tính chất công việc của chúng ta”. Trong bất kỳ hoạt động nào, điều này có nghĩa là suy nghĩ chín chắn về ý nghĩa tổng quát của bất kỳ mục tiêu nào đằng sau các ý tưởng và hành vi hàng ngày. Nó cũng có nghĩa là luôn nhận thức được không chỉ lợi ích của riêng bạn mà cả lợi ích của tất cả những người bạn đang lãnh đạo. Các buổi thảo luận về ý tưởng, nhận thức trong Tổ chức hay giữa các thành viên là cách để đảm bảo mọi người hiểu và đồng ý với hướng đi mà chúng ta đang điều hành.

In order to ensure your best intentions are consistently applied to your business’s practices, develop a system of regular progress reports and evaluations.

Thiết lập hành vi đúng đắn

Tuy nhiên, việc thiết lập các nguyên tắc hoạt động được chấp thuận rộng rãi vẫn chưa đủ. Muyzenberg chia sẻ: “Tôi thấy rất nhiều Tổ chức có những nguyên tắc chặt chẽ nhưng lại không áp dụng được”. Để đảm bảo những ý định tốt nhất của bạn được áp dụng một cách nhất quán vào thực tiễn, hãy xây dựng và phát triển một văn hóa giải trình và đánh giá tiến độ thường xuyên.

“The leader has to recognize when negative emotions like frustration, impatience, anger, lack of self-confidence, jealousy, greed start to influence his thought processes” – Dalai Lama

Rèn luyện tâm trí của bạn

Đức Đạt Lai Lạt Ma mô tả tâm trí không được rèn luyện giống như một con khỉ nhảy quanh cây, phấn khích và không thể tập trung. Người Phật tử chống lại hoạt động não bộ này bằng cách rèn luyện chánh niệm hoặc thiền định. Ngài khẳng định rằng một tâm trí bình yên, được rèn luyện tốt là điều quan trọng để nâng cao chất lượng suy nghĩ và giảm bớt những xung động phi lý. “Người lãnh đạo phải nhận ra khi nào những cảm xúc tiêu cực như thất vọng, thiếu kiên nhẫn, giận dữ, thiếu tự tin, ghen tị, tham lam bắt đầu ảnh hưởng đến quá trình suy nghĩ của mình.” Trong tác phẩm Con đường của nhà lãnh đạo, Đức Đạt Lai Lạt Ma và Muyzenberg viết: “Những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực này không chỉ có thể dẫn đến những quyết định sai lầm mà còn lãng phí năng lượng của tâm trí.” Các thực tập thiền đơn giản như hít thở sâu, thư giãn cơ bắp và kiểm soát cảm xúc có thể giúp ngay cả những nhà lãnh đạo bận rộn nhất luôn giữ được bình tĩnh.

A happy Organization is a successful Organization. You are more invested in success the more you perceive where it comes from.

Tập trung vào hạnh phúc

Điều gì ở Tổ chức chúng ta khiến mình hạnh phúc? Điều gì làm bạn không vui? Bằng cách hỏi hai câu hỏi đơn giản như vậy, người điều hành có thể khám phá ra cách tốt nhất để động viên thành viên, thu hút thêm cộng sự. Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, hạnh phúc là động lực phổ quát cao nhất. Ngài nói qua Twitter vào tháng 11: “Chúng ta có xu hướng quên rằng bất chấp những khác biệt bề ngoài giữa chúng ta, mọi người đều bình đẳng trong mong muốn cơ bản về hòa bình và hạnh phúc”. Sự hài lòng của thành viên, cộng sự, tập thể, Tổ chức phải được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là hy sinh quyền lợi riêng. Điểm này, Muyzenberg nói: “Một số người nghĩ rằng hạnh phúc là sự đánh đổi để tài vật, nhưng thực tế không phải vậy”“Một Tổ chức hạnh phúc là một Tổ chức thành công. Bạn được đầu tư nhiều hơn vào thành công bằng cách bạn nhận thức nó đến từ đâu.”

The interconnected leader sees himself or herself as the generator of impulses into an interconnected system to realize the purpose of the organization

Trở nên tương thân tương ái với nhau

Phật tử tin vào sự kết nối – ý tưởng cho rằng con người chỉ thực sự tồn tại trong mối quan hệ với những người khác. Một cơ thể tinh thần khổng lồ chỉ hoạt động khi tất cả những kết nối này được hiện thực hóa. Cũng trong Con đường của nhà lãnh đạo,  Đức Đạt Lai Lạt Ma và Muyzenberg viết: “Người lãnh đạo có mối liên kết với nhau coi chính mình là người tạo ra các động lực trong một hệ thống được kết nối với nhau để hiện thực hóa mục đích của tổ chức”. Khi một sự thôi thúc—bất cứ điều gì từ một cuộc trò chuyện, một bài thuyết trình đến một đề án—đến với một cá nhân khác, nó sẽ khơi dậy một ý tưởng và tạo ra một tác động dây chuyền nhằm nâng cao năng suất sáng tạo. Công việc của người lãnh đạo là hướng dẫn và khơi dậy sự thôi thúc giữa các đồng sự. Tuy nhiên, sự liên kết không chỉ với các mối quan hệ trong Tổ chức mà còn với tất cả ch úng sinh trong cộng đồng xã hội, thậm chí cả những ai chưa hiểu và thông cảm, chống đối, quấy phá mình.

Appreciate how rare and full of potential your situation is in this world, then take joy in it, and use it to your best advantage. Every problem has a solution, and having the right attitude from the beginning may help you find it.

Lạc quan lên

Không có gì lạ khi điều hành một Tổ chức thượng tầng hay Đơn vị hạ tầng là khó khăn. Hẳn ai cũng lo lắng về những gì có thể xảy ra và chuẩn bị cho điều tiêu cực nhất. Nhưng thay vào đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma khuyến khích cách tiếp cận một Phật sự lạc quan hơn. “Hãy đánh giá cao nghịch cảnh (hạnh) nhưng đầy tiềm năng của mọi hoàn cảnh và tình huống, sau đó tận hưởng nó và sử dụng nó để tạo lợi thế tốt nhất cho bạn”. Mọi vấn đề đều có giải pháp và việc chọn lựa một thái độ đúng đắn ngay từ đầu có thể giúp chúng ta tìm ra giải pháp.

Lỡ khi mọi việc trở nên khó khăn, hãy nhìn vào tấm gương của Đức Đạt Lai Lạt Ma, một người lưu vong, mất quê hương, nhưng tràn đầy năng lượng tích cực.

 

________________________

  • Written according to the article published in Inc magazine, “Leadership Lessons from the Dalai Lama” by author Drew Gannon. || Written according to the article published in Inc magazine, “Leadership Lessons from the Dalai Lama” by author Drew Gannon.

Friday, December 8, 2023

Trần Trung Đạo: Cuối cùng sông núi gặp nhau

Trần Trung Đạo: Cuối cùng sông núi gặp nhau

Hình Đức Đạt Lai Lạt Ma đón nhận Kỷ yếu Tri Ân

Chiều thứ Bảy tuần rồi, trong Lễ Tưởng Niệm Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, tôi được giao trách nhiệm tường thuật sự hình thành của Kỷ Yếu Tri Ân Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ. Tôi thưa nhiều chi tiết nhưng có một chuyện chưa kịp thưa, đó là làm thế nào Kỷ Yếu Tri Ân Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ lại có thể đến tận tay Đức Đạt Lai Lạt Ma và đến một cách nhanh chóng trong khi nhiều nơi tại hải ngoại chưa có. 

Chuyện rằng, sau thời gian biên tập và in ấn, Kỷ Yếu Tri Ân Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ được hoàn tất vào giữa tháng 11, 2023. Cũng trong thời điểm đó, một phái đoàn tăng ni và Phật tử Việt Nam đang chuẩn bị lên đường hành hương viếng thăm các Phật tích tại Ấn Độ. Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử Tâm Thường Định và cũng là thành viên của Ban biên tập Kỷ Yếu chợt nghĩ ra một sáng kiến rất trang nghiêm nhưng cũng rất dễ thương: Thỉnh Kỷ Yếu Tri Ân Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ cùng lên đường hành hương với chư tăng ni và đồng bào Phật Tử. Một trong những cuốn Kỷ yếu đầu tiên được gói kỹ và trao cho một Thượng tọa trong đoàn hành hương. 

Thay vì gởi tác phẩm theo hành lý, Thượng tọa đã trân trọng cầm Kỷ Yếu lên máy bay. Chuyến đi được chuẩn bị từ trước. Khi rời Mỹ, giống như nhiều triệu Phật tử Việt Nam khác, Thượng tọa cảm thấy rất nặng lòng. Hòa thượng Tuệ Sỹ vừa viên tịch để lại một nỗi buồn chung trong lòng nhiều triệu Phật tử. Vầng trăng tròn Hạ Nguyên vừa khuất sau rặng Hy Mã Lạp Sơn. 

Thượng tọa xuống máy bay nhưng hành lý không xuống. Tất cả đều bị để lại đâu đó trên hành trình dài, ngoại trừ cuốn Kỷ Yếu. 

Thượng tọa đã chuẩn bị mọi thứ lễ nghi cúng dường nếu được đảnh lễ Đức Đạt Lai Lạt Ma nhưng khi đến nơi thì không có gì cả. Vì thế, khi được phép đảnh lễ Đức Đạt Lai Lạt Ma Thượng tọa chọn dâng lên Ngài cuốn Kỷ Yếu Tri Ân Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ thay vì mang theo để tiếp tục cuộc hành hương. 

Thượng tọa giải thích cho các phụ tá của Đức Đạt Lai Lạt Ma biết bức hình trong trang bìa là Trưởng lão Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, lãnh đạo tinh thần cao nhất của Phật Giáo Việt Nam, vừa viên tịch. Đức Đạt Lai Lạt Ma, sau khi được các phụ tá bạch lên ngài, đã xúc động nhận món quà cúng dường đầy ý nghĩa. 

Ngài có lẽ không đọc được tiếng Việt nhưng khi nhìn ánh mắt tinh anh sâu thẳm của thiền sư Việt Nam trong chiếc áo màu nâu đơn giản Ngài cảm nhận ra được đó là một nhà tư tưởng Phật Giáo lớn, không phải riêng của Phật Giáo Việt Nam thôi mà của Phật giáo thế giới nói chung. Ngài nhận cuốn kỷ yếu và hãnh diện giới thiệu đến chư tăng ni Tây Tạng, Việt Nam và đại chúng đang có mặt để cùng xem hình ảnh một bậc cao tăng vừa viên tịch.

Ngày 30 tháng 11, Đức Đạt Lai Lạt Ma gởi điện phân ưu đến Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong đó có viết: “Tôi rất đau buồn khi được biết Trưởng lão Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ vừa viên tịch ở tuổi 81. Tôi xin dâng lời cầu nguyện lên Cố Hòa Thượng và gửi lời chia buồn đến chư Huynh Đệ Pháp Lữ của Cố Hoà Thượng cũng như đông đảo Phật Tử của Ngài. Tôi được biết rằng Cố Trưởng lão Hòa Thượng đã tận tụy cống hiến hết mình để phụng sự tha nhân. Mặc dù Ngài ấy không còn ở bên cạnh chúng ta nữa; nhưng chúng ta cũng cảm thấy được an ủi rằng Cố Trưởng lão Hòa Thượng đã sống một cuộc đời đầy ý nghĩa. Cách tốt nhất mà các môn đệ của Cố Trưởng Lão Hòa Thượng có thể bày tỏ lòng kính trọng đối với Ngài ấy là noi theo tấm gương của Ngài ấy đã cống hiến hết mình để phụng sự tha nhân. Với những lời cầu nguyện chân thành!”

Quyết định dễ thương của Huynh trưởng Tâm Thường Định khi “cung thỉnh Ôn đi hành hương Ấn Độ” và quyết định sáng suốt của vị Thượng tọa chọn dâng Kỷ Yếu lên Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ diễn ra trong khoảnh khắc. Thế nhưng, sợi tơ nhân duyên giữa Đức Đạt Lai Lạt Ma và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ không hoàn thành từ những khoảnh khắc đó mà đã được đan dệt trong hằng hà sa số kiếp. Cánh hoa Đàm vừa nở trong một lần hạnh ngộ của hai Ngài. 

Kỷ Yếu Tri Ân Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ không phải là một tác phẩm lớn về văn chương hay học thuật như nhiều tác phẩm mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đã được tặng trước đây. Thế nhưng Ngài trân quý bởi vì nhờ chiếc cầu nhân duyên đó mà hai Ngài đã gặp nhau.

Hành trạng của hai bậc đại tăng có nhiều điểm giống nhau. Một người lưu vong trên đất khách 64 năm chưa trở về và một người lưu vong trên chính quê hương mình với một án tử hình, 17 năm tù đày và ba lần bị quản thúc. 

Dù bản thân hai Ngài chịu đựng biết bao khó khăn thử thách nhưng thay vì gieo rắc hận thù hai Ngài đã dành hết cả đời để hoằng dương Chánh Pháp của đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni. Mỗi Ngài là tác giả của hàng trăm tác phẩm Kinh Luật Luận uyên thâm bên cạnh tình yêu sâu đậm dành cho dân tộc. Tình thương là ngọn nến không bao giờ tàn.

Hôm nay, hai bậc đại tăng, một vị vừa từ giã quê hương Việt Nam ra đi và một vị còn đang sống lưu vong nơi xứ người. Dù không cùng sinh ra trên một đất nước nhưng cùng mang một đại nguyện vô úy cao dày như Hy Mã Lạp Sơn và một tâm từ bi như nước Sông Hằng cuồn cuộn. 

Cuối cùng, sông núi gặp nhau.

Thị Nghĩa Trần Trung Đạo

Nguyên Túc Nguyễn Sung | Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Người lãnh đạo, bạn là ai? | Who are you?

 

Sự lãnh đạo hiệu quả là nền tảng của bất kỳ tổ chức vững mạnh nào và cách ứng xử hay hành động của các nhà lãnh đạo ảnh hưởng đáng kể đến sự vận hành của tập thể hay tổ chức chúng ta. Xây dựng niềm tim, thể hiện trách nhiệm và cải tiến liên tục không chỉ là lý tưởng, mà đó là điều cần thiết cho sự bền vững và phát triển. Điều này đặt trên vai của “Những nhà lãnh đạo tích cực”, những người đóng vai trò là xây dựng một môi trường, văn hóa hoạt động tràn đầy năng lượng tiến. Ngược lại, “Những nhà lãnh đạo tiêu cực”, bằng những phương pháp không rõ ràng, bị thúc đẩy bởi nỗi sợ hãi và chỉ tập trung vào những lợi ích ngắn hạn, gieo mầm mống cho sự lủng củng và nếu không được kiểm soát, sẽ mở đường cho sự sụp đổ cuối cùng của một tổ chức. Bảng phân tích so sánh về hai phong cách lãnh đạo như trình bày ở đây, ước mong tạo tiền đề cho một cuộc thảo luận về các nguyên tắc lãnh đạo hiệu quả và những cạm bẫy cần tránh.

Những nhà lãnh đạo tích cực, hiệu quả, được đặc trưng bởi sự cởi mở và minh bạch, bằng chứng là họ sẵn sàng chia sẻ lượng thông tin tối đa có thể. Cách ứng xử này tạo ra sự tin tưởng và hòa đồng, vì mỗi thành viên trong nhóm cảm thấy có giá trị, (đồng nghĩa có tiếng nói) khi được cung cấp đầy đủ thông tin. Ngược lại, những Nhà lãnh đạo tiêu cực, có xu hướng bưng bít thông tin, hay chỉ chia sẻ ít ỏi. Điều này thường dẫn đến sự thiếu tin tưởng và văn hóa che đậy khiến cản trở sự cộng tác và cải tiến cần thiết.

Việc sử dụng quyền lực, thông qua quyền hạn một cách tế nhị và thận trọng tạo nên sự khác biệt cho những Nhà lãnh đạo tích cực bằng cách cho thấy rằng họ cân nhắc những tác động từ hành động và quyết định của mình đối với tập thể hay tổ chức có phạm vi rộng lớn hơn. Họ sử dụng quyền hạn như một phương tiện kỹ năng nhằm thay đổi tích cực và tản quyền. Ngược lại, những Nhà lãnh đạo tiêu cực, thường sử dụng quyền lực-quyền hạn một cách thiếu suy nghĩ, cân nhắc, không quan tâm đến tác động tiêu cực mà nó có thể gây ra, dẫn đến văn hóa e ngại và hiềm khích.

Tạo ra một môi trường nơi mà năng lượng tiến có thể phát triển là một dấu ấn khác của Nhà lãnh đạo tích cực. Họ hiểu rằng động lực là yếu tố tiên quyết thúc đẩy tinh thần để mọi thành viên cảm thấy được truyền cảm hứng hầu có thể làm tốt nhất phận sự của mình. Mặt khác, những Nhà lãnh đạo tiêu cực có xu hướng dựa vào áp lực, nỗi sợ hãi và hệ thống nguyên tắc phân cấp nghiêm ngặt, điều này vốn chỉ dẫn đến một tập thể mất động lực và chỉ hoạt động dựa trên sự tuân thủ máy móc hơn là sự gắn kết sinh động.

Nỗi ám ảnh về hiệu suất và thành quả có thể là hợp tình, hợp lý, nhưng Nhà lãnh đạo tích cực sẽ cân nhắc điều này bằng việc tập trung vào các quy trình và con người, đảm bảo cho kết quả sẽ bền vững và đạt được thông qua các kỹ năng lương thiện. Ngược lại, những Nhà lãnh đạo tiêu cực lại quy chiếu vào kết quả bằng bất cứ giá nào, điều này có thể dẫn đến những hành vi phi đạo đức và kiệt quệ.

Thể hiện hành vi kém là điều quan trọng đối với Nhà lãnh đạo tích cựcnhận thức đầy đủ việc xao lãng hành vi thiện nghiệp hay thiếu chánh niệm sẽ làm suy yếu tinh thần đồng đội và tạo tiền lệ tiêu cực. Ngược lại, những Nhà lãnh đạo kém cõi có thể bỏ qua những hành động không phù hợp để đạt kết quả thuận lợi, do đó làm xói mòn các tiêu chuẩn đạo đức và trách nhiệm với tư cách một người dẫn đường.

Những nhà lãnh đạo tích cực cũng thể hiện cam kết bình đẳng trong việc giải trình, phân tích sự thành công và thất bại, học hỏi từ cả niềm đam mê và kỷ luật. Quan điểm cân bằng này thúc đẩy văn hóa cải tiến liên tục. Tuy nhiên, những nhà lãnh đạo tiêu cực có thể tập trung quá nhiều vào những thất bại trong khi che đậy những thành công, điều này có thể tạo ra nỗi sợ thất bại và cản trở việc chấp nhận rủi ro cũng như đổi mới.

Linh động, sẵn sàng điều chỉnh mục tiêu để duy trì động lực là một thế mạnh khác của Nhà lãnh đạo tích cực. Họ đặt ra những mục tiêu đầy thách thức nhưng vẫn có thể đạt được, đảm bảo sự gắn kết của cả nhóm. Ngược lại, Người lãnh đạo tiêu cực có thể đặt ra những mục tiêu ngày càng khó đạt được, gây ra sự thất vọng và cảm giác vô ích giữa các thành viên trong nhóm.

Về trách nhiệm và trách nhiệm giải trìnhNgười lãnh đạo tích cực nói về trách nhiệm như một phần của việc trao hay tản quyền cho nhóm đồng thời khuyến khích tinh thần trách nhiệm phận sự của mỗi thành viên. Song, những nhà lãnh đạo tiêu cực có thể nói về trách nhiệm giải trình theo cách đổ lỗi và tạo ra bầu không khí trừng phạt.

Sự lưu tâm của những Nhà lãnh đạo tích cực khi sử dụng quyền hạn của mình phản ánh cách tiếp cận chu đáo và chiến lược, đảm bảo hành động của họ phục vụ tổ chức và nhân tố. Tuy nhiên, những người tiêu cực có thể sợ mất quyền lực, điều này dẫn đến các chiến thuật tự bảo vệ, gây tổn hại về lâu về dài đến tiền đồ của tổ chức.

Cuối cùng, hiểu biết về chính trị là điều cần thiết đối với bất kỳ nhà lãnh đạo nào, nhưng Nhà lãnh đạo tích cực sẽ điều hướng bối cảnh chính trị để mang lại lợi ích cho tổ chức và sứ mệnh của tổ chức. Ngược lại, những Nhà lãnh đạo tiêu cực có thể sử dụng chính trị để thúc đẩy các mục tiêu cá nhân, thường gây bất lợi cho người khác.

Tóm lại, việc so sánh “Những nhà lãnh đạo tích cực” (xây dựng) và “Những nhà lãnh đạo tiêu cực” (hủy hoại) sẽ làm sáng tỏ thực tế rõ ràng về các triết lý lãnh đạo khác nhau. Với nền tảng là tính minh bạch, hành vi có đạo đức và cách thăng hoa ứng xử với quyền hạn, phương pháp này sẽ thúc đẩy các tổ chức hướng tới một tương lai được đánh dấu bằng sự đoàn kết cao, văn hóa lành mạnh và thành công. Còn không, sẽ sa lầy trong sự mờ ám, xu hướng chuyên quyền và sự cố chấp thiển cận về hậu quả, gây nguy hiểm cho sức sống và tính bền vững của cơ cấu tổ chức.

Rõ ràng, con đường mà các nhà lãnh đạo lựa chọn không chỉ là di sản của họ mà còn là sự thành công hay thất bại của thể chế mà mình lãnh đạo. Vì vậy, việc hiểu những phong cách tương phản này không chỉ là một bài tập học thuật; đây là một phân tích quan trọng đối với bất kỳ tổ chức nào có ý định thúc đẩy một môi trường phát triêển-bền vững.

Who are you?

By: Nguyên Túc Nguyễn Sung

Effective leadership is the cornerstone of any successful organization, and the approach and actions of those at the helm can significantly influence the trajectory of their teams and businesses. A culture of trust, responsibility, and continuous improvement is not only ideal but essential for sustainable success. This embodies “Leaders Who Deliver,” who serve as the architects of a positive and robust organizational environment. In stark contrast stand the “Leaders Who Destroy,” whose methods steeped in secrecy, driven by fear, and focused on short-term gains sow the seeds of dysfunction and, if unchecked, pave the way to an organization’s ultimate downfall. This dichotomy of leadership styles sets the stage for a discussion on the principles of effective leadership and the pitfalls of its absence.

Leaders Who Deliver are characterized by their openness and transparency, as evidenced by their willingness to share the maximum amount of information possible. This approach breeds trust and inclusivity, as team members feel valued and informed. In contrast, Leaders Who Destroy tend to withhold information, sharing only the bare minimum required. This often leads to a lack of trust and a culture of secrecy that can stifle collaboration and innovation.

Mindful and vigilant use of power sets Leaders Who Deliver apart by showing that they consider the implications of their actions and decisions on their team and the broader organization. They wield power as a tool for positive change and empowerment. Conversely, Leaders Who Destroy often wield power thoughtlessly, without regard for the negative impact it may have, leading to a culture of fear and resentment.

Creating an environment where motivation can flourish is another hallmark of Leaders Who Deliver. They understand that motivation is intrinsic and foster an environment where employees feel inspired to do their best work. On the other hand, Leaders Who Destroy tend to rely on pressure, fear, and strict hierarchy, which can lead to a demotivated workforce that operates on compliance rather than engagement.

The obsession with performance and results can be positive, but Leaders Who Deliver balance this with a focus on processes and people, ensuring that results are sustainable and achieved through ethical means. In stark contrast, Leaders Who Destroy have a myopic emphasis on results at any cost, which can lead to unethical practices and burnout.

Addressing poor behavior is crucial for Leaders Who Deliver. They understand that condoning poor behavior for the sake of results undermines team morale and sets a negative precedent. In comparison, Leaders Who Destroy may overlook inappropriate actions if the outcomes are favorable, thus eroding ethical standards and accountability.

Leaders Who Deliver also demonstrate an equal commitment to analyzing successes and failures, learning from both with passion and discipline. This balanced view fosters a culture of continuous improvement. Leaders Who Destroy, however, may dwell on failures excessively while glossing over successes, which can create a fear of failure and stifle risk-taking and innovation.

The willingness to adjust goals to maintain motivation is another strength of Leaders Who Deliver. They set goals that are challenging yet achievable, ensuring team engagement. Conversely, Leaders Who Destroy may set increasingly unattainable goals, causing frustration and a sense of futility among team members.

Regarding responsibility and accountability, Leaders Who Deliver talk about responsibility as part of empowering their teams and encouraging ownership of work. Leaders Who Destroy, however, may talk about accountability in a way that assigns blame and creates a punitive atmosphere.

The mindfulness of Leaders Who Deliver when using their power reflects a thoughtful and strategic approach, ensuring that their actions serve the organization and its people. Those who destroy, however, may be frightened of losing their power, which can lead to self-preservation tactics that harm the organization’s long-term health.

Lastly, understanding politics is necessary for any leader, but Leaders Who Deliver navigate the political landscape to benefit the organization and its mission. In contrast, Leaders Who Destroy may use politics to advance personal agendas, often at the expense of others.

In conclusion, comparing “Leaders Who Deliver” and “Leaders Who Destroy” brings to light the stark realities of differing leadership philosophies. With its foundation in transparency, ethical conduct, and a nurturing approach to power, the former drives organizations toward a future marked by high engagement, robust culture, and stellar performance. The latter, mired in opacity, autocratic tendencies, and a short-sighted fixation on results, risks the vitality and sustainability of the organizational fabric.Clearly, the path chosen by leaders is not only their legacy but also the success or failure of the institutions they guide. Therefore, understanding these contrasting styles is more than an academic exercise; it is a critical analysis for any organization intent on fostering a resilient and thriving environment.