Monday, March 4, 2019

THIỀN CHÁNH NIỆM ĐẠO PHẬT VIỆT NAM Ở PHƯƠNG TÂY


THIỀN CHÁNH NIỆM ĐẠO PHẬT
 VIỆT NAM Ở PHƯƠNG TÂY

Phật giáo phương Đông, đặc biệt là Phật giáo Việt Nam, trong gần nửa thế kỷ qua đã mang lại cho con người và xã hội phương Tây một món quà tinh thần đáng quý: Thiền Chánh Niệm (mindfulness meditation).

Chùa Tam Bảo

Sau hai cuộc chiến tranh thế giới và cuộc Chiến tranh Việt Nam, con người đã thấm thía với hoàn cảnh loạn động vể cả thể chất lẫn tinh thần. Chiến tranh liên miên đã đưa nhân loại vào núi xương, biển máu. Với bản tâm náo động, con người hoảng hốt chối bỏ cả chính mình để tự nguyện hay bắt buộc lăn mình vào cuộc chiến. Khi tiếng súng đã im bặt, người ta vẫn còn bị quán tính chi phối, điên đảo nhìn nhau. Nhu cầu “tịnh hoá” trở thành một khát vọng tinh thần để giữ sự cân bằng cho trí óc và lương tri.

Với “bóng đè” chiến tranh còn nặng nề trong ký ức và tâm hồn, con người cần nhu cầu an lạc mà bản chất tĩnh lặng của đạo Phật hiện ra như một đáp án, một con đường hoá giải lý tưởng cho vấn đề.

Hiện nay, sau gần năm mươi năm sống xa quê, những chùa viện Phật giáo của  người Việt Nam sống khắp nơi trên thế giới đạt đến con số nghìn; trong đó, tập trung đông nhất là tại Hoa Kỳ mà đặc biệt là những vùng đông dân cư người Việt.

Tuy nhiên, đã nhiều thập niên đi qua mà số chùa có các Phật tử, thành viên và tham dự viên người bản xứ và nước ngoài đến sinh hoạt thường xuyên chiếm tỷ số còn quá ít. Các chùa Việt Nam thường có số người ngoại quốc đến sinh hoạt lẻ tẻ chừng năm bảy người. Nhưng chùa Việt có số lượng người Mỹ đến sinh hoạt hằng trăm thì tôi mới chỉ thấy được duy nhất lần đầu ở chùa Tam Bảo.

Trong chuyến đi dài ngày “Viếng chùa mùa Xuân”, tôi có dịp đến viếng và tham gia sinh hoạt tại chùa Tam Bảo ở Baton Rouge, tiểu bang Louisiana, Hoa Kỳ. Tối nay, thứ Sáu (1-3-2019) có lớp Thiền Chánh Niệm của chùa dành riêng cho người Mỹ. Được biết là lớp thiền tập nầy được mở ra và sinh hoạt liên tục đã hơn mười năm nay.
 
Lớp Thiền chiều thứ Sáu chùa Tam Bảo

Lớp Thiền Chánh Niệm được tổ chức hằng tuần vào tối thứ sáu lúc 7:30pm và chấm dứt lúc 9:00pm. Tối nay, tôi đã trực tiếp tham dự với gần 80 người khác. Các tham dự viên trong độ tuổi từ 20 đến 60, hầu hết là người Mỹ da trắng. Các học viên được sắp xếp ngồi ngay ngắn trên bồ đoàn ở tư thế bán già. Sau lễ Phật nhẹ nhàng niệm danh hiệp Phật Bổn sư Thích Ca và Bồ tát Quán Thế Âm, thầy trụ trì Thích Đạo Quảng hướng dẫn pháp thoại về đề tài: “Làm thế nào để biến kẻ thù thành bạn” (How to Turn Enemies into Friends) hay làm thế nào để sống có ít kẻ thù và có nhiều bạn hữu.

Thật ra, với những đề tài như thế này thì không có gì mới mẻ
trong xã hội phương Đông cũng như phương Tây. Cái mới ở đây là nhìn qua nhãn quan Phật giáo. Thầy Đạo Quảng có sự khéo léo của một hành giả hơn là diễn giả khi thầy không bị dính mắc vào ngôn ngữ đầy thuật ngữ chuyên khoa của một giáo sư đang giảng dạy môn Tâm Lý Trị Liệu Nhân Văn Hiện Sinh (Existential Humanistic Psychotherapy).

Hôm nay thầy là một “thôn tăng” nói chuyện bình dân bằng ngôn từ trong sáng, dễ hiểu với một tập thể đủ mọi trình độ trong hiện thực đời thường. Sự lãnh hội nội dung đề tài tu học của người tham dự được thể hiện rõ nét qua những lời phát biểu của họ ngay sau bài giảng của Thầy.

Sau buổi sinh hoạt Thiền Chánh Niệm, tôi có dịp hỏi chuyện và trao đổi ý kiến với một số người Mỹ ở nhiều độ tuổi khác nhau từ trong khoá học. Tuy mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau nhưng những điểm chung khiến họ gặp nhau ở nơi này vì họ đều có nhu cầu của một đời sống tâm linh và sự khao khát học những cái mới. Phần đông đều có những vấn đề về đời sống như gia đình xung đột, vợ chồng bất hòa, con cái ra ngoài lề xã hội... nên khi họ được biết đến đạo Phật như là một đạo của Từ bi, Trí tuệ và An lạc thì họ tìm đến để mong có một sự học hỏi, chia sẻ và hoá giải với người thân, với hoàn cảnh và trong tâm hồn của họ.

Không khí nghiêm túc mà cởi mở và vui tươi, phong cách ứng xử nhẹ nhàng mà đầy hỗ trợ, tương kính... trong suốt buổi sinh hoạt hôm nay là những dấu hiệu cụ thể của một buổi tu học thành công.

Sáng nay, tôi có dịp phỏng vấn thầy Đạo Quảng về những yếu tố nào đã khiến cho người ngoại quốc tin tưởng vào các lớp học tọa thiền của chùa viện Phật giáo Việt Nam như trường hợp chùa Tam Bảo, thầy đã có ý kiến rằng:

- Khung cảnh trang nghiêm và thanh tịnh của chùa thường gây sự chú ý và quan tâm đầu tiên của khách thập phương đặc biệt là người ngoại quốc. Chùa Tam Bảo nằm trong khung cảnh thiên nhiên xanh mát của rừng sồi Live Oak Tree trên một diện tích trước sau gần tám mẫu là một lợi điểm về quang cảnh.

- Hình thức thờ phụng trang nghiêm mà đơn giản sẽ không gây cảm giác “phản cảm” cho những người thuộc về các tôn giáo khác mà đặc biệt là người Mỹ phần lớn đều theo đạo Tin Lành, đạo Công Giáo. Thật vậy, trên bàn thờ cũng như ngoài khuôn viên chùa Tam Bảo chỉ có một tượng Đức bổn sư Thích ca và tượng Quán Thế âm bằng thạch cao trắng. Ngoài ra không có những tượng đài khác màu mè như thường thấy ở chùa viện nhiều nơi khác.

- Nhưng quan trọng nhất vẫn là vai trò của người thầy hướng dẫn. Thầy Đạo Quảng là một tiến sĩ ngành Tâm Lý học hiện đang giảng dạy ở đại học Xavier University of Louisiana. Ngoài ra, Thầy cũng là một chuyên viên tham vấn của các trung tâm cai nghiện ở địa phương và dành nhiều thì giờ tham gia các công tác từ thiện xã hội với nhiều cộng đồng dân tộc khác nhau nên có sự quen biết tương đối khá rộng rãi.

Thật ra, khuynh hướng của đạo Phật khẳng định rằng không có một sự thành hình hay thành tựu nào là do một hay vài nguyên nhân đơn lẻ tạo nên cả mà luôn luôn có một sự tổng hợp nhiều điều kiện thường được gọi là “duyên” để tác tạo nên.

Nhân chuyến viếng thăm chùa Tam Bảo người viết xin được ghi lại một vài nét mà mình trực tiếp chứng kiến - mắt thấy tai nghe - với ước mong rằng những chùa viện Phật giáo Việt Nam sẽ là những trung tâm thu hút người ngoại quốc càng đông càng tốt.  Đó là hiện tượng sinh động và điều kiện “ắt có” trên đường giới thiệu văn hoá Phật giáo và hoằng dương chánh pháp.

Chùa Tam Bảo 3-3-2019
Trần Kiêm Đoàn

Sunday, March 3, 2019

QUA CỬA THỊ PHI

Chiều ta - Photo: BXK

Qua cửa thị phi 
Hoàng hôn looang bóng
Lợi danh có gì?


A moment of deep reflection: what is our spiritual legacy?

Friday, March 1, 2019

A Cry of Love

Bình minh trên quê hương Nhơn Lý - ảnh: Donnie Vo

A Cry of Love

The cry of a village
starting from mass tourism
the usual, peaceful dawn, is it a fairy tale now?
The land is alternated as a mountain is smashed apart

The great cry of the beach
has begun
aloud and resounding

and streams filled with tears
also begin to run dry

The cries of sand are sagging
Many things are just disappearing, just like the beautiful sand dunes,
Why, why, and why?

Do not let the monotonous breeze sigh like the North and South winds,
a lonely voice is just not enough, united we are strong.

Oh, my hometown.
forever remembering this hometown

and the motherland.

Đọc tiếng Việt - Tiếng Khóc Yêu Thương ở đây.

Sunday, February 24, 2019

AI ĐỘNG?


Cổng Trúc - Photo: DieuNhan.net

AI ĐỘNG?

Tiếng trúc hò cùng gió
Tiếng phong cầm càng to
Tiếng không lời lớn nhất

Phật cười không so đo!

Tuesday, February 19, 2019

Giới thiệu sách: Hoa Đàm 5 - Phật Giáo với Dân Tộc

Bìa sách - thiết kế bởi Uyên Nguyên, Lotus Media Inc.

THÍCH ÐỨC NHUẬN: 
Người theo Phật giáo sau khi nhận định rõ hai ngã đạo đời chỉ là một. Dù lẽ Ðời là một giai đoạn của lẽ Ðạo, hình thức sinh hoạt của tu sĩ theo Ðạo và hình thức sống của dân chúng vẫn không khác nhau, nhất là cái tinh thần không câu chấp của Phật giáo, đôi khi đã khiến các tu sĩ làm việc đời như những chiến sĩ khi lâm biến.
Ðể giữ vững lập trường Ðạo để giúp việc Ðời, hai nhà cách mạng đạo đức Huỳnh Phú Sổ và Lý Ðông A cũng đã khơi nguồn từ lẽ Ðạo để nhập thếtheo ngã đời, và sẽ xuất thế theo ngã Ðạo khi việc Ðời đã giải quyết xong.
Vị lãnh tụ họ Huỳnh, người sáng lập ra Phật giáo Hòa Hảo và Ðảng Dân Xã đã cương quyết vung bảo kiếm vào đời:
“Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha
đền xong nợ nước thù nhà
Thiền môn trở gót Phật đà nam mô.”

Còn vị thủ lãnh họ Lý, người đã dựng lên học thuyết D.D thắng nghĩa cũng chủ trương tương tự như thủ lãnh họ Huỳnh, là:
“Chèo sang một bến Cực lạc
vớt lấy trăm bể trầm luân
làm tròn giấc mộng tiền sinh ấy
trở lại hang sâu nhập niết bàn”

Những phương pháp tranh đấu cao độ của các nhà lãnh tụ tôn giáo từ ngã Ðạo qua ngã Ðời, hoặc từ ngã Ðời sang ngã Ðạo chứng minh rõ Phật giáo như thế nào rồi.
Riêng đối với những người đã giác ngộ hay chưa giác ngộ chủ trương của Phật giáo, cần lưu ý hành động của mình trước hai ngã Ðạo và Ðời.
a. Khi lâm biến, việc Ðời phải lo trước việc Ðạo. Vì đời có thịnh Ðạo mới hưng. Xã hội có yên việc tu hành mới không bị phá hoại.

b. Lúc bình thường, việc tu dưỡng đạo đức để nâng cao giá trị con người của mỗi người cũng rất cần thiết, dù người đó chỉ hành nghiệp của Bồ Tát mang thân mình ra phụng sự Ðời.
Tại sao vậy?

Vì: “Ðạo Phật là một phương pháp để giác ngộ con người tới chân lý.” Phương pháp đó có thể làm lợi cho tất cả mọi người, chứ không phải chỉ dành riêng cho các tu sĩ trong Phật giáo.
Ðể kết luận, đặt ra vấn đề Minh danh Phật, là nhằm mục đích mở đường cho việc tìm hiểu “Tinh thần Nhân chủ xã hội Phật giáo,” tuy chưa đủ sáng tỏ đối với một giáo lý như giáo lý của Phật. Nhưng, với cái nhìn ở một góc cạnh chính trị về Phật giáo, tưởng cũng không phải là vô ích, đối với phong trào cách mạnh dân tộc hiện nay.


NHẤT HẠNH: Chúng ta đã không biết thừa hưởng những phần quý giá nhất của gia tài tâm linh mà Siddhartha để lại. Đạo Bụt của chúng ta đã hủ hóa, không còn đóng được vai trò như ngày xưa. Chúng ta phải nỗ lực làm mới đạo Bụt để đạo Bụt có thể tiếp tục đóng được vai trò của nó trong việc đem lại an bình cho bản thân, gia đình, đất nước và xã hội. Chỉ thực tập đạo Bụt tín mộ, cả ngày chỉ cúi rạp mình dưới mấy cây hương, chúng ta sẽ không làm được việc đó, chúng ta sẽ không xứng đáng là con cháu của bậc Đại Hùng.

Monday, February 18, 2019

QUAN ÂM QUẢNG TRẦN - Thích Nữ Giới Hương

Sách designed by Uyên Nguyên - Lotus Media, Inc.

THÍCH NHƯ ÐIỂN: Người xưa thường nói rằng: "Học hải vô nhai, cần thị ngạn; thanh không hữu lộ, chí vi thê". Nghĩa là: Biển học không bờ, siêng là bến; trời xanh có lối, chí là thang". Mãi cho đến bao giờ, khi nắp quan tài chưa đậy lại, thì lúc ấy con người mới không cần học hỏi nữa; nhưng nếu con người vẫn còn sống, bắt buộc chúng ta phải học hỏi nhiều điều; nghĩa là: học những gì cần phải học để sự hiểu biết của chúng ta được phong phú hơn.

Vào cuối năm 2017 Ni sư Giới Hương ở Hoa Kỳ có nhờ tôi đọc, chỉnh sửa nếu có những lỗi chính tả cũng như ý của câu văn cho hai quyển sách "Luân Hồi trong Kinh Lăng Nghiêm" và "Quan Âm Quảng Trần". Tôi cũng hơi lo, vì thời gian gấp quá; nhưng quyển trước, tôi đã đọc xong và cũng đã viết lời giới thiệu rồi. Lần nầy nhờ đi Nga với hai nơi là Saint Peterburg và Moscow để dự lễ Khánh Thành chùa Thảo Đường từ ngày 18 đến 30 tháng 10 năm 2017; nên tôi đã lợi dụng cơ hội nầy, ban ngày thực hiện những Phật sự tại địa phương và ban đêm về lo đọc sách, sửa lỗi chính tả và cuối cùng viết lời giới thiệu. Sách nầy dày hơn sách trước; nghĩa là sách có 452 trang, mà tôi phải đọc trong 4 ngày từ 18 đến 22 tháng 10 mới xong, vì lẽ sách có nhiều điểm cần phải quan tâm và chỉnh sửa và hôm nay ngày 22 tháng 10 năm 2017 trên chuyến tàu tốc hành từ Saint Peterburg đến Moscow, tôi đã hoàn thành lời giới thiệu nầy.

Sách có 6 chương. Chương đầu giới thiệu về lịch sử của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát của Việt Nam, Trung Hoa và Đại Hàn theo tinh thần Phật Giáo Đại Thừa; với những câu chuyện tưởng như đơn giản dễ hiểu; nhưng khi vào các chương 2,3,4,5... thì độc giả phải dùng trí lực không ít, vì lẽ Ni sư đã kết hợp tánh nghe của Quan Âm thuộc về Nhĩ Căn Viên Thông để hình thành tác phẩm nầy. Lẽ ra nội dung của tác phẩm nầy liên hệ trực tiếp với Kinh Lăng Nghiêm; nhất là phần 25 Vị Thánh trình bày về sở tu, sở chứng của mình; nhưng Ni sư đã khéo léo kết hợp để đưa chung vào tác phẩm "Quan Âm Quảng Trần" nầy để cho có cơ hội làm quen với cả hai tác phẩm cùng một lúc. Vì lẽ tác giả của sách nầy đã minh chứng về Tánh Không một cách quá tỉ mỉ; khiến cho chúng ta không thể nào không đọc chương nầy một cách thích thú được. Đến phần Đức Đại Thế Chí Bồ Tát đi cầu pháp niệm Phật A Di Đà, chúng ta mới thấy tác giả đã khéo léo kết hợp tư tưởng Tịnh Độ để giới thiệu đến những độc giả đó đây, nhằm phổ biến tư tưởng nầy đến với mọi độc giả của mình.

Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cuối cùng chỉ chấp nhận pháp tu Quan Âm trong 25 pháp tu của các Vị Thánh; bởi vì chỉ có Phản Văn Tự Kỷ mới là phần chính của tánh nghe mà Đức Phật muốn gạn hỏi Ngài A Nan qua 7 cách đi tìm tâm; còn nàng Ma Đăng Già thì đã liễu ngộ tánh nầy, ngay trước cả A Nan, vì Ngài A Nan chỉ chuyên tâm nghe, học, hiểu; nhưng phần hành trì chưa thấu đáo; nên Ngài A Nan vẫn còn là một bậc đa văn hữu học; chứ không phải là bậc Vô Học Tỳ Kheo hay Tỳ Kheo Ni, khi những vị nầy đã liễu ngộ được pháp tu Quan Âm nầy.

Phần Ngài Ưu Ba Ly đi tìm tự tánh của chính mình cũng đã vượt qua khỏi cả 8 ông Hoàng tử muốn đi xuất gia, mặc dầu họ đã đến gặp Phật trước cả Ưu Ba Ly; nhưng tám Vị nầy phải qua một tuần lễ gạn lọc tâm để thanh tẩy những ngã mạn, tà kiến khi còn là những ông Hoàng tử của xứ Ca Tỳ La Vệ. Vì vậy cho nên người xưa đã đặt một bài kệ để tán dương hạnh nầy của Ngài Ưu Ba Ly như sau:
Đắc độ thân tiền bát vương tử
Lăng Nghiêm hội thượng chứng viên thông 
Hoằng tuyên luật giáo Tỳ Ni tạng
Phật pháp do như tự thế long.

Nghĩa:
Đắc độ cả trước 8 ông Hoàng
Lăng Nghiêm pháp hội chứng thần thông 
Hoằng truyền giới luật, tạng Thanh Văn
Phật pháp từ đây đà hưng thịnh.


Toàn văn cũng như ngữ nghĩa của quyển sách nầy tác giả muốn giới thiệu đến các pháp tu từ tiệm đến thứ. Đó là pháp Sa Ma Tha, Tam Ma và Thiền Na. Nếu hành giả nào đi trọn vẹn được quảng đường tiệm rồi đến thứ trong việc tu học như thế nầy thì Đại Viên Cảnh Trí của A Lợi Da thức đã viên thành nhiệm vụ của mình là đưa hành giả từ chỗ sơ cơ về đến bờ giác ngộ giải thoát. Tôi xin trân trọng giới thiệu tác phẩm giá trị nầy đến với Quý độc giả khắp muôn phương và theo tôi, nếu quý vị nào có duyên đọc quyển nầy trước thì cũng nên tìm đọc quyển "Luân Hồi trong Kinh Lăng Nghiêm" thì sẽ được bổ túc cho nhau về việc đi tìm Tâm nầy; hoặc ngược lại, nếu vị nào đọc quyển "Luân Hồi trong Kinh Lăng Nghiêm" trước thì cũng nên tìm đọc quyển "Quan Âm Quảng Trần "nầy để cả Lý và Sự được viên dung.

Tôi biết rằng quyển sách nầy cũng đã được Ni sư Thích Nữ Giới Hương cho dịch sang Anh Văn để giới thiệu đến những độc giả chuyên đọc Anh ngữ. Đây là một việc làm không đơn giản, vì Tánh Không và tự tánh Di Đà không phải là một việc đơn giản để người ngoại quốc hiểu và thực hành; nhưng với trách nhiệm là một Giáo sư Đại học Phật giáo Việt Nam với học hàm Tiến sĩ, bận rộn cho không biết bao nhiêu công việc, mà Ni sư đã hoàn thành được cả hai tác phẩm nầy bằng hai ngôn ngữ cả Việt lẫn Anh văn, quả là một việc quá phi thường. Cho nên tôi mong rằng các độc giả hãy cố gắng đọc từ trang đầu đến trang cuối để được lợi lạc nhiều hơn.

(Viết xong lời giới thiệu nầy vào lúc 16 giờ ngày 22 tháng 10 năm 2017 trên chuyến tàu tốc hành chạy từ Saint Peterburg về Moscow, Liên Bang Nga.)

Nếp Sống Tỉnh Thức của Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV - Thích Nữ Giới Hương

Sách designed by Uyên Nguyên, Lotus Media Inc. 

THÍCH NHƯ ÐIỂN: Ðức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng là một vị Thánh Tăng trong hiện kiếp, hầu như ít có người Phật Tử nào trên thế giới mà chẳng biết hay nghe đến danh tiếng của Ngài, ngay cả những người không phải là Phật Tử. Trên từ các bậc Quân Vương, Hòang Hậu, Tổng Thống, Thủ Tướng; dưới cho đến những người cùng đinh trong xã hội Ấn Độ, Tây Tạng v.v... không ai là không biết đến Ngài. Ngài là biểu tượng của lòng từ bi và trí tuệ, bình đẳng cũng như hài hòa. Đây là một vị Bồ Tát tái sanh vậy.

Ai đã có duyên gặp được Ngài hay đọc sách của Ngài rồi thì không thể nào không có một ấn tượng sâu xa nào đó. Nhất là nụ cười và những lời giáo huấn đơn giản, nhưng sâu sắc của Ngài. Năm 1959 Ngài chính thức có mặt tại Ấn Độ và suốt hai mươi năm như vậy Ngài lo ổn định đời sống tại Dharamsara, thuộc miền Bắc Ấn Độ, cho chính Ngài cũng như cho dân chúng Tây Tạng đang tỵ nạn tại đó. Đến năm 1979 Ngài bắt du hành sang Hoa Kỳ và cũng trong năm nầy ngoài việc tiếp xúc với các chính giới Hoa Kỳ, Ngài đã nhận tước hiệu Tiến Sĩ Triết Học Phật Giáo tại Đại Học Đông Phương (University of Oriental Studies, LA, USA) do cố Hòa Thượng Tiến Sĩ Thích Thiên Ân, Viện Trưởng Viện Đại Học nầy trao tặng. Đây là niềm vinh dự của Phật Giáo Việt Nam chúng ta tại Hải Ngọai lúc bấy giờ. Rồi kể từ đó đến nay, riêng Phật Tử và chư Tăng Ni Việt Nam của chúng ta ở trong cũng như ngoài nước có không biết bao nhiêu là cơ hội để được tiếp xúc, học hỏi, đãnh lễ, cúng dường Ngài. Đây là một phước báu của chúng ta.

Riêng chúng tôi và chùa Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc đã được vinh dự đón tiếp Ngài hai lần vào ngày 18 tháng 6 năm 1995 và ngày 20 tháng 9 năm 2013 cũng như vô số lần khác tại Ấn Độ, Hamburg, Frankfurt, Schneverdingen v.v… mỗi lần như thế chúng tôi thấy được ấm áp, có sự gia trì từ Ngài. Đồng thời chúng tôi cũng có duyên để đọc rất nhiều sách viết về Ngài như: Nước tôi và dân tôi, tự do trong lưu đày v.v… đặc biệt chúng tôi cũng đã viết lời tựa cho quyển sách dịch từ tiếng Anh “My Son, the Dalai Lama 14“ do Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng dịch sang Việt Ngữ. Nay có Ni Sư Thích Nữ Giới Hương, Trụ Trì chùa Hương Sen tại Hoa Kỳ đã viết và dịch xong tác phẩm “Nếp sống tỉnh thức“ của Ngài gồm 2 tập. Tập 1 dày 192 trang khổ A4 và tập thứ 2 dày 298 trang cũng khổ A4. Thật ra đây là lần tái bản thứ 3 chứ không phải là lần đầu tiên; nhưng Ni Sư Giới Hương mới nhờ tôi viết lời giới thiệu. Do vậy tôi phải cất công đọc hai tập sách nầy trong nhiều ngày liền để viết nên lời giới thiệu nầy.

Luận án Tiến Sĩ của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương viết bằng tiếng Anh có liên quan về Tánh Không và khi Cô cho chuyển dịch sang Việt ngữ, tôi cũng đã đọc và đã viết lời giới thiệu cho luận án giá trị nầy. Văn phong dịch thuật rất trôi chảy, lịch lãm cũng như uyên bác, lột tả hết được những ngôn từ Phật Học qua sự chuyển dịch. Ấy là một sự thành công. Thứ đến, những lời dạy của Ngài là vàng, là bạc, là kim cương qua cái nhìn từ bi và trí tuệ, dưới nhãn quan Phật học, khó có một chính trị gia hay một nhà Thần Học nào có thể qua khỏi được những nhận xét về cuộc đời, phương cách sống được như vậy. Ví dụ như câu chuyện về sức khỏe. Ngài bảo “khi người ta còn trẻ, người ta dùng rất nhiều thời gian và sức lực để đi kiếm cho thật là nhiều tiền và đến khi già, người ta dùng rất nhiều tiền để đi mua sức khỏe“. Đó là một chân lý mà ít ai quan tâm để ý đến; nhưng sau khi nghe hay đọc được rồi, thì đây chính là một công án, mà mỗi người trong chúng ta nên tự giải đáp về đời sống nan giải có liên quan đến sức khỏe của mình. Từ chương 1 đến chương 3 tác phẩm nầy đã giới thiệu về đất nước Tây Tạng, Tiểu Sử của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 cũng như sự truyền thừa của 14 đời Đạt Lai Lạt Ma từ thế kỷ thứ 14 đến nay. Đồng thời Ni Sư cũng đã cố công dịch lại tất cả những giải thưởng mà Ngài đã nhận lãnh được trên thế giới. Qua đây, chúng ta thấy được việc giải Nobel Hòa Bình của Thụy Điển và Na Uy cấp cho Ngài năm 1989 là một điều hiển nhiên vậy.

Từ chương thứ 4 đến chương thứ 9 là nội dung có liên quan đến trí tuệ, tình thương, giáo dục, chính trị, văn hóa, Tôn Giáo, ngọai giao, bệnh tật, khổ nạn của chúng sanh v.v… tất cả đều được thể hiện qua những bài giảng của Ngài. Đa phần là những câu hỏi và những câu trả lời ngắn gọn, nhưng rất súc tích, hàm chưa phẩm hạnh của một bậc Đạo Sư có cả Pháp Học và Pháp Hành. Cô Giới Hương có công chia ra từng chương một và gồm nhiều đề tài khác nhau, được sắp theo thứ tự A, B, C… khiến cho người đọc dễ nắm bắt vấn đề khi cần tham khảo. Đặc biệt nhất ở chương cuối Cô đã dịch những Pháp Ngữ của Ngài qua Tác Phẩm “The Joy of Living and Dying in Peace“ rất là tuyệt vời. Do vậy, tôi xin tán dương, ca ngợi để viết nên lời giới thiệu chân thành nầy. Một bữa ăn ngon, người ta chỉ có thể no đủ trong mấy tiếng đồng hồ; nhưng một khái niệm và nhận chân về trí tuệ, nếu chúng ta nắm bắt được từ lời dạy của Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ được lợi ích suốt đời. Đây là món ăn tinh thần mà người Phật Tử xuất gia cũng như tại gia không thể nào không quan tâm được.

Dịch sách và viết sách không phải là vấn đề giản đơn chỉ là trau chuốt những con chữ cho độc gỉa đọc, hiểu và tìm tòi, mà ở đây còn là vấn đề niềm tin vào một Tôn Giáo nữa. Dịch không thừa mà cũng không thiếu ý chính của Tác Gỉa. Đó là bổn phận của người dịch và người viết sách. Nay Ni Sư Giới Hương đã làm được hai nhiệm vụ nầy. Quả là điều tuyệt diệu. Nếu ai đó chỉ nhìn qua đề tựa của quyển sách rồi khen đẹp, khen hay; chẳng khác nào chúng ta nhìn những món ăn ngon được bài trí trên bàn, nhưng chúng ta chưa cầm đũa để thưởng thức những món ăn ấy. Vậy xin mời bạn, kể cả những người thuộc các Tôn Giáo khác hãy ngồi ngay vào bàn tiệc tinh thần nầy để đọc, nghiền ngẫm, tra cứu những lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, để chúng ta cùng thẩm thấu, đón nhận những món ăn tinh thần cao qúy nầy.

Xin kính mời chư Tôn Đức cùng tất cả Qúy Phật Tử và những người khác Đạo hãy dành một ít thời gian để đọc qua dịch phẩm nầy. Chắc rằng sẽ mang đến cho Qúy Vị nhiều lợi lạc trong đời sống tâm linh của mình.

Viết xong lời giới thiệu nầy vào ngày 4 tháng 2 năm 2016 tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc.

Thích Như Điển,
Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover.

NHỮNG BƯỚC THĂNG TRẦM - TÁM PHÁP THẾ GIAN (Atthalokadhamma)

Sách designed by Uyên Nguyên, Lotus Media Inc. 

TÁM PHÁP THẾ GIAN (Atthalokadhamma)
NHỮNG THĂNG TRẦM CỦA ÐỜI SỐNG
V enerable Narada Mahathera 
(Phạm Kim Khánh dịch)


Thế gian chênh lệch nầy quả không hoàn toàn tươi đẹp như cánh hoa hồng. Nó cũng không tuyệt đối gai góc như cây hồng. Hoa hồng dịu dàng, đẹp đẽ, và mùi thơm ngào ngạt. Nhưng cái cây sanh ra nó thì mình đầy gai góc. Hoa là hoa. Gai là gai. Cái gì thuộc về hoa là của hoa. Cái gì thuộc về gai là của gai. Không vì hoa mà ta lao mình vào gai, cũng không vì gai mà xa lánh hẳn hoa hồng.
Với người lạc quan, thế gian nầy tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp, cũng không hoàn toàn xấu xa. Nhìn với cặp mắt thực tiễn thì nó sanh ra với những hoa hồng xinh tươi đẹp đẽ cùng với gai nhọn đầy mình.
Người hiểu biết sẽ không say mê sắc đẹp của hoa hồng nhưng nhận định đúng nó là thế nào. Thấu triệt bản chất của gai người ấy thấy đúng thực tướng của nó và sẽ hành động đủ thận trọng để khỏi bị gai quào hay đâm chích.
Giống như quả lắc của đồng hồ, đánh qua trái rồi sang phải, phải rồi trở lại trái, luôn luôn như vậy, có bốn phước lành và bốn điều bất hạnh trong đời sống mà tất cả mọi người, ai ai cũng phải đương đầu, không ai tránh khỏi.
Ðó là được (làbha) và thua (alàbha), danh thơm (yasa) và tiếng xấu (ayasa), ca tụng (pasamsà) và khiển trách (nindà), hạnh phúc (sukha) và đau khổ (dukkha).
-------------------------
Vicissitudes of Life (Atthalokadhamma)
This ill-balanced world is not absolutely rosy. Nor is it totally thorny. The rose is soft, beautiful and fragrant. But the stem on which it grows is full of thorns. What is rosy is rosy; what is thorny is thorny. Because of the rose one will not meddle with the thorns nor will one disparage the rose on account of the thorns.
To an optimist this world is absolutely rosy; to a pessimist this world is absolutely thorny. But to a realist this world is neither absolutely rosy nor absolutely thorny. It abounds with beautiful roses and prickly thorns as well, from a realistic standpoint.
An understanding person will not be infatuated by the beauty of the rose but will view it as it is. Knowing well the nature of the thorns, he will view them as they are and will take the precaution not to be wounded.
Like the pendulum that perpetually turns to the right and left, four desirable and undesirable conditions prevail in this world which everyone, without exception, must perforce face in the course of one's lifetime.
They are gain (làbha) and loss (alàbha), fame (yasa) and defame (ayasa), praise (pasaÑsà) and blame (nindà), happiness (sukha) and pain (dukkha).