Monday, March 28, 2022

Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Tại sao phải hối tiếc những điều không hẳn là hoàn toàn xấu | Why Having Regrets Isn’t Totally Bad

 

Tại sao phải hối tiếc những điều không hẳn là hoàn toàn xấu

Tâm Quảng Nhuận dịch Việt | theo Buddhability

Không có gì mà chúng ta trải qua trong cuộc sống là lãng phí hoặc không thể chuyển hóa.

Những điều hối tiếc, tất cả chúng ta đều có. Đôi khi điều đó có thể đơn giản như ước rằng chúng ta đi vào một con phố nhỏ thay vì đường cao tốc bởi vì bây giờ đang kẹt xe và đi làm muộn. Hoặc nó có thể là điều gì đó nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như tự hỏi liệu chúng ta có đánh mất cơ hội xây dựng cuộc sống như mong muốn chỉ vì một sai lầm trong quá khứ hay không.

Amy Summerville, phó giáo sư tâm lý học tại Đại học Miami [https://www.miamioh.edu/], điều hành một phòng thí nghiệm nghiên cứu tập trung vào cách thức và lý do tại sao mọi người trải qua sự hối tiếc. Trong một cuộc phỏng vấn podcast năm 2017 với NPR’s Hidden Brain [https://www.npr.org/transcripts/550249439?storyId=550249439], Summerville đề cập đến lý do tại sao cô ấy lại hối hận trong việc học tập:

Một trong những điều … khiến tôi hối hận… sự thật rằng hối hận là một trong những cảm xúc phổ biến nhất của chúng ta. Theo một số ước tính, đó là cảm xúc phổ biến trong cuộc sống hàng ngày và là cảm xúc tiêu cực phổ biến nhất mà chúng ta đề cập đến.

Không có gì ngạc nhiên khi hối tiếc là cảm xúc theo sau, trước nó là cảm xúc tiêu cực. Tất cả chúng ta đều có mối quan hệ mà chúng ta ước rằng chúng ta đã kết thúc sớm hơn, cảm thấy như chúng ta đã lãng phí quá nhiều thời gian. Hoặc, sự nghiệp mà chúng ta đã từ bỏ theo đuổi kỳ cùng một công việc bàn giấy chẳng giúp được gì nhiều hơn là để trả các hóa đơn. Nhưng trong Phật giáo, không có điều gì chúng ta trải qua trong đời là lãng phí hoặc không có khả năng thay đổi.

Đạo Phật dạy rằng thay vì cứ mắc kẹt trong quá khứ, chúng ta nên sống trong giây phút hiện tại vì đây là nơi khởi đầu cho tương lai. Nếu bạn không thích con người của ngày hôm qua hoặc thậm chí 20 phút trước, bạn có khả năng quyết định mẫu người mà bạn sẽ hướng tới, bắt đầu từ bây giờ.

Theo nghĩa đó, ngay cả mối quan hệ hoặc công việc tưởng chừng như bị lãng phí cũng thực sự có giá trị lớn bởi vì nếu không có nó, làm sao bạn biết trở thành người mà bạn hằng mong muốn sẽ như thế nào?

Đó không phải là về những gì đã xảy ra (hoặc không xảy ra), mà là về những gì trong trái tim của chúng ta vào lúc này.

Thay vì bị quá khứ giam cầm, bằng cách chuyển hóa tư duy hoặc quyết tâm, chúng ta có thể thay đổi ý nghĩa của quá khứ; thông qua hành động của mình, chúng ta có thể tạo ra giá trị và mở ra con đường cho một cuộc sống mới bắt đầu từ giây phút hiện tại. | IkedaTháng 10 năm 2019 Đạo Phật Sinh Động, tr. 62

Vì vậy, thứ mà chúng ta đã và đang nắm giữ và tự vượt thắng, nó không phải là nguồn gốc của sự hối tiếc. Nó có thể là lý do để chúng ta nhận ra một tương lai tươi đẹp. Là Phật tử, mỗi sáng khi chúng ta tụng kinh, giống như tự tạo cho mình một cuộc sống mới.

Bởi vì mỗi ngày chúng ta phải quyết định rằng mọi khía cạnh trong cuộc sống của chúng ta đều có giá trị, ngay cả những phần chúng ta có xu hướng che đậy.

Thay vào đó, chính nhờ những điều đó mà chúng tôi có thể phát triển.

Hãy nói với bản thân vào lần tiếp theo khi bạn mắc kẹt trong một vòng lặp lại cảm xúc hối tiếc, “Này, tôi có thể trưởng thành từ điều này và trở thành người mà tôi hằng mong muốn”. Và chỉ bắt đầu, từ thời điểm này trở đi.

Why Having Regrets Isn’t Totally Bad

Buddhability

Nothing we experience in life is ever wasted or out of our power to change.

Regrets, we all have them. Sometimes it can be as simple as wishing we had taken a side street instead of the freeway because now we’re stuck in traffic and late to work. Or it can be something more serious, like wondering if we’ve lost the chance to build the life we want because of a past mistake.

Amy Summerville, an associate psychology professor at Miami University, runs a research lab focused how and why people experience regret. In a 2017 podcast interview with NPR’s Hidden Brain, Summerville mentions why she got into studying regret:

One of the things that … drew me to regret … is the fact that regret is among our most common emotions. By some estimates, it’s the second most common emotion mentioned in daily life and the most common negative emotion that we mention.

It’s no surprise that regret is the second-most common experienced emotion, and the first is negativity. We all have that relationship we wish we had ended earlier, feeling like we wasted so much time. Or, the career we put off pursuing for the same old desk job that did little more than pay the bills. But in Buddhism, nothing we experience in life is ever wasted or out of our power to change.

But in Buddhism, nothing we experience in life is ever wasted or out of our power to change.

Buddhism teaches that rather than remaining stuck in the past, we should live in the present moment because this is where the future is created. If you don’t like the person you were yesterday or even 20 minutes ago, you have the ability to decide what type of person you will be moving forward, starting now.

In that sense, even the seemingly wasted relationship or job is actually of major value because, without it, how would you know what it looks like to become the person you’ve always wanted to be?

It’s not about what happened (or didn’t happen), it’s about what’s in our hearts at this moment.

Instead of being imprisoned by the past, by transforming our mind-set, or deep-seated resolve, we can change the meaning of our past; through our actions, we can create value and open the way to a new life starting from this present moment. | October 2019 Living Buddhism, p. 62

So that thing we’ve been holding on to and beating up ourselves about, it doesn’t have to be a source of regret. It can be the reason we realize a beautiful future. As Buddhists, every morning when we chant Nam-myoho-renge-kyo, it’s like giving ourselves a new lease on life.

Because each day we get to decide that every aspect of our lives has value, even the parts we tend to hide away.

Because each day we get to decide that every aspect of our lives has value, even the parts we tend to hide away.

Rather, it’s because of those things that we are able to grow.

Tell yourself the next time you’re stuck in a loop of regret, “Hey, I can grow from this and become the person I’ve always wanted to be.” And just start, from this moment forward.

Chùa Phổ Từ tổ chức Lễ Chung Thất Thiền Sư Nhất Hạnh (Commemorating Thích Nhất Hạnh's Continuation & 49-Day Ceremony)

 Chùa Phổ Từ tổ chức Lễ Chung Thất

Thiền Sư Nhất Hạnh 

(Commemorating Thích Nhất Hạnh's Continuation & 49-Day Ceremony)


Tâm Quảng Nhuận | Bodhi Media

Vào ngày Chủ Nhật, 13 tháng 3 tại Chùa Phổ Tử đã tổ chức buổi Lễ Chung Thất Thiền Sư Nhất Hạnh (Commemorating Thích Nhất Hạnh's Continuation & 49-Day Ceremony) cho Phật tử các giới và Tăng Thân Tiếp Hiện tại vùng vịnh, Bắc California. Trong khuôn viên Chùa, nơi có khán đài, làm lễ tưởng niệm. Chúng tôi thấy có 3 bàn Triển lãm Sách và phát hành, cũng như Thư Pháp của Sư Ông Làng Mai, có hơn 120 cuốn sách của Thiền Sư Nhất Hạnh cả hai ngôn ngữ Anh Việt và Thư pháp được trình bày trước buổi lễ do Htr. Tâm Thường Định từ Sacramento về phụ trách. 


Đúng 2 giờ, Cô MC duyên dáng Quảng Ý đã Tuyên bố lý do, giới thiệu thành phần tham dự (song ngữ). Một chương trình song ngữ cho cả Anh lẫn Việt được chan hoà như nước với sữa, sự trang bày nhẹ nhàng và thiền vị. Có sự tịnh niệm - Ngồi chơi với Sư Ông (Mindful Breathing with Thầy) do Sư Cô Phổ Châu hướng dẫn, những hình ảnh chan hoà từ lớp trẻ trong Gia đình Phật  đến quý Bác trong đạo tràng, từ huynh trưởng GĐPT đến giới Tiếp hiện đang ngồi có mặt cho nhau với Thiền Sư. Cô Tâm Lưu Ly (Chân Thâm Tuệ), thành viên của dòng tu Tiếp Hiện (Dharma teacher, Order of Interbeing member) với tăng thân Dharma Heart tại Walnut Creek, đã hướng dẫn Niệm danh hiệu Bồ tát Quan Âm (tiếng Anh) Namo Avalokiteshvara. Âm thanh đó như là một lời kinh cầu nguyện vang vọng khắp mười phương. 


Sau đó là lời chào mừng của Hoà thượng Thích Từ Lự, Viện chủ Chùa Phổ Từ, Thầy phát biểu bằng song ngữ như sau:


Nam mô đức Bổn sư Bụt Thích ca Mâu ni

Kính bạch Giác Linh Sư Ông Toạ chủ cùng chư Tôn Đức hiện diện

Thưa quý Đạo hữu, quý Anh chị Huynh trưởng GĐPT và Tiếp Hiện

Sáng nay tôi đã có bài giảng, tựa đề “Công Hạnh Của Một Thiền Sư” và tiến giác linh cúng Trà đến Sư Ông Làng Mai rồi. Bây giờ, tôi chỉ xin có đôi lời trân trọng chào mừng, với lòng biết ơn, cung đón Quý Vị đến với buổi lễ Chung thất, Tưởng niệm Sư Ông hôm nay tại khuôn viên chùa Phổ Từ, miền Bắc California.

Nghĩ đến Sư Ông là thấy trong lòng dâng lên một niềm Biết Ơn sâu xa với công lao vô cùng to lớn của bậc Tôn Sư đối với mọi người. Trong chúng ta, nếu có cơ duyên tham dự một khóa tu Chánh Niệm, hay lắng  nghe một bài giảng, ai mà không cảm nhận tấm lòng Từ Bi, Trí Tuệ thâm sâu của Sư Ông trong từng lời, từng câu nói, từng cử chỉ ân cần, tha thiết. Khó mà nói hết những tâm tư sâu kín, trọn vẹn của chúng ta.

Xin mời Quý Vị nghe lời phát biểu trong sổ tang Lưu Niệm tại tổ đình Từ Hiếu của một vị Hòa Thượng giáo phẩm về sự nghiệp độ sanh của Sư Ông Làng Mai: “Thế giới ngày nay ghi nhận Thiền sư Thích Nhất Hạnh là bậc Thầy hướng dẫn đời sống tâm linh cho nhân loại, vượt ra ngoài không gian Phật giáo, ngài còn được tôn vinh là một nhà vận động hoà bình, nhà giáo dục, nhà văn hoá, nhà văn, nhà thơ, sử gia, học giả, qua đó, lịch sử đã ghi nhận Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một nhân tài uyên bác lỗi lạc, một bậc Tăng tài trí tuệ xuất chúng, Ngài đã mang lại niềm vinh dự, tự hào cho Phật giáo Việt nam và cho cả hình ảnh con người và đất nước Việt nam.”


Trong buổi lễ này, chỉ là một chút lòng thành dâng lên Sư Ông chứng minh, cầu nguyện Đạo tràng Mai thôn mãi trường tồn trên thế giới trong sứ mạng độ đời và ngọn đèn Chánh niệm tiếp tục tỏa sáng trong cuộc sống của chúng ta.


Good afternoon respected Thay and monastics, Dharma Teachers, OI members, Buddhist Youth leaders and all Dharma Friends, near and far,

It is a great honor for me, on behalf of the Compassion Meditation Center, to welcome all of you to this special event to remember Thay.

Many of us have the opportunity to be with Thay, listening to his words of wisdom and compassion. We learned from Thay how to practice mindfulness in order to reduce suffering and obstacles in life. We felt his concern, caring and love.


This morning I already shared some points in Thay’s teaching which brings a lot of benefits for us and generations to come. Book after book, Dharma talks in different languages, Thay shows us in detail how to apply mindful steps and use our smiles to ease our worries and fears. How practical, deep and smart!


Many people, famous and ordinary, in Vietnam or other places in the world have talked about Thay’s contributions. In this celebration, we only want to show our gratitude to his Teaching as a student, with prayers that Plum Village tradition will continue to offer mindfulness teaching to all, especially for young generation, to have the fruits of practice and be happy in every moment in daily life.


Thank you for your time, kindness and please enjoy the day.

Xin thành thật cám ơn và trân trọng cầu chúc Quý Vị một ngày an lành.

Nam mô Quán Thế âm Bồ tát.

Rồi đến phần dâng hoa Cúng dường của đơn vị GĐPT Chánh Hoà và chương trình tưởng niệm. à Lyn Fein bắt đầu với phần chia sẻ về Sư ông.  Bà là Giáo thọ Làng Mai và đã thọ giới Tiếp Hiện từ năm 1994. Bà hiện đang điều hợp và sinh hoạt với tăng thân Mindful Peace Building tại Berkeley. Bà đã ôn lại những kỷ niệm khó quên của Bà với Sư ông từ khi biết Sư ông qua sự vận động hoà bình cho đến những khóa tu học tại  Bắc Cali, tại Làng Mai, tại Do Thái


Xen vào chương trình tưởng niệm là ca nhạc thiền vị của  nhóm Tuệ Đăng như  “An Là Thở, Lạc Là Đi”, Thơ Sư Ông Thích Nhất Hạnh,  Thầy Pháp Niệm phổ nhạc (A song with  Lyrics by Thầy Nhất Hạnh, music by brother Pháp Niệm, to remind us of the importance of coming back to our breathing for peace and happiness). 


Bài hát  “không đến, không đi" Lời của Sư ông,  “No coming, no going" do  ông  Andrew Bear, thành viên của dòng tu Tiếp Hiện hướng dẫn đại chúng cùng hát. Ông Andrew sinh hoạt với tăng thân , Heart Sangha  tại  Santa Cruz. Quý anh chị cựu Huynh trưởng đoàn Huệ Năng  đã đồng ca “Kính Mến Thầy”, sáng tác Dương Xuân Dưỡng.  Sự đóng góp của GĐPT tiếp tục với vũ khúc “Breathing in & Breathing out" của các em Oanh vũ GĐPT Chánh Tâm.  


Gia đình Tuệ Đăng đồng ca bài, “Mặt Trời Hồng Tỉnh Thức” (Thơ: Thích Nhất Hạnh & Thích Tịnh Từ,  Nhạc: Võ Tá Hân).  Tiếp theo là phần độc tấu, thổi sáo hai bài “Rei Hou" và “Akatonbo" của ông Jim Scott-Behrends.  Ông là thành viên của dòng tu Tiếp Hiện, hiện đang 

tu tập với tăng thân Heart Sangha tại Santa Cruz.  Đạo hữu Trương Công Trí pháp danh Tâm Quảng Huệ, đại diện của Tiếp Hiện và Htr. Huệ Ngọc - Lương Như Trân đại diện cho GĐPT phát biểu cảm ơn sự cống hiến, dìu dắt và dạy dỗ của Sư ông.


Chúng tôi biết Hòa thượng Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một vị Thầy với trong Phật giáo Việt Nam và thế giới. Thầy một nhà văn, một nhà thơ, một học giả, và quan trọng nhất, ngài là người luôn thuyết giảng và thúc đẩy hòa bình và công bằng xã hội trong thế giới của chúng ta. Thầy một con người hoà bình, luôn đấu tranh và bênh vực cho hòa bình của nhân loại từ thập niên, 1960 khi nhận chân rằng chiến tranh là gây đau khổ và tang thương dù nhân danh ý thức hệ hay mục tiêu chính trị nào. Với tâm từ của một nhà Sư Việt Nam, lúc bấy giờ Hòa bình là giải pháp duy nhất để chấm dứt đau khổ và nó là lời kêu gọi nhân loại. Nhưng quan trọng hơn là sự cống hiến đem Chánh niệm và Đạo Phật dấn thân vào với thế  Tây Phương.


Kế tiếp là phần đọc thơ “Hãy Gọi Đúng Tên Tôi” (Please Call Me By My True Names) của ông Gary Gach là thành viên của dòng tu Tiếp Hiện và cũng là nhà văn.  Ông đã phát hành sách, tiêu biểu là cuốn Phật giáo căn bản và cuốn, Dừng lại, Thở và Cười.  Ông  đang cư ngụ tại San Francisco. Sáng lập viên và điều hợp viên của tăng thân Zen Mindfulness Fellowship. 


Hãy gọi đúng tên tôi

Đừng bảo ngày mai tôi đã ra đi

Bởi vì chính hôm nay tôi vẫn còn đang tới

Hãy ngắm tôi thoát hình trong từng phút từng giây

Làm đọt lá trên cành xuân

Làm con chim non cánh mềm chiêm chiếp

vui mừng trong tổ mới

Làm con sâu xanh trên cuống hoa hồng

Làm gân viên ngọc trắng tượng hình trong lòng đá.

Tôi còn tới để khóc để cười

Để ước mong để lo sợ

Sự xuất nhập của tôi là hơi thở

Nhịp sinh diệt của tôi cũng là tiếng đập một lần

của hàng triệu trái tim.

Tôi là con phù du thoát hình trên mặt nước

Và là con chim sơn ca mùa xuân về trên sông đón bắt phù du

Tôi là con ếch bơi trong hồ thu

Và cũng là con rắn nước trườn đi

Tìm cách nuôi thân bằng thân ếch nhái

Tôi là em bé nghèo Uganda, bao nhiêu xương sườn đều lộ ra,

hai bàn chân bằng hai ống sậy

Tôi cũng là người chế tạo bom đạn

Để cung cấp kịp thời cho các dân tộc Á phi.

Tôi là em bé mười hai

Bị làm nhục nhảy xuống biển sâu

Tôi cũng là người hải tặc sinh ra với một trái tim

chưa biết nhìn biết cảm

Tôi là người đảng viên cao cấp, cầm quyền sinh sát trong tay

Và cũng là kẻ bị coi là có nợ máu nhân dân đang chết dần mòn

trong trại tập trung cải tạo

Nỗi vui của tôi thanh thoát như trời Xuân,

ấm áp cỏ hoa muôn lối

Niềm đau của tôi đọng thành nước mắt,

ngập về bốn đại dương sâu.

Hãy nhớ gọi đúng tên tôi

Cho tôi được nghe một lần tất cả những tiếng

tôi khóc tôi cười

Cho tôi thấy được nỗi đau và niềm vui là một

Hãy nhớ gọi đúng tên tôi

Cho tôi giật mình tỉnh thức

Và để cho cánh cửa lòng tôi để ngỏ

Cánh cửa Xót Thương.

Please Call Me By My True Names

By Thich Nhat Hanh


Don’t say that I will depart tomorrow— even today I am still arriving.


Look deeply: every second I am arriving to be a bud on a Spring branch, to be a tiny bird, with still-fragile wings, learning to sing in my new nest, to be a caterpillar in the heart of a flower, to be a jewel hiding itself in a stone.


I still arrive, in order to laugh and to cry, to fear and to hope. The rhythm of my heart is the birth and death of all that is alive.


I am a mayfly metamorphosing on the surface of the river. And I am the bird that swoops down to swallow the mayfly.


I am a frog swimming happily in the clear water of a pond. And I am the grass-snake that silently feeds itself on the frog.


I am the child in Uganda, all skin and bones, my legs as thin as bamboo sticks. And I am the arms merchant, selling deadly weapons to Uganda.


I am the twelve-year-old girl, refugee on a small boat, who throws herself into the ocean after being raped by a sea pirate.


And I am also the pirate, my heart not yet capable of seeing and loving.


I am a member of the politburo, with plenty of power in my hands. And I am the man who has to pay his “debt of blood” to my people dying slowly in a forced-labor camp.


My joy is like Spring, so warm it makes flowers bloom all over the Earth. My pain is like a river of tears, so vast it fills the four oceans.


Please call me by my true names, so I can hear all my cries and laughter at once, so I can see that my joy and pain are one.


Please call me by my true names, so I can wake up and the door of my heart could be left open, the door of compassion.

Kế tiếp là em Tường Vi, đoàn sinh GĐPT Anoma hát bài  “Cát Bụi Cuộc Đời" của Hà Sơn. Bài hát nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống vốn là phù du, một ngày nào đó chúng ta sẽ rời khỏi cuộc đời này, cho nên hãy tử tế với nhau để chúng ta không bị hối tiếc. Tiết mục cuối cùng là nhạc phẩm “Quan  Âm Vô Lượng" Sáng tác: Lê Minh Hiền, thay Lời cầu nguyện cho tăng thân yên ổn, thế giới an lành do ca sỹ Thu Nga, nhạc sỹ Lê Minh Hiền cùng Gia Đình Tuệ Đăng thực hiện. Ngoài ra, chúng tôi được biết những sách vở về Thiền Sư Thích Nhất Hạnh được triển lãm và một số sách Nhà xuất bản Lá Bối tặng, đã phát hành được hơn $1800 và sau đó hãng làm của Tiến sĩ Vinh Ngô đã match thêm được $1800 để gởi tặng cho Thich Nhat Hanh Foundation. Đây cũng là nơi quý ví có thể ủng hộ để tiếp nối Thiền Sư Thích Nhất Hạnh và đa phần quý Phật tử gọi là Sư Ông Làng Mai. Thông tin ủng hộ ở đây.

Thich Nhat Hanh Foundation  |  2499 Melru Lane  |  Escondido, CA 92026  |  760-291-1003 ext 104  |  info@tnhf.org. https://thichnhathanhfoundation.org/donate


Buổi Lễ Chung Thất Thiền Sư Nhất Hạnh (Commemorating Thích Nhất Hạnh's Continuation & 49-Day Ceremony) hoàn tất viên mãn trong sự hân hoan và niềm biết ơn sâu thẳm người tham dự trong đó có cựu Huynh trưởng Nguyên An Tôn Thất Thái, bảo rằng, “Cảm ơn Thầy! cảm ơn đời.”





Hãy xem thêm hình ảnh ở đây.

Friday, March 25, 2022

PEW | Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Già và Trẻ: Khoảng cách văn hóa thế hệ | Old Versus Young: The Cultural Generation Gap

 

Các thế hệ trẻ hơn, đa dạng hơn hứa hẹn sẽ thay đổi mọi khía cạnh của xã hội Mỹ.

Nếu nhân khẩu học là điều tất yếu, thì Hoa Kỳ – hơn nhiều so với các nước khác – đang ở trên đỉnh của sự thay đổi lớn. Sự thay đổi đó là do khoảng cách văn hóa thế hệ sâu sắc, điều này sẽ làm thay đổi tất cả các khía cạnh của xã hội Mỹ trong thập kỷ tới.

Thúc đẩy khoảng cách thế hệ này là một “sự bùng phát đa dạng” ở Hoa Kỳ, bắt đầu vào năm 2011 khi lần đầu tiên trong lịch sử của đất nước, nhiều trẻ sơ sinh thiểu số hơn trẻ da trắng được sinh ra trong một năm. Chẳng bao lâu nữa, hầu hết trẻ em ở Hoa Kỳ sẽ là dân tộc thiểu số: người gốc Tây Ban Nha, người da đen, người châu Á và các chủng tộc không da trắng khác. Và, trong khoảng ba thập kỷ nữa, người da trắng sẽ chiếm một thiểu số trong tổng số người Mỹ. Cột mốc quan trọng này báo hiệu sự khởi đầu của sự chuyển đổi từ nền văn hóa bùng phát chủ yếu là người da trắng thống trị quốc gia trong nửa cuối thế kỷ 20 sang một quốc gia đa chủng tộc, toàn cầu hóa hơn mà Hoa Kỳ đang trở thành.

Khi phần dân số trẻ hơn, đa dạng hơn đến tuổi trưởng thành, khoảng cách rõ ràng sẽ phát triển giữa lợi ích kinh tế và chính trị của họ và lợi ích của các thế hệ già hơn, cũng như gốc da trắng. Sự phân chia này sẽ dẫn đến các cuộc tranh giành về chi tiêu địa phương — ví dụ, về việc chi tiền cho trường học hay cơ sở y tế cao cấp — và những cuộc tranh giành đó có thể phát triển thành xung đột văn hóa. Tuy nhiên, nếu nhân khẩu học thực sự là định mệnh, thì lực lượng lao động, chính trị và vị trí của Mỹ trên trường thế giới sẽ sớm bị thay đổi vĩnh viễn.

“Các nhóm thiểu số mới” của Hoa Kỳ – đặc biệt là người gốc Tây Ban Nha và Châu Á – đang trở thành một sợi dây ngày càng bền chặt trong cấu trúc xã hội của Hoa Kỳ. Mặc dù điều này ngày càng rõ ràng hơn trong một thời gian, nhưng thông tin gần đây từ cuộc điều tra dân số và các nơi khác cho thấy những nhóm thiểu số này đang biến đổi tính cách của giới trẻ quốc gia nhanh chóng như thế nào. Hãy xem xét sự thay đổi của dân số Hoa Kỳ dưới 18 tuổi trong thập kỷ đầu của những năm 2000: Từ năm 2000 đến năm 2010, dân số trẻ em da trắng giảm 4,3 triệu trong khi dân số trẻ em ở mỗi nhóm thiểu số mới hơn — người gốc Tây Ban Nha, người châu Á và người của hai hoặc nhiều nhóm khác — đã tăng lên. Người gốc Tây Ban Nha ghi nhận mức tăng tuyệt đối lớn nhất ở trẻ em, 4,8 triệu. Nếu không dành cho người gốc Tây Ban Nha, dân số trẻ em của quốc gia sẽ giảm. Và vào năm 2010, hơn một nửa số trẻ em dưới 5 tuổi là người da trắng, trong khi nhóm tuổi già nhất – những người 85 tuổi trở lên – là 85% người da trắng. Sự đa dạng hóa dân số Hoa Kỳ từ dưới lên này không chỉ có ý nghĩa về mặt nhân khẩu học. Nó phản ánh sự phân chia văn hóa đang nổi lên giữa người trẻ và người già khi họ thích nghi với sự thay đổi theo những cách khác nhau. Các nhóm tuổi khác nhau đại diện cho các thế hệ khác nhau, được lớn lên và trở thành người lớn trong các thời đại cụ thể và có thể ít nhiều tiếp thu những thay đổi văn hóa do các nhóm chủng tộc mới mang lại.

Khi nhìn rộng ra, có sự phân biệt chủng tộc rõ ràng giữa những người mới bắt đầu và những người lớn tuổi của họ, và những thế hệ trẻ hơn — những người thuộc thế hệ thiên niên kỷ và những thành viên trẻ của Thế hệ X và con cái của họ, những người tạo thành dân số dưới 35 tuổi. hơn 70 phần trăm da trắng, với người da đen đại diện cho thiểu số chủng tộc lớn nhất. Ở những người trẻ trung, thế hệ millennials và thế hệ trẻ (phần lớn dưới 35 tuổi) và con cái của họ chiếm hơn 40% thiểu số, trong đó người gốc Tây Ban Nha chiếm tỷ lệ lớn nhất trong dân số thiểu số của họ. Một cuộc thăm dò của Trung tâm Nghiên cứu Pew năm 2011 cho thấy chỉ 23% trẻ em mới lớn và người cao tuổi coi dân số nhập cư ngày càng tăng của đất nước là một sự thay đổi theo hướng tốt hơn và 42% coi đó là sự thay đổi theo chiều hướng xấu hơn. Hơn một nửa số trẻ em da trắng bùng phát và người cao niên cho biết số lượng ngày càng tăng của những người mới đến từ các quốc gia khác thể hiện mối đe dọa đối với các giá trị và phong tục truyền thống của Hoa Kỳ.

Sự phản kháng của “baby boomers” trước sự thay đổi nhân khẩu học có vẻ đáng ngạc nhiên. Thế hệ nổi tiếng này đã trở thành hiện thân của hình ảnh nước Mỹ trung lưu trong suốt nửa sau của thế kỷ trước. Được hình thành trong thời kỳ thịnh vượng sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chúng mang lại cảm giác nổi loạn, tiến bộ cho đất nước trong những năm 1960, 1970 và hơn thế nữa. Với sự giúp đỡ của các chương trình của Great Society, họ đã trở thành thế hệ được học hành tốt nhất cho đến nay và là hình ảnh thu nhỏ của tầng lớp trung lưu ngoại ô, phần lớn là người da trắng của Hoa Kỳ, mà hầu hết những người trưởng thành ngày nay đều nhận diện được.

Tuy nhiên, những “baby boomers” cũng đến tuổi vào thời điểm mà Hoa Kỳ đang trở nên thiếu yên ổn hơn so với trước đây. Lớn lên ở những vùng ngoại ô biệt lập, chủ yếu là người da trắng, những đứa trẻ da trắng bùng nổ ít tiếp xúc với người nhập cư và chiến tranh nước ngoài hơn so với cha mẹ của họ. Từ năm 1946 đến năm 1964, những năm bùng nổ trẻ sơ sinh, tỷ lệ nhập cư của dân số Hoa Kỳ giảm xuống mức thấp nhất mọi thời đại (dưới 5 phần trăm), và những người nhập cư đến phần lớn là người châu Âu da trắng. Mặc dù những “baby boomers” quan tâm đến việc chống lại những sai trái trong nước, chẳng hạn như phân biệt chủng tộc và trần nhà bằng kính ở nơi làm việc, họ không có nhiều tương tác với những người từ các quốc gia khác. Khoảng cách văn hóa thế hệ tiếp tục xuất hiện khi những “baby boomers” và người già được so sánh với phân khúc dân số trẻ tuổi của Hoa Kỳ, những thành viên có nhiều khả năng là người Mỹ thế hệ thứ nhất hoặc thứ hai có tổ tiên không phải là người châu Âu và nói được hai thứ tiếng.

Từ năm 1946 đến năm 1964, những năm của “baby boomers”, tỷ lệ nhập cư của dân số Hoa Kỳ giảm xuống mức thấp nhất mọi thời đại (dưới 5 phần trăm), và những người nhập cư đến phần lớn là người châu Âu da trắng.

Nền tảng của sự phân chia thế hệ là sự thay đổi trong cái mà các nhà nhân khẩu học gọi là tuổi già phụ thuộc  (dân số từ 65 tuổi trở lên tính theo phần trăm lực lượng lao động – dân số tuổi) và trẻ em phụ thuộc  (dân số dưới 18 tuổi tính theo phần trăm lực lượng lao động – tuổi dân số), hiện có một khía cạnh chủng tộc riêng biệt. Cả trong lịch sử và quốc tế, số trẻ em phụ thuộc vào lực lượng lao động trong độ tuổi lớn hơn số người nghỉ hưu phụ thuộc. Tuy nhiên, ở các quốc gia đang già đi nhanh chóng, nơi tỷ lệ sinh đang giảm và tuổi thọ đang tăng, người cao tuổi đang gia tăng số lượng dân số “phụ thuộc”. Đó là mối quan tâm ở Hoa Kỳ, do các chương trình của chính phủ trợ giúp người già, bao gồm cả những chương trình chăm sóc y tế, về cơ bản chi phí cao hơn nhiều so với những chương trình trợ giúp trẻ em. Khoảng cách văn hóa thế hệ giữa người trẻ và người già có thể làm trầm trọng thêm sự cạnh tranh về nguồn lực vì sự gia tăng số lượng người cao tuổi phụ thuộc đang xảy ra nhanh hơn ở người da trắng so với người thiểu số, những người mà trẻ em phụ thuộc là một vấn đề lớn hơn.

Nhìn vào tổng dân số Hoa Kỳ giúp minh họa điều này. Sự tăng trưởng của dân số cao tuổi bị ảnh hưởng bởi tuổi thọ tăng và quan trọng hơn là sự già đi của những người trẻ bùng phát. Từ năm 2010 đến năm 2030, dân số cao tuổi dự kiến sẽ tăng 84 phần trăm. Ngược lại, dân số trong độ tuổi lực lượng lao động (từ 18 đến 64 tuổi) sẽ chỉ tăng 8% và dân số dưới 18 tuổi sẽ chỉ tăng 3%. Do đó, mặc dù các nhóm dân tộc thiểu số và người nhập cư mới đang thúc đẩy sự gia tăng dân số trẻ hơn và trong độ tuổi lực lượng lao động, sự gia tăng của nhóm dân số cao tuổi được thúc đẩy bởi những người chủ yếu là trẻ em da trắng. Tỷ số phụ thuộc cho thấy sự thay đổi dự kiến vào năm 2040. Tỷ lệ phụ thuộc vào thanh niên gần như gấp đôi mức phụ thuộc của tuổi già vào năm 2010 (38 so với 21) và sẽ chỉ tăng nhẹ trong ba thập kỷ tiếp theo, trong khi phụ thuộc của tuổi già sẽ tăng lên hơn một nửa — biến người cao tuổi trở thành một phần đáng kể của dân số không trong độ tuổi lao động.

Tuy nhiên, sự thay đổi này đối với người da trắng ấn tượng hơn nhiều so với người thiểu số. So sánh tỷ lệ phụ thuộc giữa người da trắng và người gốc Tây Ban Nha cho thấy họ có thể có những ưu tiên tương đối về chi tiêu cho trẻ em so với người già. Đối với người da trắng, tỷ lệ phụ thuộc vào thanh niên thấp hơn tổng số của Hoa Kỳ và không lớn hơn nhiều so với tỷ lệ phụ thuộc của người già da trắng vào năm 2010 (32 so với 26). Trên thực tế, vào năm 2020, tỷ lệ phụ thuộc của tuổi già của người da trắng sẽ vượt quá tỷ lệ phụ thuộc của trẻ em và trong hai thập kỷ tiếp theo, người cao tuổi da trắng sẽ nhiều hơn trẻ em da trắng. Điều đó trái ngược hẳn với những người gốc Tây Ban Nha, có tỷ số phụ thuộc vào thanh niên năm 2010 là 56 và tỷ số phụ thuộc của tuổi già chỉ là 9. Hơn nữa, tỷ lệ phụ thuộc của thanh niên gốc Tây Ban Nha sẽ vẫn ở mức trên 40 đến 2040, ngay cả khi tỷ lệ tuổi già phụ thuộc  lên tới 22. Nói cách khác, trong ít nhất ba thập kỷ tới, trẻ em gốc Tây Ban Nha sẽ đông hơn hẳn những người già gốc Tây Ban Nha. Mặc dù tỷ lệ phụ thuộc của thanh niên da đen và châu Á không rõ rệt như đối với người gốc Tây Ban Nha, nhưng tỷ lệ này vẫn cao hơn so với tỷ lệ phụ thuộc cao hơn ít nhất là cho đến năm 2030. Do đó, không nghi ngờ gì về mối quan tâm hàng đầu của người gốc Tây Ban Nha trong độ tuổi lao động — và ở mức độ thấp hơn là người châu Á và người da đen — Sẽ là con cái của họ hơn là những người lớn tuổi phụ thuộc. Đối với người da trắng trong độ tuổi lao động, người cao tuổi phụ thuộc sẽ là mối quan tâm hàng đầu cũng như sức khỏe tương lai của chính họ khi họ bước vào những năm nghỉ hưu. Khung nhân khẩu học này cung cấp cơ sở cụ thể để xem xét khoảng cách văn hóa thế hệ và sự cạnh tranh đối với các nguồn lực chính phủ phân bổ cho trẻ em và người già.

Khi thảo luận về sự phân chia chính trị lâu dài của khoảng cách thế hệ, nhà văn chính trị Ronald Brownstein đã định nghĩa nó như một sự phân chia giữa “người da xám và người da nâu”, trong đó người da trắng lớn tuổi, bao gồm cả những người trẻ lớn tuổi, ưu tiên đầu tư của chính phủ nhỏ hơn vào các chương trình hỗ trợ xã hội ngoại trừ cho những người, chẳng hạn như An sinh xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến họ. Đối với những cử tri lớn tuổi này, chính phủ có liên quan đến thuế cao hơn, điều này chủ yếu mang lại lợi ích cho các nhóm nhân khẩu học trẻ hơn mà họ không đánh giá cao nhu cầu của họ. Ngược lại, các cuộc khảo sát cho thấy thanh niên đa dạng hơn, đặc biệt là thế hệ millennials, có xu hướng ủng hộ chi tiêu lớn hơn của chính phủ cho giáo dục, y tế và các chương trình phúc lợi xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các gia đình và trẻ em.

Điều quan trọng đối với những người mới sinh con sắp nghỉ hưu phải hiểu rằng khả năng thanh toán của các chương trình hưu trí và chăm sóc y tế do chính phủ hỗ trợ phụ thuộc trực tiếp vào năng suất trong tương lai và đóng góp thuế trả lương của lực lượng lao động trong đó người thiểu số, đặc biệt là người gốc Tây Ban Nha, sẽ chi phối sự tăng trưởng trong tương lai. Có một thách thức được thừa nhận rõ ràng trong việc cung cấp cho những người lao động tương lai này các kỹ năng cần thiết để thực hiện những đóng góp này và để đáp ứng thách thức đó đòi hỏi đầu tư công vào giáo dục và các dịch vụ liên quan. Tuy nhiên, vấn đề nan giải là các chương trình lớn nhất của chính phủ mang lại lợi ích trực tiếp cho người cao tuổi, chẳng hạn như An sinh xã hội và Medicare, hầu hết được tài trợ bởi chính phủ liên bang và được nhiều người coi là đạo lý về mặt chính trị. Ngược lại, các chương trình dành cho thanh thiếu niên, chẳng hạn như giáo dục, phần lớn được tài trợ ở cấp tiểu bang và địa phương và dễ bị tổn hại hơn nhiều trước suy thoái kinh tế và cắt giảm ngân sách do các bang, không giống như chính phủ liên bang, được yêu cầu cân đối ngân sách hàng năm. Do đó, những nỗ lực nhằm tập hợp sự hỗ trợ cho các chương trình hướng tới trẻ em đòi hỏi sự hỗ trợ từ cấp cơ sở trên một địa hình chính trị thường xuyên khó khăn. Trong tương lai, nhiều người dân tộc thiểu số trẻ tuổi sẽ bước vào tuổi bỏ phiếu chính và cả hai đảng chính trị quốc gia sẽ cần phải cân bằng nhu cầu và mối quan tâm của cử tri mới và cũ, đặc biệt là ở các vùng của đất nước nơi có khoảng cách văn hóa thế hệ đang xuất hiện.

“Khoảng cách văn hóa thế hệ giữa người trẻ và người già có thể làm trầm trọng thêm sự cạnh tranh về nguồn lực vì sự gia tăng số lượng người cao tuổi phụ thuộc đang xảy ra nhanh hơn ở người da trắng so với người thiểu số, những người mà trẻ em phụ thuộc là một vấn đề lớn hơn.”

Mặc dù khoảng cách này đang hình thành trên toàn quốc, sự gia tăng của nhóm dân số thiểu số trẻ tuổi mới và sự gia tăng ổn định hơn của nhóm dân số da trắng già đang diễn ra với tốc độ khác nhau ở các vùng khác nhau. Các nhóm dân số trẻ đa dạng và đa dạng về chủng tộc nhất ở các tiểu bang và các khu vực đô thị ở Tây Nam, Đông Nam và các trung tâm nhập cư đô thị lớn, nơi các nhóm thiểu số mới đã hiện diện. Một thước đo viết tắt cho những gì đang xảy ra trong một tiểu bang hoặc khu vực đô thị là sự khác biệt giữa tỷ lệ phần trăm người cao niên là người da trắng và phần trăm trẻ em là người da trắng. Vào năm 2010, 80 phần trăm dân số cao tuổi của Hoa Kỳ và 54 phần trăm trẻ em là người da trắng, vì vậy khoảng cách quốc gia là 26 phần trăm. Nhưng trong số các tiểu bang, Arizona dẫn đầu với khoảng cách là 41 phần trăm (83 phần trăm người cao niên và 42 phần trăm trẻ em là người da trắng). Nevada, California, New Mexico, Texas và Florida không kém xa, với các thước đo chênh lệch lớn hơn 30. Trong số các khu vực đô thị lớn, khoảng cách lớn nhất là ở Riverside, California; Phượng Hoàng; Las Vegas; và Dallas.

Ngược lại, những vùng rộng lớn — chủ yếu là người da trắng — của đất nước, bao gồm cả vùng Đông Bắc, Trung Tây và Appalachia, đang quan sát thấy sự phát triển chậm lại hoặc thậm chí giảm sút ở lứa tuổi thanh niên của họ trong khi vẫn là nơi sinh sống của một số lượng lớn trẻ em da trắng và người cao niên. Các cấu hình demo-đồ họa của các vùng này, cùng với các cấu hình của các khu vực đô thị như Pittsburgh, Cincinnati và St. Louis, cuối cùng sẽ hội tụ với các cấu hình của các vùng đa dạng hơn của đất nước. Nhưng trong thời gian tạm thời, họ sẽ thích nghi, thường là phù hợp, với những thay đổi xảy ra ở nơi khác.

Tuy nhiên, những nơi mà khoảng cách văn hóa thế hệ gây ra nhiều tranh cãi nhất là những nơi mà mức độ tăng trưởng của các dân tộc thiểu số mới là lớn và gần đây. Arizona là biểu tượng vì khoảng cách lớn của nó và mức tăng trưởng người Tây Ban Nha gần đây là 175 phần trăm từ năm 1990 đến năm 2010. Năm 2010, tiểu bang đã thông qua một trong những luật chống nhập cư nghiêm ngặt nhất từng được ban hành, mặc dù nó đã được sửa đổi sau đó và một số phần của luật đã bị bãi bỏ của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Các quy định bao gồm các yêu cầu rằng cư dân phải mang theo giấy tờ xác minh quốc tịch của họ; nếu không, họ sẽ bị bắt, giam giữ và có thể bị trục xuất.

Một cuộc thăm dò trên toàn tiểu bang được thực hiện vào thời điểm đó đã phân chia theo các ranh giới chủng tộc: 65% người da trắng nhưng chỉ có 21% người gốc Tây Ban Nha ủng hộ luật mới. Tương tự, luật được ủng hộ bởi 62 phần trăm những người từ 55 tuổi trở lên (ở tất cả các chủng tộc) nhưng chỉ 45 phần trăm những người dưới 35 tuổi. Utah, đề xuất luật nhập cư nghiêm ngặt tương tự.

Khi người dân tộc thiểu số mới tiếp tục phân tán ra bên ngoài khỏi các cánh cổng truyền thống, khoảng cách văn hóa thế hệ sẽ xuất hiện trong các cộng đồng thuộc mọi quy mô, nhưng nó sẽ rộng nhất ở các bang nơi mà sự phát triển của các nhóm thiểu số mới và đặc điểm nhân khẩu học về chủng tộc của thế hệ trẻ khác nhau nhiều nhất từ thế hệ cũ.

Do đó, ở nhiều cấp độ khác nhau, sự lan rộng liên tục của các dân tộc thiểu số mới từ dưới lên trong phân bố theo độ tuổi của quốc gia tạo ra những cơ hội quan trọng cho sự tăng trưởng và năng suất của dân số và lực lượng lao động của quốc gia. Nhưng sự lan truyền đó cũng đặt ra những thách thức trong bối cảnh sự thay đổi văn hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Sự phân chia sẽ đòi hỏi sự thích ứng của tất cả các bên, và các nhà hoạch định chính sách cũng như người dân sẽ cần tiếp cận những thay đổi này với một tầm nhìn dài hạn. Thay vì coi những thay đổi không thể tránh khỏi là tổn hại đến lối sống của người Mỹ, họ sẽ khuyến khích quốc gia này cân nhắc đến tương lai của đất nước và chuẩn bị ngay từ bây giờ cho một quốc gia chiếm đa số – thiểu số.

William H. Frey là thành viên cấp cao tại Viện Brookings và là giáo sư nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Dân số và Viện Nghiên cứu Xã hội tại Đại học Michigan. Ông là tác giả của Diversity Explosion: How New Racial Demographics Are Remaking America, từ đó tiểu luận này được chuyển thể.

Thursday, March 24, 2022

Tâm Thường Định | CHIẾC ÁO NHẬT BÌNH LAM CỦA THẦY

CHIẾC ÁO NHẬT BÌNH LAM CỦA THẦY 


Gần hai thập niên trước, lần đầu gặp Thầy, hình ảnh của Thầy sao mà ‘thư sinh’ và ‘dễ yêu’ đến thế. Thầy là sự biểu tượng của một hình ảnh dễ thương, dễ mến của Tăng sĩ Việt Nam với chiếc áo Nhật bình màu Lam. Một màu hiền hoà mà Thầy chọn vì màu ấy, là “màu từ bi, màu hỷ xả thơ ngày; màu thanh tịnh, màu đong đầy huyền diệu!”


Với nụ cười hiền hòa, vui tươi, vi tiếu, và duyên dáng, Thầy đã chuyển hoá và đem giáo lý Phật Đà đến gần đến mọi người từ đoàn sinh GĐPT đến với quý cụ già, từ các chú tiểu Sa-di đến hàng Giáo phẩm cao cấp.


Với từ tâm rộng lớn và trí tuệ uyên thâm, Thầy đã truyền trao tinh hoa của Đạo Phật và hạnh làm người đến với tứ chúng. Với Chư Tăng Ni, Thầy luôn thương yêu, bảo bọc, che chở và dạy dỗ; có lần con chia sẻ một hoàn cảnh về việc học của một vị thầy trẻ ở Việt Nam, Thầy móc túi gửi tiền tặng liền và còn hứa khả sẽ bảo lãnh qua Hoa Kỳ nếu thầy ấy muốn đi. Với hàng cư sỹ hay tổ chức Gia Đình Phật Tử cũng vậy, Thầy lúc nào cũng vui vẻ, nhẫn nại, dạy bảo, yêu thương, bao dung và tha thứ. Vào những dịp Tết, khi tham dự Lễ Bố Tát của Chư Tôn Đức trong miền Bắc California, Thầy là người luôn tặng quà lì xì cho tất cả các thính chúng.  Vừa được lộc, vừa được tiền, nên ai cũng vui vẻ và thấy gần gũi với chư Tăng Ni và cảm thấy được yêu thương. 


Tuổi đã già mà Thầy cho việc họ là ưu tiên hàng đầu. Tuổi đã ngoài 50, mà Thầy không quảng ngại khó ngăn đi du học bên Ấn Độ, lấy được văn bằng tiến sỹ và nhiều giấy chứng chỉ. Có lần Thầy khoe và nhờ đưa lên các Trang nhà Phật giáo dùm Thầy. Chúng tôi được biết, vào năm 2003, lúc Thầy khoảng 57 tuổi, Thầy đỗ văn bằng Tiến Sĩ, Luận án ấy có tên, “A Comparative Study Of The Bhikkhu Pātimokkha Of The Principal Buddhist Schools (So sánh Tỷ kheo Giới bổn trong các trường phái chính của Phật Giáo).”  


Gần 2 thập niên quen biết, học hỏi và làm việc cùng Thầy. Mới thấy sự tận tụy, miệt mài của Thầy, nhất là những khi dịch kinh điển. Tuổi cao mắt mờ và không rành máy tính, Thầy viết bằng tay, dò từ chữ với kính rọi phóng đại. Rồi nhờ người đánh máy, rồi Thầy dò lại, v.v… Nghiệp làm sách, trong đó có những tập kinh của Thầy dịch, có lần Thầy gởi tiền lì xì tặng "người thiết kế sách" và nhắc anh chàng tội nghiệp, bảo rằng "dẫu có hư, nhưng không hỏng", hãy thương yêu đùm bọc nhau và làm việc cho Phật giáo. Thầy là một số ít vị Tăng lữ xem việc ấn bản những kinh kệ, sách vở văn hoá Phật giáo là quan trọng và thường khuyến tấn. Thầy, một con người khiêm cung, hiền hoà và mẫu mực.

Khi Thầy dịch kinh: Ảnh Chúc Tiến

Thầy mang theo hạnh nguyện, nụ cười và chiếc áo đó hoằng dương Chánh pháp khắp nơi, nhất là trên đất nước Hoa Kỳ. Thầy không bận tâm đến cơ sở vật chất hay chùa to Phật lớn. Hạnh nguyện của Thầy là hoằng pháp và giáo dục. Nơi nào cần đến, Thầy đến. Chỗ nào mời Thầy đi, mà theo tiếng gọi thân thương của Thầy là “đi đánh bắt xa bờ" vì Thầy không có kêu gọi Phật tử địa phương cúng tịnh tài. Chỗ nào cúng dường cơ sở, Thầy nhận, hết duyên thì Thầy rũ nhẹ mà đi. Nhưng đâu đâu, việc giảng dạy cho chư Tăng ni và Phật tử là ưu tiên hành đầu.


Với trọng trách là Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Giáo Dục Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHK, Thầy liên tiếp tổ chức các khóa tu học, khóa an cư kiết hạ, truyền dạy giáo lý Phật pháp cho Tăng ni, Phật tử và huynh trưởng GĐPT. Trong đại dịch COVID-19, Thầy cũng đã tận tuỵ giảng dạy qua hệ thống Zoom, Google Meet, và qua Conference calls, cũng với năng lượng thanh lương và lòng từ bi lân mẫn của Thầy, Thầy đã nuôi dưỡng đạo tâm của chúng con.


Viết đến đây, con cũng vẫn còn ngạc nhiên, thương xót trước sự chuyển tiếp nghiệp duyên của Thầy vì chỉ tuần trước, Thầy về Chùa Kim Quang, Thầy trò đã trao đổi một vài Phật sự của Hội Đồng Hoằng Pháp. Nay Thầy đã khuất, con xin nguyện làm một vài Phật sự Thầy trò đã thảo luận.


 Thầy đi hóa độ nghiệp duyên

Hạnh Hưng, Thị Đạt, Đỗng Tuyên Phật đài


Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42, huý thượng Thị hạ Đạt, tự Hạnh Hưng, hiệu Đỗng Tuyên giác linh Hoà thượng tuỳ từ chứng giám.


Sacramento, ngày 24 tháng 03 năm 2022

Tâm Thường Định kinh bái