Thầy Hạnh Viên và nhà văn Nhã Ca tại phòng làm việc nhật báo Việt Báo (Ảnh: Uyên Nguyên) |
Giới thiệu
Tư tưởng Phật giáo Ấn độ (Buddhist Thought in India) là công trình biên khảo công phu của Edward Conze, được xuất bản năm 1962. Trong gần 500 trang sách ông đã dựng lại toàn bộ dòng phát triển của tư tưởng Phật giáo của hầu hết các tông phái ở Ấn độ, trải qua ba giai kỳ phát triển triết học, từ Phật giáo sơ kỳ đến Phật giáo thời phân chia bộ phái, và cuối cùng là Phật giáo phát triển Đại thừa. Một tập đại thành vô số tài liệu quý liên quan đến hầu hết các bộ phái Phật giáo chủ yếu, được sưu tập và phân tích theo tiêu chuẩn học thuật hàn lâm, được nhận định và trình bày với tinh thần trách nhiệm và thẩm quyền đương nhiên của chính tác giả.
Edward Conze là một tên tuổi không xa lạ với độc giả học Phật Việt Nam. Ông là một học giả nổi tiếng trong giới nghiên cứu Phật học Tây phương, Phó chủ tịch Hội Phật giáo Anh quốc, và hơn hết, là một nhà thực chứng tu trì thiền định không khoát áo tu sỹ.
Eberhart (Edward) Julius Dietrich Conze, người Anh gốc Anglo-Đức, ra đời năm 1904 khi cha ông đang là Phó Lãnh sự Đức tại Anh quốc. Conze thuộc một gia đình hỗn hợp ba chủng tộc Đức-Pháp-Hà lan. Ông được hưởng nền giáo dục của nhiều trường Đại học Đức, và với khả năng ngoại ngữ thiên phú, ở độ tuổi 24 ông đã thành thạo 14 thứ tiếng kể cá cổ ngữ Sanskrit. Có lẽ ông là nhà biên dịch tiên phong nổi tiếng nhất về kinh điển Phật giáo ở Tây phương.
Cũng như đa số người châu Âu, đầu tiên Conze tiếp xúc với Thần học, nhưng đồng thời ông cũng thích khoa chiêm tinh học. Ông say mê nghiên cứu môn học này và giữ trọn đam mê đó cho đến suốt đời. Mới ở độ tuổi thanh niên ông đã viết cuốn sách đầy tiềm năng, The Principle of Contradiction [Nguyên lý mâu thuẫn]. Conze thuộc giới trí thức Trung Âu tị nạn, trời bỏ quê hương Đức trước chiến tranh, như nhiều người khác. Ông là đại diện của thế hệ tiền-chiến tranh ở Tây phương thất vọng về các lý tưởng chính trị, tuy nhiên ông không thuộc tầng lớp ưu đãi trong giới trí thức thế kỷ 20, vì ông thường chỉ trích nhiều khuynh hướng tư tưởng đương đại… Ông khác nhiều người ở chỗ đã không hoàn toàn đánh mất niềm tin tôn giáo; ông đã thăng hoa các lý tưởng chính trị sang Phật giáo.
Conze trưởng thành trong thời kỳ Hitler tiến dần đến quyền lực. Ông chống lại lý tưởng Quốc xã nên đã gia nhập đảng Cộng sản, nghiên cứu tư tưởng Marxist, và dường như có thời ông đã từng lãnh đạo phong trào cộng sản ở Born, mà trong quyển Tự truyện [The memoirs of a modern Gnostic] của ông có kể đến việc tổ chức các đội dân phố cộng sản ở Hamburg, một việc làm khiến cuộc sống ông hết sức nguy hiểm trong một thời gian ngắn.
Năm 1933 ông trở lại Anh quốc, phục hồi quốc tịch Anh để dự phòng. Bấy giờ ở tuổi 29, ông gần như vô sản và chưa có sự nghiệp gì. Ông kiếm sống bằng việc dạy tiếng Đức, theo các lớp học buổi tối, và trở thành đảng viên đảng Lao động Anh. Ở đây ông đã gặp gỡ nhiều nhân vật sáng giá và giới trí thức trong phong trào Lao động Anh, nhưng đã không có ấn tượng gì. Ông hoạt động rất tích cực trong phong trào XHXN ở Anh, diễn thuyết, viết sách, báo, cho đến khi vỡ mộng về các hoạt động chính trị. Năm 35 tuổi ông trải qua cuộc khủng hoảng tri thức và sụp đổ tinh thần toàn diện. Đến cả việc hôn nhân cũng bất thành. Trong hồi ký ông đã thú nhận “tôi là một trong những người bất hạnh đó, những người không thể sống với phụ nữ mà cũng không thể sống thiếu họ.”
Chính vào thời điểm này mà ông phát hiện – hay đúng hơn là phát hiện trở lại – Phật giáo. Năm 13 tuổi ông đã đọc cuốn ‘Gleanings in Buddha Fields’, [Góp nhặt trên ruộng Phật], của Lafcadio Hearn. Nhưng sự tiếp cận Phật giáo đầu tiên có tác động đến Conze là ở giai đoạn trung niên này, thời kỳ bắt đầu chiến tranh thế giới thứ hai, khi ông đọc qua các tác phẩm của D.T. Suzuki.
Bị hấp dẫn mãnh liệt, Conze dành trọn cuộc sồng từ đây cho nghiên cứu Phật học, mà công trình tiêu biểu đầu tiên là phiên dịch bộ kinh Bát-nhã-ba-la-mật một trước tác căn bản của Phật giáo Đại thừa.
Tuy nhiên Conze không chỉ là một học giả Phật giáo theo nghĩa kinh viện. Suốt thời kỳ chiến tranh, ông sống trong một toa xe lưu động trong vùng New Forest và thực hành thiền định, nghiêm cẩn chấp trì các phương pháp trong Thanh tịnh đạo luận [Visuddhimagga] của Buddhaghosa, và được cho là đã chứng nghiệm một số giai vị thiền định. Nhưng bản tánh kiêm cung, ông thừa nhận với đọc giả rằng ông là một nhà nghiên cứu Phật học chứ không phải là một nhà tu, do đó mọi người đừng thất vọng nếu như hành vi và tư cách của ông có lúc không phù hợp với Phật đạo. Rải rác trong dịch phẩm này độc giả sẽ nhận thấy, có những ý kiến của ông không nhằm phô diễn tri thức về Phật học, mà để nói lên các khó khăn thực tế trong việc định nghĩa và giải thích trong việc tu trì, nhất là trong lĩnh vực thiền định.
Khi chiến tranh kết thúc, ông chuyển về Oxford và tái lập gia đình. Năm 1951 ông xuất bản cuốn ‘Buddhism: Its Essence and Development’, một tác phẩm thành công vang dội, được dịch ra nhiều thư tiếng và đến tận nay vẫn còn hữu dụng.[1] Tuy nhiên thành quả thật sự của ông trong 20 năm tiếp theo là công trình biên dịch hơn 30 tác phẩm thuộc hệ kinh Bát-nhã-ba-la-mật, bao gồm cả hai bộ kinh nổi tiếng nhất trong văn tịch Phật giáo là kinh Kim Cang và Tâm kinh Bát-nhã. Công trình biên dịch các trước tác Phật giáo sang ngôn ngữ Tây phương của ông thật vĩ đại, có thể sánh với hai bậc tiền bối Đông phương là Cưu-ma-la-thập (…, tk. 5 stl.) và Huyền Trang (như sách, tk. 7 stl.).
Trong hai thập niên 60 và 70, ông thường xuyên được mời diễn thuyết khắp các trường Đại học Hoa kỳ, rất quen thuộc trong giới nghiên cứu Phật học và sinh viên Mỹ. Tuy nhiên bản tính bộc trực hay nói thẳng, ông vấp nhiều sự phản đối của giới thẩm quyền Đại học Mỹ, kể cả một số đồng nghiệp, nên cuối cùng ông rời Hoa kỳ trở về Anh quốc.
Ông mất tại quê nhà ở Sherborne, Dorset, ngày 24/9/1979, để lại một di sản học thuật phong phú ít người cùng thời sánh kịp, mà sau đây là một số tác phẩm tiêu biểu:
- Buddhist Meditation, 1956. Cũng như cầu nguyệntrong đời sống của một tín đồ Cơ-đốc giáo, thiền địnhlà trọng tâm đời sống Phật giáo. Tác phẩm giải thích ý nghĩa và mục tiêu của thiền định, giới thiệu các hành trì để giữ gìn sự tỉnh thức về thân và tâm, các tư thế ngồi, hơi thở, và xả bỏ thế giới cảm quan…
- Buddhism: Its Essence and Development, 1959. Tìm hiểu các học thuyết, phương pháp hành trì và nền văn học phát triển trong nhiều trường phái Phật giáo như là kết quả của những cách tiếp cận tuy khác nhau của họ nhưng hướng về cùng một mục tiêu: đi tìm phước lạc chân thật.
- Buddhist Scriptures, 1959. Sưu tập và biên khảo về ba tác phẩm Phật giáo: Tử thư Tây tạng, Milinda vấn đạo, kinh Pháp cú.
- The (…) Literature, 1960.
- Buddhist Texts through the Ages, 1964. Hợp tuyển độc nhất các kinh văn ghi dấu dòng phát triển Phật giáo qua các thời đại, với các bản dịch từ văn tịch gốc Pali, Sanskrit, Tây tạng, Hán và Nhật ngữ.
- Buddhist Throught in India, 1962 & 1967. Khảo luận về lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai kỳ phát triển triết học…
- Thirty Years of Buddhist Study. Selected Esays, 1967.
- On Indian Mahayana Buddhism, đồng tác giả với D.T. Suzuki, 1968.
- The Perfection of Wisdom in Eight Thousand Lines and Its Verse Summary (Bát-nhã bát thiên tụng), 1973.
- The Perfection of Wisdom, 1973 [bản dịch kinh Bát-nhã-ba-la-mật].
- Short History of Buddhism, 1980. Lược sử về mọi khía cạnh chủ yếu trong 2500 năm phát triển Phật giáo, từ Tiểu thừa, Đại thừa, Mật giáo, Thiền tông…
- The Large Sutra on Perfect Wisdom (with the divisions of Abhisamayalankara) [bản dịch kinh Đại phẩm Bát-nhã].
- Perfect Wisdom: The Short (…)Texts. Đại Bát-nhã là một hợp tuyển gần 40 kinh, được biên soạn trong khoảng thời gian từ năm 100 ttl. – 600 stl., gồm hai loại là các văn bản dài (quảng bản) và ngắn (lượt bản). Đây là bản dịch các kinh ngắn, bao gồm cả một số bộ nổi tiếng như Tâm kinh Bát-nhã, kinh Kim Cang…
- Buddhism Wisdom Books: the “Diamond Sutra” and the “Heart Sutra” [bản dịch kinh Kim Cang và Tâm kinh Bát-nhã].
- (…) and Related Systems: Study in honor of E. Conze, đồng biên soạn: Lewis Lancaster, Luis O Gosmez và E. Conze, 1977.
- The Memoirs of a Mordern Gnostic, [Tự truyện], 1979.
Quảng Hương Già Lam
Mùa An cư PL. 2551
Hạnh Viên.
Mùa An cư PL. 2551
Hạnh Viên.