Vào Cõi ‘Tâm Trong’
Huỳnh Kim Quang
Có chàng lãng tử lưu lạc giang hồ từ thuở thiếu
thời, bỗng một hôm nghe hung tin người cha già rời bỏ trần gian, lòng bồi hồi nhớ
đến lời dặn dò năm xưa của cha, lời rằng, “Dù vui, buồn giữ mãi cái tâm trong.”
Chàng lãng tử đó là nhà thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du, một trong mười nhà thơ -- gồm
Bạch Xuân Phẻ, Hàn Long Ẩn, Huyền, Nguyên Lương, Nguyễn Hoàng Lãng Du, Nguyễn
Phúc Sông Hương, Nguyễn Thanh Huy, Phan Thanh Cương, Trần Kiêm Đoàn, và Tuệ Lạc
-- có mặt trong tuyển tập thơ Tâm Trong vừa mới được nhà sách lớn nhất thế giới
Amazon phát hành vào trung tuần tháng 12 năm 2015.
Trên đời này, đối với những người con chí hiếu
thì có gì linh thiêng và xác thật hơn lời cha dặn! Lời cha dặn là lời chứng của
sự trải nghiệm đắng cay, ngọt bùi, thành bại, nên hư, được mất cả một cuộc đời.
Tâm Trong là lòng sạch như băng tuyết trên đỉnh cao chót vót, là lòng trong sáng
rạng ngời như nhật nguyệt trên tầng không bao la vô tận. Như mặt hồ trong và lặng
có thể phản chiếu ánh trăng trong sáng tròn đầy, tâm trong lắng xuống những ô
trược để phản chiếu tự tánh thanh tịnh hồn nhiên.
“Hồ tâm phẳng lặng lung linh trăng vàng.”
(Dưới Nhành Liễu Xanh, Huyền)
Nhà Phật gọi tâm đó là tâm chúng sinh, gồm có chân
và vọng, thật và giả, Phật và chúng sinh. Cái tâm trong đó bao trùm tất cả các
pháp, lớn thì như cõi thái hư mười phương pháp giới, nhỏ thì như một hạt bụi vi
trần mắt phàm không thấy nổi. Từ tâm đó mà các pháp sinh. Từ tâm đó mà thơ ra đời.
Tâm càng trong cảnh hiện càng rõ, càng nguyên sơ. Khi tâm cảnh hòa quyện lấy
nhau, thơ sẽ là âm ba, là giai điệu oà vỡ trong những khoảnh khắc tuyệt vời nhất.
Tâm càng trong, thơ càng vi diệu, mượt mà, sâu lắng, rung động lòng người.
“Ta lấy viết phết cuộc đời lên giấy
Nghe đất trời cuồn cuộn âm ba…”
(Nét Cọ Cuộc Đời, Hàn Long Ẩn)
Nhưng có lúc tâm trong cũng như một tờ giấy trắng.
“Tâm yêu lặng như một tờ giấy trắng.” (Bồ Tát Xuống Trần, Trần Kiêm Đoàn)
Đó là lúc phiền não tan đi, cõi lòng yêu tịnh. Bởi
thế, ngày xưa, tại Ấn Độ, có ông bồ tát cư sĩ Vimalakirti (Duy Ma Cật) một hôm
nói trước những cao đồ bậc nhất của đức Phật rằng, “Tùy kỳ tâm tịnh, tức Phật độ
tịnh,” (tùy tâm mình trong tới đâu, mà cõi Phật mình trong tới đó). Tâm trong ở
trong nhà thì thấy cái nhà là cõi Phật. Tâm trong ở chợ thì thấy cái chợ là cõi
Phật. Tâm trong ở chốn lầu xanh thì thấy lầu xanh là cõi Phật. Tâm trong ở địa
ngục thì thấy địa ngục là cõi Phật. Cõi Phật là cõi trong sạch tột cùng không gì
trong và sạch hơn.
“Bồ Ðề như chiếc cầu ngang,
Bắt qua văn tự bao hàng chữ “Như”:
Như không, như có, như từ...
Như lìa tâm cảnh thì “như” mới tròn!”
(Nhặt Lá Bồ Đề, Tuệ Lạc)
Tâm Trong là tuyển tập thơ của mười tác giả gồm
khoảng trên 120 bài thơ, dày 240 trang, do Trung Đạo xuất bản tháng 12 năm 2015.
Khi chọn hình bìa là những căn nhà ổ chuột mọc trên con nước đen, các tác giả
muốn nói lên ý nghĩa “tâm trong” ngay chính nơi hiện thực xã hội Việt Nam khi
con người sống “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn,” và cũng để mong ước sự vượt
thoát, vươn lên của con người trong thế giới khổ đau, đen tối đó.
Đọc từng trang của tuyển tập thơ Tâm Trong, tôi
thấy như mình đang bước vào một vườn hoa văn học với vô số những kỳ hoa dị thảo
đang khoe sắc thắm tươi và tỏa hương ngào ngạt. Đọc từng câu thơ của Tâm Trong
lòng tôi cũng nhẹ bớt đi phiền não lao xao của cuộc sống đời thường, và thấy tâm
mình cũng trong theo với những vần thơ trong vắt của mười tác giả. Điều may mắn
của tôi là có thể đọc được những bài thơ hay của mười tác giả trong một tuyển tập
mà không cần phải mất công tìm tòi ở đâu xa để đọc và thưởng thức. Quả tình, nếu
không đọc được Tâm Trong thì chưa chắc tôi đã có duyên để đọc thơ của tất cả những
nhà thơ có mặt trong tuyển tập thơ này.
Đọc Tâm Trong mang lại cho tôi nhiều thú vị quý
báu. Một trong những điều làm tôi thú vị nhất khi đọc Tâm Trong là ở đây tôi có
thể tìm được những vần thơ chuyên chở hầu như tất cả những sắc thái, trạng huống,
thực trạng, và ý nghĩa của cuộc đời, từ tình yêu, đạo lý, triết lý, tôn giáo,
Phật, Chúa, chiến tranh, cái chết, sanh ly tử biệt, đến quê hương, dân tộc, lịch
sử, phong tục, tập quán, xuân, hạ, thu, đông, Tết Tây, Tết Ta, v.v… Nói chung là
mọi chuyện trên đời đều được mười nhà thơ cảm nhận bằng cái tâm trong một cách
tinh tế và sâu sắc rồi thổi chúng vào chữ, họa chúng thành hình và phối khí thành
giai điệu để cho người đọc tha hồ thưởng thức.
Mượn đôi chân trần của Bạch Xuân Phẻ để dạo
quanh một vòng cõi Tâm Trong, tôi đã có ngay cảm giác lâng lâng nhẹ bay như mây:
“Chân trần gót ngọc hôn trên lá
Bỏ lại lợi danh hạt sương gầy
Chiều đâu xao xuyến vàng sông lạ?
Nhịp thở nhẹ hìu bóng chân mây.”
(Đôi Nhịp Chân, Bạch Xuân Phẻ)
Nhờ xem lợi danh mong manh giả tạo như giọt sương
đầu cành sáng có chiều không mới nhận ra cuộc đời chỉ là “cuộc thế eo xèo,” như
nhà thơ Hàn Long Ẩn đã vẽ ra trong Nét Cọ Cuộc Đời:
“…
Từ điểm khởi ta sổ dài kiếp sống
Như đường gươm vun vút lao nhanh
Rồi đứng yên ngó lại cuộc vi hành
Tâm ta đó, nét nhòe đậm nhạt.
Đã mang kiếp phong trần phiêu bạt
Thì sá chi cuộc thế eo xèo
Hơn thua nhau tảng đá nặng còn đeo?!
Chấm thêm mực ta phẩy dài lần nữa.
…”
Nhà thơ Nguyễn Thanh Huy đã trải nghiệm cuộc thế
eo xèo, vô thường và khổ đau nên mới tìm về chùa cũ để gặp sư ông mà vấn đạo
cho cuộc sống an lạc. Vừa bước chân vào cõi tịnh (trong) của thiền môn, chưa kịp
gặp sư ông, còn đi lang thang trong sân chùa thì nhà thơ đã chợt ngộ ra rằng Phật
tại tâm.
“…
Vào chùa tìm lại sư ông,
Lời kinh ngày cũ trong lòng còn in,
Ngẩn ngơ một thoáng đứng nhìn,
Hỏi tâm mới thấy bóng hình Như Lai.
Từ lang thang giữa trần ai,
Tử sinh mấy độ trải dài cuộc chơi,
Lang thang góc bể chân trời,
Rồi mai cõi tạm xa rời xác thân.
(Vẫn Trắng Tay Đời, Nguyễn Thanh Huy)
Tử sinh từ đó đã thành vấn nạn của cuộc đời, còn
khổ đau như nghiệp dĩ cứ dai dẳng bám theo kiếp người từ thuở lạc vào bến mê. Nhờ
tâm trong mà con người nghĩ đến con đường giác ngộ để giải thoát khổ đau. Vì vậy,
nhà thơ Tuệ Lạc đã dẫn ta đi “Nhặt Lá Bồ Đề.” Bồ đề là giác ngộ, nhặt lá bồ đề
là nhặt lấy giác ngộ.
“Tôi đi nhặt lá Bồ Ðề,
Treo lên để nhớ lối về của tâm.
Mỗi chiều nghe tiếng chuông ngân,
Loang đi như dẫn xa dần bến mê…
…”
Nhờ nhặt lá bồ đề mới nhớ lối về của tâm. Lối về
của tâm chính là con đường thực hành bồ tát hạnh. Hạnh bồ tát là sống không chấp
ngã, không chấp pháp, không vị kỷ tham sân, luôn luôn làm lợi lạc cho người khác,
cho chúng sinh, giúp họ giác ngộ vô minh và giải thoát đau khổ, từ vật chất đến
tinh thần, từ thể xác đến tâm thức. Thực hành hạnh bồ tát vì vậy, không chấp ở
hình danh sắc tướng mà cốt là ở tâm từ bi vô lượng và trí tuệ sáng suốt vô biên.
Nhà thơ Trần Kiêm Đoàn đã kể cho chúng ta nghe về
hình ảnh một vị bồ tát vô danh đang có mặt ở trần gian này như con người bằng xương
bằng thịt mà ông đã một lần tận mắt thấy. Đó là một cựu sĩ quan cấp bậc đại tá
không quân trong quân đội Hoa Kỳ từng tham chiến trong cuộc chiến tranh Việt
Nam, nay đã về hưu và mỗi ngày đi lượm lon đem bán để lấy tiền nuôi trẻ mồ côi.
“…
tôi đi loanh quanh gặp một bồ tát trên góc phố
hiện thân thành một ông già Mỹ trắng cực khổ
tôi hỏi ông đi đâu quá sớm thế
trời lạnh kiểu này bên ngoài âm độ
Ông già nói ta đi lượm lon và chai không
sợ đợi hơi trưa xe vệ sinh hốt mất
tôi hỏi sao ông không xin tiền trợ cấp
tiền tuổi già tiền tàn tật nước Mỹ thiếu gì
ông già nói xin làm chi ta dư tiền hưu trí
huy chương đầy mình xưa ta là đại tá không quân
trưởng phi hành trong chuộc chiến việt nam
cuộc chiến đã tàn ta làm từ thiện
nuôi lũ trẻ mồ côi bên đó hay ở đâu cũng được
ta lượm lon mỗi tuần hai lần
bán đủ tiền cơm nuôi ba mươi đứa nhỏ
dăm bảy chục nghìn đô la sá chi mà chẳng có
nhưng ta muốn nuôi bằng tâm huyết của mình
như thân xác nầy cần nuôi một trái tim
…”
(Bồ Tát Xuống Trần, Trần Kiêm Đoàn)
Trong truyền thống Phật Giáo Đại Thừa, vị bồ tát
được nhiều người biết đến vì lòng từ bi bao la rộng lớn thương yêu và cứu giúp
chúng sinh như mẹ hiền thương con là Bồ Tát Quán Thế Âm, hay Quan Âm, mà chúng
ta thường thấy tượng ngài được tôn trí trong nhiều chùa. Nhà thơ Huyền kể cho
chúng ta nghe về công hạnh của Bồ Tát Quan Âm:
“…
Mắt Người thăm thẳm uy nghi
Từ quang soi khắp nẻo đi lối về.
Xua tan cơn mộng cõi mê
Độ người thoát khỏi bốn bề bão giông
Ngàn tay trải rộng hư không
Ngàn mắt soi thấu tận cùng khổ đau.
Quan Âm Bồ Tát nhiệm màu
Hiển linh giữa chốn trần lao độ đời
Hữu thân trong nẻo luân hồi
Tâm hương một nén xin Người chứng tri.
…”
(Dưới Nhành Liễu Xanh, Huyền)
Trong cõi Tâm Trong chắc chắn không thể thiếu hình
bóng quê hương, nơi mà những nhà thơ đã một thời được sinh ra và lớn lên với đầy
ắp tình nhà, tình người, tình quê hương dân tộc. Đặc biệt với những chàng lãng
tử xa quê đã lâu có dịp về lại quê nhà thì cảm xúc thật khó tả giữa ký ức tình
tự thơ mộng và hiện thực xa lạ ngại ngùng.
“Chạm êm ái da chân lên sỏi cát
Từng bước ngập ngừng, thong thả đường quê
Nắng nhiệt đới múa reo trên ruộng lúa
Con cò ngóng nhìn kẻ lạ trên bờ đê
Hít thở ngất ngây mùi bùn đen rạ mục
Mắt lạ lùng nhìn ruộng mía trổ hoa
Mấy năm xa cau dừa lên cao ngọn
Đâu cành che trời rợp bóng tuổi thơ
…”
Xưa gối quê hương trong từng giấc ngủ
Giờ nhìn quê hương ánh mắt xa xăm
…”
(Nhìn Lại Quê Hương, Nguyên Lương)
Với nhà thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du, hình bóng quê
hương vẫn còn trong ký ức nhưng đó là hình ảnh tang thương khói lửa ngút trời của
thời chiến tranh khốc liệt.
“…
Rồi quê hương đêm ngút trời khói lửa.
Viên đạn đồng tàn-nhẫn đã bay qua.
Em nhắm mắt.. Đường mình chia hai ngả.
Anh lang thang, mưa gió, mãi không nhà.
…”
(Trên Giòng Sông Trắng, Nguyễn Hoàng Lãng Du)
Trong ký ức về chiến tranh trên quê hương của nhà
thơ Nguyễn Phúc Sông Hương không có cảnh máu đổ thịt rơi trong hận thù chất ngất,
mà có chút tình người quý giá như bếp lửa đêm đông của người lính Miền Nam thương
cho những người du kích đói lạnh nơi sa trường.
“Ta biết người chờ đêm xuống núi
Kiếm vài túi gạo vác lên rừng.
Ta biết mùa mưa rừng lạnh lắm
Ngươi mò về kiếm tấm nilong.
Người đi cho khéo đừng lay động
Lau lách đôi bờ đang ngủ yên.
Đừng để đầu thôn vang tiếng sủa,
Ta đây nổ súng xé lòng đêm.
….’
(Bên Sông, Nguyễn-Phúc Sông Hương)
Nói đến quê hương và chiến tranh Việt Nam, không
ai không nhớ tới những ngày tháng 4 năm 1975, thời điểm đánh dấu sự kết thúc trận
chiến và mở ra những hệ lụy đau thương sau đó với tù đây, khổ nhục, vượt biên,
tị nạn, v.v…
“tháng tư úp bàn tay anh
dưới bàn tay ấy những vàng – xanh.
anh theo cây rừng mười năm lá rụng
em và trời cũ có thiên thanh?
tháng tư xưa, ngày đang chạy,
ngang qua nhau không kịp vẫy tay chào.
may cho em về trường nối lại những xôn xao,
có dẫm dấu chân anh ngày hôm trước?
…”
(Tháng Tư,
Phan Thanh Cương)
Trong Tâm Trong còn có những mối tình đẹp và mơ
mộng nữa. Nhà thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du gợi nhớ hình ảnh những mối tình chân quê
lãng mạn trong dân ca và thi ca Việt Nam non thế kỷ trước, mà ở đó những gã
thanh niên si tình tán tỉnh cô gái quê gánh rượu trên đồi.
“Hỡi cô gánh rượu trên đồi;
Dáng xuân yểu-điệu, cho tôi gánh cùng.
Gánh Trời, gánh cả Non Sông.
Cô đi, tôi gánh cùng chung đường về.”
(Mơ, Nguyễn Hoàng Lãng-Du)
Hay:
“Khi anh về chiều vàng trên phố nhỏ,
Hàng phượng hồng rực-rỡ đã theo em.
Trường khóa cổng nhưng tình không bỡ-ngỡ,
Ngõ ve sầu như động bước chân quen.”
(Thuở Vỡ Lòng Yêu, Nguyễn Hoàng Lãng-Du)
Và có lúc nhà thơ tưởng chừng trái tim mình đã
khô héo, nhưng không! Nó chỉ ngủ yên đâu đó để rồi một hôm:
“Lang thang sân chùa nắng đọng
Ngõ hồn buốt ngọn thu phong
Trăm năm rã rời cuộc mộng
Vẫn chưa kịp chết cõi lòng...
(Hồn Thu, Huyền)
Đó chỉ là một vài cái góc nhỏ của vườn thơ Tâm
Trong. Vì thích quá không thể giữ trong lòng nên người viết xin giới thiệu với
người đọc một vài cảm nghĩ về tuyển tập thơ Tâm Trong để cùng chia xẻ. Nhưng, tự
mình đọc Tâm Trong độc giả sẽ cảm nhận thấm hơn, trọn vẹn hơn gấp bội phần vài điều
giới thiệu sơ sài ở đây. Hãy đặt mua một cuốn Tâm Trong trên trang nhà www.amazon.com như món quà đầu năm mới.
Đọc Tâm Trong lòng mình sẽ lắng trong và bình an
hơn. Khi cõi lòng lặng yên sẽ thấy thế giới và cuộc đời đáng yêu hơn.
Xin cảm ơn mười nhà thơ trong tuyển tập Tâm
Trong.
Huỳnh Kim Quang
Tập sách mua đây.