Mục đích của bài viết này cho thấy Phật giáo Nhân văn đã phát triển như thế nào hơn 2500 năm trước và đã “tái xuất hiện” trong thế giới ngày nay một phần nhờ vào những nỗ lực kiên định của Đại sư Hsing Yun, thuộc Dòng Phật giáo Phật Quang Sơn, ngôi đền chính ở miền nam Đài Loan.
Từ sự khởi đầu ở miền bắc Ấn Độ bởi Thích Ca Mâu Ni Gautama cho đến thời kỳ phục hưng hiện tại, Phật giáo đã trải qua nhiều biến đổi và phát triển. Đại sư Hsing Yun đã cố gắng nắm bắt tinh túy nguyên thủy từ những lời dạy của Đức Phật, đặc biệt là những điều liên quan đến ứng dụng trong thế giới ngày nay, cũng như phát triển những cách giải thích mới phù hợp với nhu cầu hiện tại. Ông đã xây dựng niềm tin cũng như hành động của mình không chỉ dựa trên giáo lý nguyên thủy của Đức Phật mà còn dựa trên kinh nghiệm và hiểu biết sâu sắc của các bậc thầy trước đó như Tổ sư thứ 6 của Thiền tông, Ven. Huệ Năng, và Ven. Tài Xiu.
Đức Phật đã dạy cách vượt qua khổ đau trần gian cũng như cách đối phó với những vấn đề hàng ngày trong cuộc đời này. Ngài ủng hộ sự bình đẳng của mọi người, sự liên kết của tất cả chúng sinh, sự thiêng liêng của cuộc sống và tạo ra các nguyên tắc liên quan đến việc phát triển lối sống tích cực. Dựa trên những lý tưởng nhân văn này, Grand Master thúc đẩy việc tích hợp những lời dạy của Đức Phật về lòng tốt, lòng từ bi, niềm vui và sự bình đẳng vào cuộc sống hàng ngày vì lợi ích của cả bản thân và người khác. Ông đã tạo ra một mạng lưới các ngôi chùa và phân hội trên toàn thế giới hoạt động để mang Phật giáo đến mọi nơi trên hành tinh này. Ông hy vọng rằng thông qua quá trình này, một Cõi Tịnh độ có thể được phát triển ở đây để tất cả chúng sinh có thể sống cuộc sống của họ một cách tích cực hầu tiến lên những cấp độ cao hơn của sự tồn tại như Bồ tát, Phật quả và Niết bàn.
Bài viết này cho thấy làm thế nào mà Đại sư đã hiện diện giữa sự hỗn loạn của Trung Quốc những năm 1940 để tạo ra hệ thống Phật Quang Sơn đang ảnh hưởng đáng kể đến nhiều nền văn hóa, thông qua các bài viết, giáo lý và hành động xã hội của ông. Cuối cùng, tương lai của Phật giáo Nhân văn được khám phá thông qua nghiên cứu cấu trúc hiện tại của Fo Guang Shan và thu thập quan điểm từ nhiều thành viên trong đó bao gồm cả chính Grand Master.
DẪN NHẬP
Chúng ta đang sống trong thời hiện đại. Phật giáo phải thay đổi cách thức truyền thống của mình bằng cách ra khỏi cánh rừng và đi vào xã hội. Chúng ta phải mở rộng chức năng của các ngôi chùa để phục vụ cộng đồng thông qua sự tham gia của các gia đình, quốc gia và thế giới … v.v. nhằm thúc đẩy sự hòa hợp, hiểu biết và tình bạn giữa tất cả mọi người. – Đại sư Tinh Vân.
Trọng tâm của bài viết này là về Phật giáo Nhân văn, cố gắng mô tả và giải thích cốt lõi các ý tưởng, giáo lý và thực hành của Đại sư Hsing Yun. Bởi vì không ai có thể giải thích đầy đủ hoặc chính xác niềm tin của người khác, và do Phật giáo Nhân văn liên tục “tái hình thành” trong thế giới ngày nay, phần trình bày này chỉ hạn chế dựa trên các bài thuyết pháp mở rộng, kinh nghiệm trực tiếp, các cuộc phỏng vấn và thực hành cá nhân của tôi trong vài năm qua. Ngoài ra, tài liệu bằng văn bản có liên quan đến chủ đề trên đã được đưa vào bài diễn văn này như là bằng chứng hỗ trợ. Tôi sẽ cung cấp cho người đọc quan điểm của Grand Master được thể hiện trong các tham số mà tôi đã và đang làm việc.[1]
Theo Fernando, “cái gì” (nội dung) của Phật giáo Nhân văn sẽ tạo thành công việc cốt lõi của bài viết này, nhưng cả “làm thế nào” và “tại sao” cũng được đưa vào bởi vì; “tại sao” và “như thế nào” xác định “cái gì” (xem Antony Fernando, trang 127). Không có “làm thế nào” và “tại sao”, “cái gì” không thể được hiểu đầy đủ. Tôi tin rằng để giải quyết một chủ đề đa dạng và sâu sắc như Phật giáo Nhân văn, chúng ta cần có một tầm nhìn rộng hơn là chỉ có được từ những thông tin cơ bản. Do đó, bài viết này sẽ minh họa nội dung những lời dạy của Đại sư Hsing Yun một cách đầy đủ nhất có thể, cũng như nguồn gốc và quá trình được sử dụng trong sự phát triển của chúng. Kết quả của những ý tưởng/niềm tin/giáo lý được đưa vào thực tế trong thế giới ngày nay cũng sẽ được trình bày. Bằng cách này, người đọc có thể cảm nhận, ở một mức độ sâu sắc hơn, ý nghĩa của những lời của Grand Master trong bối cảnh của Phật giáo Nhân văn. Cả hai đóng góp lịch sử và hiện tại của Grand Master Hsing Yun sẽ được cung cấp. Trong chừng mực có thể, Phật giáo Nhân văn cũng sẽ liên hệ với giáo lý nguyên thủy của Phật giáo bằng các minh họa, tài liệu tham khảo, trích dẫn và giải thích.
Do đó, mục đích chính của bài viết này là “làm sống lại Ông” cho cộng đồng nói tiếng Anh, để nhiều người có thể hiểu rõ hơn về những đóng góp, lai lịch, lịch sử và ứng dụng của Đại sư Hsing Yun trong thế giới ngày nay.
SƠ LƯỢC VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO NHÂN VĂN
Đạo sư Hsing Yun đã chứng minh rằng chủ nghĩa thực dụng thâm căn cố đế của Phật giáo làm cho nó trở thành một tôn giáo có giá trị ngày nay và mãi mãi. Thêm vào đó, ông chỉ cho chúng ta cách áp dụng những lời dạy của Đức Phật vào cuộc sống hàng ngày của mình… [Đó là]
Phật giáo tham gia phục vụ những người khác và đặt nền tảng trong các cộng đồng tự viện cũng như các tổ chức tại gia dành riêng cho việc giảng dạy và thực hành Phật giáo. Ông tin chắc rằng Phật giáo Nhân văn, trong ý nghĩa thực tiễn của nó, tượng trưng cho mục tiêu của tất cả các trường phái và tông phái Phật giáo trên thế giới, và do đó, phục vụ như một khái niệm thống nhất cho việc xác định lại và giải thích giáo lý Phật giáo vì lợi ích của nhân loại. Hôm nay. (Tiến sĩ Ananda WP Guruge)
Những sự kiện quan trọng trong cuộc đời của Grand Master liên quan đến việc “Trở thành” của ông – Những điều kiện khi bắt đầu
“Phật giáo Nhân văn là đóa sen mới vươn lên khỏi bùn và vươn ra thế giới.” (Đại sư Hsing Yun)
Những năm đầu ở Trung Quốc đại lục
Ông sinh ra trong một gia đình nông dân trung lưu ở vùng nông thôn Giang Đô, tỉnh Giang Tô, miền Đông Trung Quốc vào năm 1927, lúc đó đang xảy ra tình trạng hỗn loạn chính trị / xã hội lớn và bị căng thẳng nặng nề. Nghèo đói và nội chiến tràn lan ở vùng nông thôn nơi cuộc sống mới của ông bắt đầu. Bà của Hsing Yun là một Phật tử thuần thành từ khi bà mười bảy tuổi. Bà ấy là một hình mẫu quan trọng đối với ông ấy, đặc biệt là sự cần cù, tiết kiệm, tốt bụng và khả năng đối phó với những điều kiện mà họ buộc phải sinh tồn. Dưới ảnh hưởng của bà, ông bắt đầu ăn chay khi mới bốn tuổi. Một thời gian sau, ông theo học ở một trường tiểu học địa phương, nơi được coi là một học sinh xuất sắc.
“Mẹ ơi, con sẽ là niềm tự hào của mẹ!”, Hsing Yun nói khi lên 10 tuổi.
“Kinh tế trong nước lúc bấy giờ còn kém phát triển, bắt buộc chúng tôi phải băng qua kênh bằng thuyền để sang bên kia mua hàng. Trong chiến tranh Trung-Nhật, không ai mạo hiểm chèo thuyền qua sông dù chỉ với mười hay hai mươi xu. Khi nhìn thấy điều này, tôi, khi đó mới mười tuổi, đã tình nguyện phục vụ. Tôi đã cởi trần đến thắt lưng, buộc áo sơ mi quanh trán và lao thẳng vào dòng nước đang chảy. Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ trở lại với mọi thứ mà mọi người mong muốn. Những người dân làng giơ ngón tay cái lên cho tôi và nói, ‘Anh hai nhà họ Lý đó chắc chắn là một cái gì đó!’ Nhận ra niềm tự hào không thể nhầm lẫn này trong nụ cười của mẹ tôi đã trấn an tôi và tôi thậm chí còn thề: ‘Con sẽ còn tốt hơn nữa!’” (tr. 6, Balley)
Một năm sau, trong Chiến tranh Trung-Nhật, ông hộ tống người mẹ yếu ớt của mình đi tìm cha mình, người đã rời nhà đi buôn bán nhưng không bao giờ quay trở lại. Trên đường họ đi ngang qua chùa và tu viện Qixia Shan gần Nam Kinh. Vì lý do nào đó, ông ta đã hứa với trụ trì Zhi Kai rằng mình sẽ chịu cắt tóc và từ bỏ cuộc sống trần tục. Mẹ ông đã không cầm được nước mắt khi nhìn thấy quyết tâm của con mình. Bà trở về Jiangdu một mình. Anh lại khẽ nói: “Mẹ, đừng lo lắng. Con sẽ là niềm tự hào của Mẹ!”
Hsing Yun trở thành một `sraama.nera (tu sĩ mới), thọ giới cụ túc ở tuổi 14 (tuổi thông thường là 18) và bắt đầu được giáo dục đạo đức tại trường Qixia Vinaya cũng như trường Cao đẳng Phật giáo Jiao Shan, nơi được chú ý về sự kết hợp thực hành Thiền tông và đức tin Tịnh độ.
Việc giảng dạy trong chùa truyền thống là bằng kỷ luật và khiển trách chứ không hướng dẫn và khuyến khích. Việc cấm các tập sinh trở về nhà dựa trên nỗi sợ hãi rằng việc tiếp xúc với những ảnh hưởng bên ngoài có thể khiến họ mất tập trung và họ sẽ quên đi việc tìm kiếm sự thật. Quá trình đào tạo nghiêm ngặt được cho là để dạy các nhà sư chiến thắng với tinh thần dũng cảm. Nó kéo theo sự chịu đựng đau đớn và nghèo đói. Cuối cùng họ học cách buông bỏ đời sống vật chất.
Hsing Yun áp dụng một hình thức kỷ luật truyền thống không cản trở các trách nhiệm hàng ngày. Ông ăn một bữa trước buổi trưa, chép kinh, thực hành lễ lạy vào ban đêm, thực hành thiền định, giữ im lặng trong thời gian dài, tập trung vào giáo lý của Đức Phật và thực hiện một số khóa nhập thất. Ông không bao giờ sống ẩn dật một mình trong thời gian dài. Những bài tập này không mang lại cho ông ta giác ngộ ngay lập tức, nhưng củng cố khát vọng và niềm tin của mình vào Phật giáo.
Nhiều năm rèn luyện tính cách bằng việc giáo dục khá cứng nhắc và kỷ luật trong khung cảnh tự viện rộng lớn đã giúp ông không chỉ mỉm cười trước những nghịch cảnh của cuộc đời mà còn vui thích tuân theo những người khác. Ông được đặt tên là Wu Che (Pháp danh, nội bộ – “Hoàn toàn thông thái”) và Jin Jue (Tên sử dụng hàng ngày, bên ngoài – “Ngày nay giác ngộ”).
Tuổi trưởng thành ở Trung Quốc đại lục
Trung Quốc, đặc biệt là sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, là một vùng đất rộng lớn nghèo đói. Ngay cả trong các ngôi chùa, thường không có đủ lương thực để cung cấp thức ăn cho tất cả các nhà sư. Họ sống sót với rất ít. Họ ít mặc nên thường run cầm cập trong cái lạnh mùa đông. Những mảnh vải vụn mà những người khác vứt đi đã được biến thành những chiếc tất. Hsing Yun không có tiền. Ông ấy thậm chí không thể gửi bất kỳ bức thư nào cho mẹ mình.
Được nhận vào Cao đẳng Phật giáo Jiao Shan năm 1945, ông thích đọc sách, báo và các thông tin khác. Vào thời điểm ông rời Jiao Shan năm 1947, Hsing Yun đã tu học trong hệ thống tự viện gần mười năm. Ông đã hoàn thành khóa đào tạo về kỷ luật, giảng dạy và giáo lý Phật giáo. Ông cũng đã trải nghiệm sự trọn vẹn trong tinh thần Đại thừa về tầm quan trọng của cả thực hành và hiểu biết. Sau đó, với nhiệt huyết tuổi trẻ, ông bước chân vào một xã hội đầy tai ương và thấy mình bị cuốn vào sự tồn vong của cả quốc gia và đức tin của mình.
Ông sống trong một thời kỳ đầy khó khăn – sự hiếu chiến của các lãnh chúa, sự xâm lược của người Nhật, sự xung đột giữa những người theo chủ nghĩa Quốc gia và những người Cộng sản, sự xâm nhập của các tư tưởng phương Tây và sự đau khổ của người dân thường. Ông hứa sẽ “chấn hưng” Phật giáo để thiết lập hòa bình và an lạc. Ông không thể ngừng suy nghĩ: “Đừng hỏi đạo Phật có thể cho tôi điều gì. Hãy hỏi tôi có thể cho đạo Phật điều gì!” (tr. 50, Fu)
Năm 1947, ông đến chùa Da Jue để trở thành trụ trì và hiệu trưởng trường tiểu học Chùa Trắng. Ở đó, ông đã thành lập một tờ báo hàng tháng và đã bị bắt một vài lần bởi một nhóm “thổ phỉ” (hoặc, theo một số phe đảng, chính phủ Cộng sản hoặc Quốc dân đảng). Ông trở thành viện chủ của chùa Hua Zang ở Nam Kinh vào năm 1948 và biên tập phần bổ sung Ánh sáng huy hoàng cho tờ Xu Bao. Trong một số bài thuyết giảng mở rộng của mình, ông đã xem một cuốn sách khoa học về vũ trụ giải thích vai trò của tinh vân trong việc tạo ra các vì sao. Ông rất ấn tượng nên đã tự chọn tên Hsing Yun (Star Cloud) và thay đổi một trong những thẻ căn cước của mình. Sau đó, trong thời gian luôn phải di chuyển khắp nơi, ông đã làm mất các giấy tờ tùy thân khác và từ đó lấy tên Hsing Yun làm tên chính thức của mình.
Những người theo chủ nghĩa Mao đã tiếp quản hầu hết Trung Quốc vào năm 1949. Hsing Yun mất liên lạc với người mẹ góa của mình trong cuộc Nội chiến này. Ngoài ra, người thầy và người cố vấn vĩ đại của ông là Zhi Kai đã qua đời. Nỗi đau chia lìa hai người quan trọng này càng khiến ông quyết tâm hơn trong việc hoằng pháp. Để được ở một nơi ít hỗn loạn hơn hầu có thể xem xét lại ý định của cuộc đời mình, Hsing Yun và một số nhà sư khác đã tham gia một phái đoàn cứu trợ y tế từ Thượng Hải đến cảng Keelung ở Đài Loan.
Trong nhiều năm ở Đài Loan, Ông cũng phải chịu đựng rất nhiều gian khổ. Ông đến đây mà không có một xu trong mình. Gần như không thể tìm thấy thức ăn và nơi trú ẩn. Những người mới đến từ đất liền bị nghi ngờ. Ông sớm bị bắt cùng những người khác với cáo buộc hoạt động lật đổ vì họ đến từ Trung Quốc đại lục. Bầu không khí chính trị lúc bấy giờ vô cùng hoang tưởng. Cuối cùng, sau khi được trả tự do và nhiều tuần lang thang, ngôi chùa Yuan Kuang ở Chungli đã đón nhận ông. Để tỏ lòng biết ơn, ông bắt đầu phục vụ người khác bằng cách đảm nhận những công việc tầm thường như kéo xe, mua thức ăn, lấy nước, dọn dẹp nhà vệ sinh và đốn củi.
Vào thời điểm đó, Đài Loan được coi là một phần Phật giáo chống Trung Quốc (họ thiên về truyền thống Thiền tông Nhật Bản hơn) và có rất ít chùa, hầu hết đều ở “núi và rừng”. Bất chấp tất cả những vấn đề này, ông coi Đài Loan là “thế giới mới dũng cảm” đối với Phật giáo. Ông chuyển từ những công việc nặng nhọc để tham gia vào rất nhiều công việc giảng dạy (kể cả trong tù), viết lách và xuất bản cũng như thành lập một trường mẫu giáo. Tại chùa Yuan Kuang, dưới thời Master Miao Kuo, ông là tác giả đầu tiên của cuốn sách Hát trong im lặng.
Các tự viện Phật giáo ở Đài Loan không giống như các cơ sở sở hữu đất đai, tự túc của Trung Quốc. Quyên góp từ những người sùng đạo và đóng góp cho các tu sĩ là nguồn nuôi sống chính của họ. Trong những ngày đầu này, Đài Loan đang trong tình trạng khó khăn về kinh tế và hầu bao eo hẹp. Do đó, trong một thời gian dài, cộng đồng Phật giáo loay hoay để cố gắng tồn tại. Phật giáo chủ yếu dành cho các nghi lễ tang tế. Trí thức nhìn Tây, ảnh hưởng của Thiên chúa giáo và Tin lành gia tăng từ cấp lãnh đạo trở xuống.
Nhưng, Hsing Yun đã làm việc siêng năng với thái độ cởi mở, kiên trì, hoàn toàn sẵn sàng và khiêm tốn. Những ấn phẩm ban đầu của ông chủ trương cải cách, mở cửa và cứu vãn Phật giáo ở Trung Quốc và Đài Loan. Theo nhiều cách, những ý tưởng này cực kỳ mạo hiểm vào thời điểm đó. Nhưng càng bị ngăn cản, ông càng mạnh dạn và quyết tâm hơn. Ông luôn tỏ ra là một nhà cách mạng, ủng hộ những thay đổi tích cực và những bước phát triển mới để thay đổi cuộc sống và xã hội. Mục tiêu của ông là quảng bá Phật giáo, chăm sóc và phục vụ người khác. Ông hoàn toàn sẵn sàng cống hiến mọi thứ, thậm chí cả mạng sống của mình, cho sự nghiệp này.
Thường thì ông ấy sẽ “đi ngược dòng” với nền văn hóa lâu đời. Vào thời điểm đó, hầu hết “những người thờ cúng” đều có mối liên hệ với các ngôi đền gia đình, Đạo giáo, Nho giáo hoặc Mật Tổ. Thanh niên có thể bị thu hút bởi Phật giáo nhưng sau khi bắt buộc thực hiện nghĩa vụ quân sự, họ đã mất hứng thú và sa vào những cám dỗ của xã hội. Bất chấp những thử thách và gian khổ đó, ông đã viết bài vào ban đêm sau những ngày dài lao động chân tay. Ngay cả khi phải đi khất thực, ông nguyện sẽ làm việc cho giáo dục và truyền bá giáo lý của Đức Phật.
Hsing Yun được một cư sĩ Phật tử yêu cầu dạy Phật giáo ở Ilan vào năm 1952 tại chùa Lôi Âm, được xây dựng từ thời nhà Thanh. Các điều kiện ở đó rất cơ bản và hướng nội. Đài Loan vẫn quay cuồng với gần một thế kỷ dưới sự cai trị áp bức của Nhật Bản, tỷ lệ giáo dục thấp trong người dân và nỗi sợ hãi của người ngoài. Việc “vươn tay” của ông thường bị coi là đe dọa, nhưng ông vẫn kiên trì. Đây là cơ hội đầu tiên để ông thực sự thực hành quan niệm của mình về một hình thức Phật giáo Nhân văn. Ông thuyết pháp thường xuyên, chủ trì các buổi lễ tụng kinh, thành lập một dàn hợp xướng thanh niên Phật giáo để biểu diễn trước công chúng, viết cho tạp chí Awakening the World và Đạo Phật ngày nay, giúp đỡ các dự án xây dựng và giáo dục thanh thiếu niên cũng như quảng bá nghệ thuật. Cuối cùng ông đã có thể tạo ấn tượng tích cực với người dân Đài Loan.
________________________
[1] Thường thì thế giới phương Tây chưa phát triển vốn từ vựng để diễn đạt nhiều điều minh định của Phật giáo. Ngay cả những từ tiếng Anh phù hợp nhất của chúng ta cũng chưa có độ liên kết sâu cần thiết để truyền đạt ý nghĩa đầy đủ của các thuật ngữ truyền thống. Khi viết bài nghiên cứu này, tôi thường diễn giải, tổng hợp và/hoặc tóm tắt các bài viết của Grand Master (từ bản dịch tiếng Anh). Ngoài ra, một số câu nói thích hợp của ông tôi xin trích dẫn trực tiếp kèm theo những dẫn chứng phù hợp (nếu có) để bạn đọc tiện theo dõi.
Tôi đã cố gắng tránh xa việc sử dụng các từ đối ngẫu mang tính phán đoán nhất mà chúng ta có trong tiếng Anh, chẳng hạn như “good”/ “bad”, “right”/ “wrong”. Tôi đã chọn sử dụng các thuật ngữ thay thế như “tích cực”/”tiêu cực” và “đúng”/”không chính xác” vẫn còn mang tính nhị nguyên nhưng không hoàn toàn mang tính phán xét và, theo kinh nghiệm của tôi, xác thực hơn với giáo lý Phật giáo Nhân văn.
Nghiên cứu này không xuất phát từ ngôn ngữ gốc của Phật giáo như tiếng Pali và tiếng Phạn hay các tác phẩm Phật giáo Nhân văn bằng tiếng Trung Quốc (ngoại trừ các bài phỏng vấn). Tất cả các tài liệu nghiên cứu bằng văn bản đều bằng tiếng Anh, do đó độ chính xác của nó đối với mục đích ban đầu có thể không đầy đủ. Đối với các thuật ngữ Phật giáo truyền thống, tôi sử dụng cách đánh vần tiếng Phạn.
Còn tiếp
Humanistic Buddhism as Conceived and Interpreted by
Grand Master Hsing Yun of Fo Guang Shan
By Richard L. Kimball
Hsi Lai Journal of Humanistic Buddhism
V. 1 (2000) – pp. 1-52
ABSTRACT
The intention of this paper is to show how Humanistic Buddhism developed over 2500 years ago and has “re-become” in today’s world due in part to the determined and steadfast efforts of Grand Master Hsing Yun of the Fo Guang Shan Buddhist Order which has its main temple in southern Taiwan. From its beginnings in northern India by Sakyamuni Gautama to its current renaissance, Buddhism has gone through many transformations and developments. Grand Master Hsing Yun has attempted to capture the original essence of the Buddha’s teachings, especially those related to applications in today’s world, as well as to developing new interpretations appropriate to current needs. He has built his beliefs as well as actions not only on the original teachings of the Buddha but also on the experiences and insights of previous masters such as the 6th Patriarch of Ch’an, Ven. Hui Neng, and Ven. Tai Xu.
The Buddha taught ways for transcending earthly suffering as well as how to deal with day-to-day issues in this lifetime. He advocated equality of every human, the interconnectedness of all sentient beings, the sanctity of life and created principles related to developing positive living. In building upon these humanistic ideals, the Grand Master promotes integrating the Buddha’s teachings of kindness, compassion, joyfulness and equanimity into daily life for the benefit of both self and others. He has created a world-wide network of temples and chapters which work to bring Buddhism to every corner of this planet. It is his hope that through this process a Pure Land can be developed here so that all sentient beings can positively live their lives in order to move on to the higher levels of existence such as Bodhisattvahood, Buddhahood and Nirvana.
This paper shows how the Grand Master emerged out of the chaos of 1940s China to create the system of Fo Guang Shan which is substantially influencing many cultures through his writings, teachings and social actions. Finally, the future of Humanistic Buddhism is explored through studying the current structure of Fo Guang Shan and obtaining viewpoints from many members within it including the Grand Master himself.
INTRODUCTION
We are living in a modern era. Buddhism must change its traditional ways by coming out of the forest and entering into society. We must expand the functions of temples to serve the community through involvement in families, nations and the world … [i]n order to promote harmony, understanding and friendship among all humans. (Grand Master Hsing Yun)
Focus of this Paper
This paper on Humanistic Buddhism (hereafter written as HB), attempts to describe and explain the essence of Grand Master Hsing Yun’s ideas, teachings and practices. Because no one can fully or accurately interpret another’s beliefs, and because of the continuous “re-forming” of HB in today’s world, this presentation is a limited exposition based on my extensive readings, first-hand experiences, interviews and personal practice over the past several years. In addition, relevant written material related to the above topic has been incorporated in this discourse as supportive testimony. I will provide the reader the Grand Master’s perspective expressed within these parameters in which I have been working. [*]
The “what” (content) of HB will make up the core work of this paper, but also the “how” and the “why” are included as well because, according to Fernando; the “why” and “how” determine the “what” (see Antony Fernando, p. 127). Without the “how” and “why”, the “what” cannot be adequately understood. I believe that to deal with a topic as diverse and profound as HB, we need a broader vision than that obtained from basic information only. Therefore, this paper will illustrate the content of Grand Master Hsing Yun’s teachings as completely as possible, but also their origin and the process used in their development. The results of those ideas/beliefs/teachings put into practice in today’s world will also be presented. In this way the reader can sense, at a deeper level, the meaning of the Grand Master’s words in the context of HB. Both the historical and current contributions of Grand Master Hsing Yun will be offered. As far as possible, HB will also be related to the original Buddhist teachings by illustrations, references, quotes and explanations.
The main purpose of this paper, then, is to “bring him to life” for the English speaking community, so that more people can better understand Grand Master Hsing Yun’s contributions, their background, history and application in today’s world.
A BRIEF BACKGROUND OF THE DEVELOPMENT OF HUMANISTIC BUDDHISM
Master Hsing Yun has demonstrated that the deep-rooted pragmatism of Buddhism makes it a religion valid today and for all times. In addition to this, he shows us how to apply the teachings of the Buddha to our daily lives… [It is]
Significant Events in the Grand Master’s Life Relevant to His “Becoming” – Conditions at the Beginning
“HB is a new lotus blossom rising out of the mud and opening up to the world. ” (Grand Master Hsing Yun)
Early Years in Mainland China
He was born into a mid-level, peasant family in rural Jiangdu, Jiangsu Province of Eastern China in 1927 which was at the time in great social/political turmoil and under tremendous stress. Both poverty and civil war were rampant in the countryside where his new life began. Hsing Yun’s grandmother had been a devout Buddhist since she was seventeen. She was an important role model for him, especially her industriousness, frugality, kindness and ability to cope with the conditions in which they were forced to live. Under her influence, he began a vegetarian diet when he was only four years old. Somewhat later he attended a local primary school where he was considered a brilliant student.
“Mother I will be your pride!”, said Hsing Yun, when he was reportedly only 10 years old.
The economy at home, as underdeveloped as it was then, required that we cross a canal by boat to make purchases on the other side. During the Sino-Japanese war, no one would risk boating across even for ten or twenty cents. On seeing this, I, then but ten, volunteered my service. I would strip to my waist, tie my shirt around my forehead, and plunge right into the moving stream. In no time I would return with everything everybody had wanted. The villagers, giving me the thumbs-up, would say, ‘That second brother from the Li family sure is something!’ Realization of this unmistakable pride in my mother’s smile reassured me and I even vowed, ‘I’m going to be better still!’ (p. 6, Balley)
The following year, during the Sino-Japanese War, he escorted his fragile mother on a quest to find his father who had left home to do some business, but never returned. On the way they passed Qixia Shan temple and monastery near Nanjing. For some reason he gave the abbot Zhi Kai his word that he would receive the tonsure and renounce worldly life. His mother, held back her tears upon seeing his determination. She returned to Jiangdu alone. Again he said quietly, “Mother, don’t
worry. I will be your pride!”
Hsing Yun became a `sraama.nera (novice monk), was fully ordained at the age of 14 (the usual age was 18) and began receiving his moral education at Qixia Vinaya school and Jiao Shan Buddhist College which was noted for its hall dedicated to the combined practice of Ch’an meditation and Pure Land devotion.
The traditional temple teaching was by disciplining and reprimanding and not guiding and encouraging. Barring novices from returning home was based on the fear that exposure to outside influences might be distracting, and they would forget their quest for truth. Rigorous training was supposed to teach monks to prevail with mental fortitude. It entailed the endurance of pain and poverty. In the end they learned to let go of material life.
Hsing Yun adopted a traditional form of discipline that would not interfere with daily responsibilities. He ate one meal before noon, copied the sutras, carried out the prostrations drill late at night, practiced meditation, remained in silence for long periods of time, concentrated on Buddha’s teachings and did some retreats. He never went into lone seclusion for long periods of time. These exercises did not bring him immediate enlightenment, but bolstered his aspiration for and faith in Buddhism.
Many years of character building by way of a rather rigid and disciplined education in a large monastery setting enabled him not only to just smile at life’s adversities but also to delight in complying with others. He was given the names of Wu Che (Dharma name, inside – “Completely Wise”) and Jin Jue (Daily use name, outside-“Enlightened Today”).
Adult Years in Mainland China
China, especially after World War II was finally over, was a vast land of destitution. Even in temples, there often were not enough provisions to feed all the monks. They survived on very little. They had little to wear so were often shivering in the winter cold. Rags others threw away were converted into socks. Hsing Yun had no money. He couldn’t even mail any letters to his mother.
Admitted to Jiao Shan Buddhist College in 1945, he enjoyed reading books, newspapers and other information. By the time he left Jiao Shan in 1947, Hsing Yun had studied in the monastic system for close to ten years. He completed his training in Buddhist discipline, teaching and doctrine. He also experienced an immersion in the Mahayana spirit of the importance of both practice and understanding. Afterwards, with youthful ardor, he stepped into a gravely afflicted society and found himself embroiled in the survival of both the nation and his faith.
He lived in a struggling time — the belligerence of the warlords, the aggression of the Japanese, the strife between the Nationalists and Communists, the incursion of Western ideas and the suffering of the common folk. He promised to “revitalize” Buddhism in order to establish peace and tranquility. He could not stop thinking, “Don’t ask what Buddhism can give me. Ask what I can give Buddhism!” (p. 50, Fu)
In 1947 he arrived at Da Jue temple in order to become abbot and principal of White Pagoda Elementary School. There he founded a monthly newspaper and was arrested a couple of times by either a “bandit” group (or, by some accounts, the Communists or Nationalist government). He became director of Hua Zang temple in Nanjing in 1948 and edited the Splendid Light supplement to the newspaper Xu Bao. In some of his extensive readings he came across a science book on the universe which explained the role of nebulae in creating stars. He was so impressed he created the name Hsing Yun (Star Cloud) and put it on one of his ID cards. Later, in his time of always having to move around, he lost his other ID papers and thus took the name Hsing Yun as his official name.
The Maoists took over most of China by 1949. Hsing Yun lost contact with his widowed mother during this Civil War. Also, his great teacher and mentor Zhi Kai died. The pain of separation from these two important people made him more determined in his resolve to spread the Dharma. In order to be in a place with less turmoil so he could re-examine his life’s intentions, Hsing Yun and several other monks joined a medical relief mission and arrived from Shanghai at the port of Keelung in Taiwan.
Moving to Taiwan
For many years in Taiwan, he also endured great hardships. He arrived without a cent to his name. It was almost impossible to find food and shelter. Newcomers from the mainland were viewed with suspicion. He was soon arrested with others on allegations of subversive activities since they were from mainland China. The political atmosphere was extremely paranoid at that time. Finally, after his release and weeks of wandering, the Yuan Kuang temple in Chungli took him in. Out of gratitude, he began serving others by undertaking the menial tasks of pulling carts, buying food, fetching water, cleaning latrines and cutting wood.
At that time Taiwan was seen as somewhat anti-Chinese Buddhist (they were more into the Japanese Zen tradition) and had few temples, most of which were in the “mountains and forests.” In spite of all these problems he saw Taiwan as the “brave new world” for Buddhism. He moved on from the menial tasks and became involved in a lot of teaching (including in prisons), writing and publishing as well as founding a kindergarten. At Yuan Kuang temple, under Master Miao Kuo, he authored his first book, Singing in Silence.
The Buddhist monasteries in Taiwan were unlike the land-owning, self-sufficient establishments of China. Donations from devotees and contributions to the monastics were their main sources of sustenance. In these early days Taiwan was in economic plight, and purse strings were tight. Hence, for the longest time, the Buddhist community was busy just trying to survive. Progress had to wait. Buddhism was mostly for funeral ceremonies. Intellectuals looked West. Catholic and Protestant Christian influences increased from the presidential level on down.
But, Hsing Yun worked diligently with an open-minded, persistent, perfectly willing and humble attitude. His early publications advocated the reforming, opening and saving of Buddhism in China and Taiwan. In many ways these ideas were extremely dangerous to have at the time. But the more he was deterred, the bolder and more determined he became. He always seemed to be a revolutionary, advocating positive change and new developments in order to transform lives and society. His goal was to promote Buddhism and care for and serve others. He was perfectly willing to dedicate everything, even his life, to this cause.
Often he would be “going against the tide” of established culture. At that time most “worshipers” were connected to family, Daoist, Confucian, or Matsu Temples. Youths might be attracted to Buddhism but after compulsory military service, they lost interest and gave into the temptations of society. In spite of these trials and tribulations, he wrote articles at night after long days of manual labor. Even if left to beg, he vowed he would work for education and spreading the teachings of the Buddha.
Hsing Yun was asked by a lay Buddhist to teach Buddhism in Ilan in 1952 at the Lei Yin temple, which had been built during the Qing Dynasty. The conditions there were very basic and inward looking. Taiwan was still reeling from almost a century of Japanese oppressive rule, a low education rate among the people and fear of outsiders. His “reaching out” was often seen as threatening, but he was persistent. This was his first opportunity to really try out practicing his concept of a humanistic form of Buddhism. He gave regular lectures, officiated at chanting ceremonies, set up a Buddhist youth choir to perform publicly, wrote for Awakening the World magazine and Buddhism Today, helped with youth education and construction projects and promoted art. He finally was able to make a positive impression on the people of Taiwan.
________________________
[1] Often the Western world has not yet developed the vocabulary to express many of the insists of Buddhism. Even our most suitable English words do not yet have the depth of associations needed to convey the full meaning of the traditional terms. In writing this research paper I often paraphrase, synthesize, and/or summarize the Grand Master’s writings (from English translations). Also, certain pertinent statements by him I do quote directly with suitable references (if available) for the reader.
I have tried to stay away from the use of the most judgmental dualities we have in English such as “good”/ “bad”, “right”/ “wrong”. I have chosen to use alternative terms such as “positive”/ “negative” and “correct” /”incorrect” that are still dualistic but not quite as judgmental and, in my experience, more authentic to Humanistic Buddhist teachings.
This research does not come from the original language of Buddhism such as Pali and Sanskrit or Humanistic Buddhist writings in Chinese (except interviews). All written research material was in English, therefore its accuracy as to the original intention may not be complete. For traditional Buddhist terms, I use the Sanskrit spelling.
Buddhism engaged in service to others and grounded in monastic communities and lay organizations dedicated to Buddhist teaching and practices. It is his conviction that Humanistic Buddhism, in its practical implications, symbolizes the goals of all schools and sects of Buddhism in the world, and therefore, serves as a unifying concept for the redefinition and interpretation of the teaching of Buddhism for the benefit of humanity today. (Dr. Ananda W.P. Guruge)