Wednesday, February 8, 2023

Richard L. Kimball | Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Hòa Thượng Hsing Yun: Quan Niệm về Phật giáo Nhân Văn (P.2)

 

Phát triển phái Phật Quang Sơn

Chùa Lôi Âm là nơi Phật giáo Phật Quang Sơn bắt đầu! Ở đó, sứ mệnh của ông là thức tỉnh Phật tử về nhân duyên của thời đại này.

Do đó, tại Đài Loan, ông bắt đầu thực hiện lời nguyện từ lâu của mình là quảng bá Phật giáo Nhân văn – một Phật giáo lấy việc thực hành tâm linh làm trọng tâm như cuộc sống hàng ngày trong thế giới bình thường. Năm 1955, Hsing Yun thành lập ngôi chùa đầu tiên của mình tại thành phố Cao Hùng, gần cực nam của đảo Đài Loan. Với sự hỗ trợ của các Hòa thượng khác, ông đã thành lập một Trung tâm Văn hóa Phật giáo tại Đài Bắc vào năm 1957 như một phương tiện để thúc đẩy các hoạt động văn hóa, xuất bản sách Phật giáo và phát thanh. Năm 1964, ngôi chùa Shou Shan được hoàn thành ở Cao Hùng cùng với một trường cao đẳng và cơ sở kinh tế Phật giáo. Grand Master đã giảng thuyết và đăng lại trong án bản Awakening the World, đến năm 1979 trở thành tạp chí Universal Gate. Ông không bao giờ ngừng viết. Biết rằng chỉ riêng việc xây cất chùa chiền và tự viện không thể chấn hưng Phật giáo, thanh lọc tâm trí hoặc điều chỉnh những khuynh hướng tiêu cực, ông tin tưởng rằng giáo dục cũng là điều cần thiết.

Trong những thời kỳ đầu tiên đó, cả ở Trung Quốc và Đài Loan, sự phát triển của Phật Giáo Nhân Văn và tư duy tiến bộ của nó đôi khi khiến phong trào gặp rắc rối với các lãnh chúa, chính trị gia, địa chủ, lãnh đạo cộng đồng, nhà sư thủ cựu và quan chức. Những người bảo thủ này tập hợp lại với nhau và đánh phá các nhà sư. “Mob” – những đám đông người, đặc biệt là một đám đông mất trật tự có ý định gây rắc rối hoặc bạo lực – được tạo ra để ra sức phá hủy những ngôi chùa của họ. Nhưng Ông, với quyết tâm kiên định, đã làm việc để tiếp tục sứ mệnh “bố thí nhằm phát triển bình đẳng và lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh.” Sự phát triển của Fo Guang Shan (Phật Quang Sơn) cho thấy sự quan trọng của một tầm nhìn như thế nào, khi đi đôi với lòng dũng cảm, nhằm chế ngự quyền lực và truyền thống cổ hữu. “Khi ở bên lẽ phải, không bao giờ chúng ta đầu hàng.” (tr. 155, Hsing Yun, Perfectly Willing)

Những người có thể thực hành Nhẫn được coi là những cá nhân có sức mạnh to lớn. Ngược lại, nếu không thể vui vẻ chịu đựng những lời chửi mắng ác độc của người khác như uống sương ngọt, thì không thể gọi là người có trí tuệ sáng suốt. (Đức Phật, lời chỉ dạy cuối cùng trước khi nhập Niết bàn.)

Ngay từ sớm, ông đã đổi mới bằng cách thành lập thêm các ca đoàn Phật giáo, các slide thuyết trình, các trường dành cho trẻ em vào ngày Chủ Nhật , các câu lạc bộ sinh viên và các nhóm du hành để hoằng pháp Phật Giáo Nhân Văn. Ông là người đi đầu trong các phương pháp đổi mới trong một xã hội bảo thủ và thường là phong kiến. Ông gặp phải rất nhiều sự phản đối, đặc biệt là việc phát sóng và kết hợp các chương trình tạp kỹ vào các lễ hội Phật giáo. Đại sư Hsing Yun đã đứng lên chống lại các chính phủ và chính thống mà không hề dao động hay rút lui. Cuối cùng, vào năm 1967, ông bắt đầu xây dựng ngôi chùa Phật Quang Sơn, trên những ngọn đồi của quận Cao Hùng cách thành phố Cao Hùng một khoảng khá xa. Phật Quang Sơn được thành lập với mục đích nhân giống Phật Giáo Nhân Văn ở Đài Loan và thế giới. Năm 1977, trường cấp 3 Pu Men, bên cạnh Phật Quang Sơn, hoàn thành. Vào những năm 1980, cả Đài Loan và các quốc gia khác đều cởi mở hơn với Phật giáo, vì vậy ông bắt đầu đi hoằng dương và phát triển Phật Giáo Nhân Văn ở nước ngoài. Ngoài ra, vào những năm 1990, cuối cùng ông cũng có cơ hội trở lại thăm Trung Quốc và đoàn tụ với mẹ sau bao năm xa cách!

Đại sư Hsing Yun đã đi theo nhân duyên trong cuộc đời và với tư cách là một thiền sư, trở thành nhà lãnh đạo thứ 48 của dòng truyền thừa Lin Ji (Renzai – Nhật Bản).

Qua năm mươi năm đời sống tự viện, tôi chưa bao giờ ngừng tìm kiếm sự hoàn thiện bản thân — từ các bài tập hàng ngày và thực hành khổ hạnh cho đến phục vụ cộng đồng; từ học tập ẩn dật đến du lịch rộng rãi; từ tụng kinh, tọa thiền đến thuyết pháp; và từ từ thiện đến giáo dục quần chúng, (tr. 25, Hạnh phúc mãi mãi về sau)

 

The Development of the Fo Guang Shan Buddhist Order

Lei Yin temple is where the Fo Guang Shan Buddhist Order began! There, his mission became to awaken Buddhists to the causes and conditions of this current age.

Thus, in Taiwan he began fulfilling his long-held vow of promoting Humanistic Buddhism — a Buddhism that takes to heart spiritual practice as daily life in the ordinary world. In 1955 Hsing Yun established his first temple in the city of Kaohsiung, near the southern tip of the island of Taiwan. With the assistance of other Venerables he created a Buddhist Cultural Center in Taipei in 1957 as a means of promoting cultural activities, publishing Buddhist books and make recordings. In 1964 the Shou Shan temple was completed in Kaohsiung along with a related Buddhist college and school of commerce. The now Grand Master gave lectures and published them in Awakening the World which in 1979 became Universal Gate magazine. He never stopped writing. Knowing that temples and monasteries alone could not revive Buddhism, purify minds, or rectify negative tendencies, the Grand Master believed that education was also needed.

In those early times, both in China and Taiwan, the development of HB and its progressive thinking sometimes got the movement into trouble with warlords, politicians, land-owners, community leaders, reactionary monks and bureaucrats. These conservatives would band together and beat monks. Mobs would be created to try to destroy their temples. But, the Grand Master, with steadfast determination, worked to keep going his mission of “giving to develop equality and compassion for all beings.” The development of the Fo Guang Shan Buddhist Order shows how important a vision can be, when coupled with courage, for overpowering traditional power and wealth. “When in the right, never yield.” (p. 155, Hsing Yun, Perfectly Willing – Hereafter, all quotations from publications by Grand Master Hsing Yun will just note the page number and title.)

Those able to practice forbearance are deemed individuals of tremendous power. If, on the other hand, one is unable to joyfully endure the evil, venomous cursing of others as the drinking of sweet dew, then one cannot be called a person of penetrating wisdom. (The Buddha in his last instructions before entering Nirvana.)

Early on he innovated by creating more Buddhist choirs, slide presentations, children’s Sunday schools, student clubs and traveling groups to propagate HB. He was at the vanguard of innovative methods in a conservative, and often feudalistic, society. He faced a lot of opposition especially to his broadcasting and incorporating variety programs into Buddhist festivities. Grand Master Hsing Yun stood up to governments and orthodoxy without wavering or retreating. Finally, in 1967 he began Fo Guang Shan temple (hereafter written FGS), in the hills of Kaohsiung County some distance away from the city of Kaohsiung. FGS was established with the aim of propagating HB in Taiwan and the world. 1977 saw the completion of Pu Men High School, next to FGS. In the 1980s both Taiwan and other countries became more open to Buddhism, so he began to travel and develop HB overseas. Also, in the 1990s he finally got the chance to re-visit China and re-unite with his mother after so many years of separation!

Grand Master Hsing Yun followed the causes and conditions in his life and as a Ch’an master, became the 48th leader of the Lin Ji (Renzai – Japanese) lineage.

Through fifty years of monastic life I have never ceased to quest for self improvement — from daily exercises and ascetic practice to community service; from reclusive study to wide travels; from chanting and meditation to preaching the Dharma; and from charity to educating the masses, (p. 25, Happily Ever After)

Tuesday, February 7, 2023

Richard L. Kimball | Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Hòa Thượng Hsing Yun: Quan Niệm về Phật giáo Nhân Văn (P.1)

 

Mục đích của bài viết này cho thấy Phật giáo Nhân văn đã phát triển như thế nào hơn 2500 năm trước và đã “tái xuất hiện” trong thế giới ngày nay một phần nhờ vào những nỗ lực kiên định của Đại sư Hsing Yun, thuộc Dòng Phật giáo Phật Quang Sơn, ngôi đền chính ở miền nam Đài Loan.

Từ sự khởi đầu ở miền bắc Ấn Độ bởi Thích Ca Mâu Ni Gautama cho đến thời kỳ phục hưng hiện tại, Phật giáo đã trải qua nhiều biến đổi và phát triển. Đại sư Hsing Yun đã cố gắng nắm bắt tinh túy nguyên thủy từ những lời dạy của Đức Phật, đặc biệt là những điều liên quan đến ứng dụng trong thế giới ngày nay, cũng như phát triển những cách giải thích mới phù hợp với nhu cầu hiện tại. Ông đã xây dựng niềm tin cũng như hành động của mình không chỉ dựa trên giáo lý nguyên thủy của Đức Phật mà còn dựa trên kinh nghiệm và hiểu biết sâu sắc của các bậc thầy trước đó như Tổ sư thứ 6 của Thiền tông, Ven. Huệ Năng, và Ven. Tài Xiu.

Đức Phật đã dạy cách vượt qua khổ đau trần gian cũng như cách đối phó với những vấn đề hàng ngày trong cuộc đời này. Ngài ủng hộ sự bình đẳng của mọi người, sự liên kết của tất cả chúng sinh, sự thiêng liêng của cuộc sống và tạo ra các nguyên tắc liên quan đến việc phát triển lối sống tích cực. Dựa trên những lý tưởng nhân văn này, Grand Master thúc đẩy việc tích hợp những lời dạy của Đức Phật về lòng tốt, lòng từ bi, niềm vui và sự bình đẳng vào cuộc sống hàng ngày vì lợi ích của cả bản thân và người khác. Ông đã tạo ra một mạng lưới các ngôi chùa và phân hội trên toàn thế giới hoạt động để mang Phật giáo đến mọi nơi trên hành tinh này. Ông hy vọng rằng thông qua quá trình này, một Cõi Tịnh độ có thể được phát triển ở đây để tất cả chúng sinh có thể sống cuộc sống của họ một cách tích cực hầu tiến lên những cấp độ cao hơn của sự tồn tại như Bồ tát, Phật quả và Niết bàn.

Bài viết này cho thấy làm thế nào mà Đại sư đã hiện diện giữa sự hỗn loạn của Trung Quốc những năm 1940 để tạo ra hệ thống Phật Quang Sơn đang ảnh hưởng đáng kể đến nhiều nền văn hóa, thông qua các bài viết, giáo lý và hành động xã hội của ông. Cuối cùng, tương lai của Phật giáo Nhân văn được khám phá thông qua nghiên cứu cấu trúc hiện tại của Fo Guang Shan và thu thập quan điểm từ nhiều thành viên trong đó bao gồm cả chính Grand Master.

DẪN NHẬP

Chúng ta đang sống trong thời hiện đại. Phật giáo phải thay đổi cách thức truyền thống của mình bằng cách ra khỏi cánh rừng và đi vào xã hội. Chúng ta phải mở rộng chức năng của các ngôi chùa để phục vụ cộng đồng thông qua sự tham gia của các gia đình, quốc gia và thế giới … v.v. nhằm thúc đẩy sự hòa hợp, hiểu biết và tình bạn giữa tất cả mọi người.  – Đại sư Tinh Vân.

Trọng tâm của bài viết này là về Phật giáo Nhân văn, cố gắng mô tả và giải thích cốt lõi các ý tưởng, giáo lý và thực hành của Đại sư Hsing Yun. Bởi vì không ai có thể giải thích đầy đủ hoặc chính xác niềm tin của người khác, và do Phật giáo Nhân văn liên tục “tái hình thành” trong thế giới ngày nay, phần trình bày này chỉ hạn chế dựa trên các bài thuyết pháp mở rộng, kinh nghiệm trực tiếp, các cuộc phỏng vấn và thực hành cá nhân của tôi trong vài năm qua. Ngoài ra, tài liệu bằng văn bản có liên quan đến chủ đề trên đã được đưa vào bài diễn văn này như là bằng chứng hỗ trợ. Tôi sẽ cung cấp cho người đọc quan điểm của Grand Master được thể hiện trong các tham số mà tôi đã và đang làm việc.[1]

Theo Fernando, “cái gì” (nội dung) của Phật giáo Nhân văn sẽ tạo thành công việc cốt lõi của bài viết này, nhưng cả “làm thế nào” và “tại sao” cũng được đưa vào bởi vì; “tại sao” và “như thế nào” xác định “cái gì” (xem Antony Fernando, trang 127). Không có “làm thế nào” và “tại sao”, “cái gì” không thể được hiểu đầy đủ. Tôi tin rằng để giải quyết một chủ đề đa dạng và sâu sắc như Phật giáo Nhân văn, chúng ta cần có một tầm nhìn rộng hơn là chỉ có được từ những thông tin cơ bản. Do đó, bài viết này sẽ minh họa nội dung những lời dạy của Đại sư Hsing Yun một cách đầy đủ nhất có thể, cũng như nguồn gốc và quá trình được sử dụng trong sự phát triển của chúng. Kết quả của những ý tưởng/niềm tin/giáo lý được đưa vào thực tế trong thế giới ngày nay cũng sẽ được trình bày. Bằng cách này, người đọc có thể cảm nhận, ở một mức độ sâu sắc hơn, ý nghĩa của những lời của Grand Master trong bối cảnh của Phật giáo Nhân văn. Cả hai đóng góp lịch sử và hiện tại của Grand Master Hsing Yun sẽ được cung cấp. Trong chừng mực có thể, Phật giáo Nhân văn cũng sẽ liên hệ với giáo lý nguyên thủy của Phật giáo bằng các minh họa, tài liệu tham khảo, trích dẫn và giải thích.

Do đó, mục đích chính của bài viết này là “làm sống lại Ông” cho cộng đồng nói tiếng Anh, để nhiều người có thể hiểu rõ hơn về những đóng góp, lai lịch, lịch sử và ứng dụng của Đại sư Hsing Yun trong thế giới ngày nay.

SƠ LƯỢC VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO NHÂN VĂN

Đạo sư Hsing Yun đã chứng minh rằng chủ nghĩa thực dụng thâm căn cố đế của Phật giáo làm cho nó trở thành một tôn giáo có giá trị ngày nay và mãi mãi. Thêm vào đó, ông chỉ cho chúng ta cách áp dụng những lời dạy của Đức Phật vào cuộc sống hàng ngày của mình… [Đó là]

Phật giáo tham gia phục vụ những người khác và đặt nền tảng trong các cộng đồng tự viện cũng như các tổ chức tại gia dành riêng cho việc giảng dạy và thực hành Phật giáo. Ông tin chắc rằng Phật giáo Nhân văn, trong ý nghĩa thực tiễn của nó, tượng trưng cho mục tiêu của tất cả các trường phái và tông phái Phật giáo trên thế giới, và do đó, phục vụ như một khái niệm thống nhất cho việc xác định lại và giải thích giáo lý Phật giáo vì lợi ích của nhân loại. Hôm nay. (Tiến sĩ Ananda WP Guruge)

Những sự kiện quan trọng trong cuộc đời của Grand Master liên quan đến việc “Trở thành” của ông – Những điều kiện khi bắt đầu

“Phật giáo Nhân văn là đóa sen mới vươn lên khỏi bùn và vươn ra thế giới.” (Đại sư Hsing Yun)

Những năm đầu ở Trung Quốc đại lục

Ông sinh ra trong một gia đình nông dân trung lưu ở vùng nông thôn Giang Đô, tỉnh Giang Tô, miền Đông Trung Quốc vào năm 1927, lúc đó đang xảy ra tình trạng hỗn loạn chính trị / xã hội lớn và bị căng thẳng nặng nề. Nghèo đói và nội chiến tràn lan ở vùng nông thôn nơi cuộc sống mới của ông bắt đầu. Bà của Hsing Yun là một Phật tử thuần thành từ khi bà mười bảy tuổi. Bà ấy là một hình mẫu quan trọng đối với ông ấy, đặc biệt là sự cần cù, tiết kiệm, tốt bụng và khả năng đối phó với những điều kiện mà họ buộc phải sinh tồn. Dưới ảnh hưởng của bà, ông bắt đầu ăn chay khi mới bốn tuổi. Một thời gian sau, ông theo học ở một trường tiểu học địa phương, nơi được coi là một học sinh xuất sắc.

“Mẹ ơi, con sẽ là niềm tự hào của mẹ!”, Hsing Yun nói khi lên 10 tuổi.

“Kinh tế trong nước lúc bấy giờ còn kém phát triển, bắt buộc chúng tôi phải băng qua kênh bằng thuyền để sang bên kia mua hàng. Trong chiến tranh Trung-Nhật, không ai mạo hiểm chèo thuyền qua sông dù chỉ với mười hay hai mươi xu. Khi nhìn thấy điều này, tôi, khi đó mới mười tuổi, đã tình nguyện phục vụ. Tôi đã cởi trần đến thắt lưng, buộc áo sơ mi quanh trán và lao thẳng vào dòng nước đang chảy. Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ trở lại với mọi thứ mà mọi người mong muốn. Những người dân làng giơ ngón tay cái lên cho tôi và nói, ‘Anh hai nhà họ Lý đó chắc chắn là một cái gì đó!’ Nhận ra niềm tự hào không thể nhầm lẫn này trong nụ cười của mẹ tôi đã trấn an tôi và tôi thậm chí còn thề: ‘Con sẽ còn tốt hơn nữa!’” (tr. 6, Balley)

Một năm sau, trong Chiến tranh Trung-Nhật, ông hộ tống người mẹ yếu ớt của mình đi tìm cha mình, người đã rời nhà đi buôn bán nhưng không bao giờ quay trở lại. Trên đường họ đi ngang qua chùa và tu viện Qixia Shan gần Nam Kinh. Vì lý do nào đó, ông ta đã hứa với trụ trì Zhi Kai rằng mình sẽ chịu cắt tóc và từ bỏ cuộc sống trần tục. Mẹ ông đã không cầm được nước mắt khi nhìn thấy quyết tâm của con mình. Bà trở về Jiangdu một mình. Anh lại khẽ nói: “Mẹ, đừng lo lắng. Con sẽ là niềm tự hào của Mẹ!”

Hsing Yun trở thành một `sraama.nera (tu sĩ mới), thọ giới cụ túc ở tuổi 14 (tuổi thông thường là 18) và bắt đầu được giáo dục đạo đức tại trường Qixia Vinaya cũng như trường Cao đẳng Phật giáo Jiao Shan, nơi được chú ý về sự kết hợp thực hành Thiền tông và đức tin Tịnh độ.

Việc giảng dạy trong chùa truyền thống là bằng kỷ luật và khiển trách chứ không hướng dẫn và khuyến khích. Việc cấm các tập sinh trở về nhà dựa trên nỗi sợ hãi rằng việc tiếp xúc với những ảnh hưởng bên ngoài có thể khiến họ mất tập trung và họ sẽ quên đi việc tìm kiếm sự thật. Quá trình đào tạo nghiêm ngặt được cho là để dạy các nhà sư chiến thắng với tinh thần dũng cảm. Nó kéo theo sự chịu đựng đau đớn và nghèo đói. Cuối cùng họ học cách buông bỏ đời sống vật chất.

Hsing Yun áp dụng một hình thức kỷ luật truyền thống không cản trở các trách nhiệm hàng ngày. Ông ăn một bữa trước buổi trưa, chép kinh, thực hành lễ lạy vào ban đêm, thực hành thiền định, giữ im lặng trong thời gian dài, tập trung vào giáo lý của Đức Phật và thực hiện một số khóa nhập thất. Ông không bao giờ sống ẩn dật một mình trong thời gian dài. Những bài tập này không mang lại cho ông ta giác ngộ ngay lập tức, nhưng củng cố khát vọng và niềm tin của mình vào Phật giáo.

Nhiều năm rèn luyện tính cách bằng việc giáo dục khá cứng nhắc và kỷ luật trong khung cảnh tự viện rộng lớn đã giúp ông không chỉ mỉm cười trước những nghịch cảnh của cuộc đời mà còn vui thích tuân theo những người khác. Ông được đặt tên là Wu Che (Pháp danh, nội bộ – “Hoàn toàn thông thái”) và Jin Jue (Tên sử dụng hàng ngày, bên ngoài – “Ngày nay giác ngộ”).

Tuổi trưởng thành ở Trung Quốc đại lục

Trung Quốc, đặc biệt là sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, là một vùng đất rộng lớn nghèo đói. Ngay cả trong các ngôi chùa, thường không có đủ lương thực để cung cấp thức ăn cho tất cả các nhà sư. Họ sống sót với rất ít. Họ ít mặc nên thường run cầm cập trong cái lạnh mùa đông. Những mảnh vải vụn mà những người khác vứt đi đã được biến thành những chiếc tất. Hsing Yun không có tiền. Ông ấy thậm chí không thể gửi bất kỳ bức thư nào cho mẹ mình.

Được nhận vào Cao đẳng Phật giáo Jiao Shan năm 1945, ông thích đọc sách, báo và các thông tin khác. Vào thời điểm ông rời Jiao Shan năm 1947, Hsing Yun đã tu học trong hệ thống tự viện gần mười năm. Ông đã hoàn thành khóa đào tạo về kỷ luật, giảng dạy và giáo lý Phật giáo. Ông cũng đã trải nghiệm sự trọn vẹn trong tinh thần Đại thừa về tầm quan trọng của cả thực hành và hiểu biết. Sau đó, với nhiệt huyết tuổi trẻ, ông bước chân vào một xã hội đầy tai ương và thấy mình bị cuốn vào sự tồn vong của cả quốc gia và đức tin của mình.

Ông sống trong một thời kỳ đầy khó khăn – sự hiếu chiến của các lãnh chúa, sự xâm lược của người Nhật, sự xung đột giữa những người theo chủ nghĩa Quốc gia và những người Cộng sản, sự xâm nhập của các tư tưởng phương Tây và sự đau khổ của người dân thường. Ông hứa sẽ “chấn hưng” Phật giáo để thiết lập hòa bình và an lạc. Ông không thể ngừng suy nghĩ: “Đừng hỏi đạo Phật có thể cho tôi điều gì. Hãy hỏi tôi có thể cho đạo Phật điều gì!” (tr. 50, Fu)

Năm 1947, ông đến chùa Da Jue để trở thành trụ trì và hiệu trưởng trường tiểu học Chùa Trắng. Ở đó, ông đã thành lập một tờ báo hàng tháng và đã bị bắt một vài lần bởi một nhóm “thổ phỉ” (hoặc, theo một số phe đảng, chính phủ Cộng sản hoặc Quốc dân đảng). Ông trở thành viện chủ của chùa Hua Zang ở Nam Kinh vào năm 1948 và biên tập phần bổ sung Ánh sáng huy hoàng cho tờ Xu Bao. Trong một số bài thuyết giảng mở rộng của mình, ông đã xem một cuốn sách khoa học về vũ trụ giải thích vai trò của tinh vân trong việc tạo ra các vì sao. Ông rất ấn tượng nên đã tự chọn tên Hsing Yun (Star Cloud) và thay đổi một trong những thẻ căn cước của mình. Sau đó, trong thời gian luôn phải di chuyển khắp nơi, ông đã làm mất các giấy tờ tùy thân khác và từ đó lấy tên Hsing Yun làm tên chính thức của mình.

Những người theo chủ nghĩa Mao đã tiếp quản hầu hết Trung Quốc vào năm 1949. Hsing Yun mất liên lạc với người mẹ góa của mình trong cuộc Nội chiến này. Ngoài ra, người thầy và người cố vấn vĩ đại của ông là Zhi Kai đã qua đời. Nỗi đau chia lìa hai người quan trọng này càng khiến ông quyết tâm hơn trong việc hoằng pháp. Để được ở một nơi ít hỗn loạn hơn hầu có thể xem xét lại ý định của cuộc đời mình, Hsing Yun và một số nhà sư khác đã tham gia một phái đoàn cứu trợ y tế từ Thượng Hải đến cảng Keelung ở Đài Loan.

Trong nhiều năm ở Đài Loan, Ông cũng phải chịu đựng rất nhiều gian khổ. Ông đến đây mà không có một xu trong mình. Gần như không thể tìm thấy thức ăn và nơi trú ẩn. Những người mới đến từ đất liền bị nghi ngờ. Ông sớm bị bắt cùng những người khác với cáo buộc hoạt động lật đổ vì họ đến từ Trung Quốc đại lục. Bầu không khí chính trị lúc bấy giờ vô cùng hoang tưởng. Cuối cùng, sau khi được trả tự do và nhiều tuần lang thang, ngôi chùa Yuan Kuang ở Chungli đã đón nhận ông. Để tỏ lòng biết ơn, ông bắt đầu phục vụ người khác bằng cách đảm nhận những công việc tầm thường như kéo xe, mua thức ăn, lấy nước, dọn dẹp nhà vệ sinh và đốn củi.

Vào thời điểm đó, Đài Loan được coi là một phần Phật giáo chống Trung Quốc (họ thiên về truyền thống Thiền tông Nhật Bản hơn) và có rất ít chùa, hầu hết đều ở “núi và rừng”. Bất chấp tất cả những vấn đề này, ông coi Đài Loan là “thế giới mới dũng cảm” đối với Phật giáo. Ông chuyển từ những công việc nặng nhọc để tham gia vào rất nhiều công việc giảng dạy (kể cả trong tù), viết lách và xuất bản cũng như thành lập một trường mẫu giáo. Tại chùa Yuan Kuang, dưới thời Master Miao Kuo, ông là tác giả đầu tiên của cuốn sách Hát trong im lặng.

Các tự viện Phật giáo ở Đài Loan không giống như các cơ sở sở hữu đất đai, tự túc của Trung Quốc. Quyên góp từ những người sùng đạo và đóng góp cho các tu sĩ là nguồn nuôi sống chính của họ. Trong những ngày đầu này, Đài Loan đang trong tình trạng khó khăn về kinh tế và hầu bao eo hẹp. Do đó, trong một thời gian dài, cộng đồng Phật giáo loay hoay để cố gắng tồn tại. Phật giáo chủ yếu dành cho các nghi lễ tang tế. Trí thức nhìn Tây, ảnh hưởng của Thiên chúa giáo và Tin lành gia tăng từ cấp lãnh đạo trở xuống.

Nhưng, Hsing Yun đã làm việc siêng năng với thái độ cởi mở, kiên trì, hoàn toàn sẵn sàng và khiêm tốn. Những ấn phẩm ban đầu của ông chủ trương cải cách, mở cửa và cứu vãn Phật giáo ở Trung Quốc và Đài Loan. Theo nhiều cách, những ý tưởng này cực kỳ mạo hiểm vào thời điểm đó. Nhưng càng bị ngăn cản, ông càng mạnh dạn và quyết tâm hơn. Ông luôn tỏ ra là một nhà cách mạng, ủng hộ những thay đổi tích cực và những bước phát triển mới để thay đổi cuộc sống và xã hội. Mục tiêu của ông là quảng bá Phật giáo, chăm sóc và phục vụ người khác. Ông hoàn toàn sẵn sàng cống hiến mọi thứ, thậm chí cả mạng sống của mình, cho sự nghiệp này.

Thường thì ông ấy sẽ “đi ngược dòng” với nền văn hóa lâu đời. Vào thời điểm đó, hầu hết “những người thờ cúng” đều có mối liên hệ với các ngôi đền gia đình, Đạo giáo, Nho giáo hoặc Mật Tổ. Thanh niên có thể bị thu hút bởi Phật giáo nhưng sau khi bắt buộc thực hiện nghĩa vụ quân sự, họ đã mất hứng thú và sa vào những cám dỗ của xã hội. Bất chấp những thử thách và gian khổ đó, ông đã viết bài vào ban đêm sau những ngày dài lao động chân tay. Ngay cả khi phải đi khất thực, ông nguyện sẽ làm việc cho giáo dục và truyền bá giáo lý của Đức Phật.

Hsing Yun được một cư sĩ Phật tử yêu cầu dạy Phật giáo ở Ilan vào năm 1952 tại chùa Lôi Âm, được xây dựng từ thời nhà Thanh. Các điều kiện ở đó rất cơ bản và hướng nội. Đài Loan vẫn quay cuồng với gần một thế kỷ dưới sự cai trị áp bức của Nhật Bản, tỷ lệ giáo dục thấp trong người dân và nỗi sợ hãi của người ngoài. Việc “vươn tay” của ông thường bị coi là đe dọa, nhưng ông vẫn kiên trì. Đây là cơ hội đầu tiên để ông thực sự thực hành quan niệm của mình về một hình thức Phật giáo Nhân văn. Ông thuyết pháp thường xuyên, chủ trì các buổi lễ tụng kinh, thành lập một dàn hợp xướng thanh niên Phật giáo để biểu diễn trước công chúng, viết cho tạp chí Awakening the World và Đạo Phật ngày nay, giúp đỡ các dự án xây dựng và giáo dục thanh thiếu niên cũng như quảng bá nghệ thuật. Cuối cùng ông đã có thể tạo ấn tượng tích cực với người dân Đài Loan.

________________________

[1] Thường thì thế giới phương Tây chưa phát triển vốn từ vựng để diễn đạt nhiều điều minh định của Phật giáo. Ngay cả những từ tiếng Anh phù hợp nhất của chúng ta cũng chưa có độ liên kết sâu cần thiết để truyền đạt ý nghĩa đầy đủ của các thuật ngữ truyền thống. Khi viết bài nghiên cứu này, tôi thường diễn giải, tổng hợp và/hoặc tóm tắt các bài viết của Grand Master (từ bản dịch tiếng Anh). Ngoài ra, một số câu nói thích hợp của ông tôi xin trích dẫn trực tiếp kèm theo những dẫn chứng phù hợp (nếu có) để bạn đọc tiện theo dõi.

Tôi đã cố gắng tránh xa việc sử dụng các từ đối ngẫu mang tính phán đoán nhất mà chúng ta có trong tiếng Anh, chẳng hạn như “good”/ “bad”, “right”/ “wrong”. Tôi đã chọn sử dụng các thuật ngữ thay thế như “tích cực”/”tiêu cực” và “đúng”/”không chính xác” vẫn còn mang tính nhị nguyên nhưng không hoàn toàn mang tính phán xét và, theo kinh nghiệm của tôi, xác thực hơn với giáo lý Phật giáo Nhân văn.

Nghiên cứu này không xuất phát từ ngôn ngữ gốc của Phật giáo như tiếng Pali và tiếng Phạn hay các tác phẩm Phật giáo Nhân văn bằng tiếng Trung Quốc (ngoại trừ các bài phỏng vấn). Tất cả các tài liệu nghiên cứu bằng văn bản đều bằng tiếng Anh, do đó độ chính xác của nó đối với mục đích ban đầu có thể không đầy đủ. Đối với các thuật ngữ Phật giáo truyền thống, tôi sử dụng cách đánh vần tiếng Phạn.

Còn tiếp

Humanistic Buddhism as Conceived and Interpreted by
Grand Master Hsing Yun of Fo Guang Shan

By Richard L. Kimball

Hsi Lai Journal of Humanistic Buddhism
V. 1 (2000) – pp. 1-52

ABSTRACT

The intention of this paper is to show how Humanistic Buddhism developed over 2500 years ago and has “re-become” in today’s world due in part to the determined and steadfast efforts of Grand Master Hsing Yun of the Fo Guang Shan Buddhist Order which has its main temple in southern Taiwan. From its beginnings in northern India by Sakyamuni Gautama to its current renaissance, Buddhism has gone through many transformations and developments. Grand Master Hsing Yun has attempted to capture the original essence of the Buddha’s teachings, especially those related to applications in today’s world, as well as to developing new interpretations appropriate to current needs. He has built his beliefs as well as actions not only on the original teachings of the Buddha but also on the experiences and insights of previous masters such as the 6th Patriarch of Ch’an, Ven. Hui Neng, and Ven. Tai Xu.

The Buddha taught ways for transcending earthly suffering as well as how to deal with day-to-day issues in this lifetime. He advocated equality of every human, the interconnectedness of all sentient beings, the sanctity of life and created principles related to developing positive living. In building upon these humanistic ideals, the Grand Master promotes integrating the Buddha’s teachings of kindness, compassion, joyfulness and equanimity into daily life for the benefit of both self and others. He has created a world-wide network of temples and chapters which work to bring Buddhism to every corner of this planet. It is his hope that through this process a Pure Land can be developed here so that all sentient beings can positively live their lives in order to move on to the higher levels of existence such as Bodhisattvahood, Buddhahood and Nirvana.
This paper shows how the Grand Master emerged out of the chaos of 1940s China to create the system of Fo Guang Shan which is substantially influencing many cultures through his writings, teachings and social actions. Finally, the future of Humanistic Buddhism is explored through studying the current structure of Fo Guang Shan and obtaining viewpoints from many members within it including the Grand Master himself.

INTRODUCTION

We are living in a modern era. Buddhism must change its traditional ways by coming out of the forest and entering into society. We must expand the functions of temples to serve the community through involvement in families, nations and the world … [i]n order to promote harmony, understanding and friendship among all humans. (Grand Master Hsing Yun)

Focus of this Paper

This paper on Humanistic Buddhism (hereafter written as HB), attempts to describe and explain the essence of Grand Master Hsing Yun’s ideas, teachings and practices. Because no one can fully or accurately interpret another’s beliefs, and because of the continuous “re-forming” of HB in today’s world, this presentation is a limited exposition based on my extensive readings, first-hand experiences, interviews and personal practice over the past several years. In addition, relevant written material related to the above topic has been incorporated in this discourse as supportive testimony. I will provide the reader the Grand Master’s perspective expressed within these parameters in which I have been working. [*]

The “what” (content) of HB will make up the core work of this paper, but also the “how” and the “why” are included as well because, according to Fernando; the “why” and “how” determine the “what” (see Antony Fernando, p. 127). Without the “how” and “why”, the “what” cannot be adequately understood. I believe that to deal with a topic as diverse and profound as HB, we need a broader vision than that obtained from basic information only. Therefore, this paper will illustrate the content of Grand Master Hsing Yun’s teachings as completely as possible, but also their origin and the process used in their development. The results of those ideas/beliefs/teachings put into practice in today’s world will also be presented. In this way the reader can sense, at a deeper level, the meaning of the Grand Master’s words in the context of HB. Both the historical and current contributions of Grand Master Hsing Yun will be offered. As far as possible, HB will also be related to the original Buddhist teachings by illustrations, references, quotes and explanations.

The main purpose of this paper, then, is to “bring him to life” for the English speaking community, so that more people can better understand Grand Master Hsing Yun’s contributions, their background, history and application in today’s world.

A BRIEF BACKGROUND OF THE DEVELOPMENT OF HUMANISTIC BUDDHISM

Master Hsing Yun has demonstrated that the deep-rooted pragmatism of Buddhism makes it a religion valid today and for all times. In addition to this, he shows us how to apply the teachings of the Buddha to our daily lives… [It is]

Significant Events in the Grand Master’s Life Relevant to His “Becoming” – Conditions at the Beginning

“HB is a new lotus blossom rising out of the mud and opening up to the world. ” (Grand Master Hsing Yun)

Early Years in Mainland China
He was born into a mid-level, peasant family in rural Jiangdu, Jiangsu Province of Eastern China in 1927 which was at the time in great social/political turmoil and under tremendous stress. Both poverty and civil war were rampant in the countryside where his new life began. Hsing Yun’s grandmother had been a devout Buddhist since she was seventeen. She was an important role model for him, especially her industriousness, frugality, kindness and ability to cope with the conditions in which they were forced to live. Under her influence, he began a vegetarian diet when he was only four years old. Somewhat later he attended a local primary school where he was considered a brilliant student.

“Mother I will be your pride!”, said Hsing Yun, when he was reportedly only 10 years old.

The economy at home, as underdeveloped as it was then, required that we cross a canal by boat to make purchases on the other side. During the Sino-Japanese war, no one would risk boating across even for ten or twenty cents. On seeing this, I, then but ten, volunteered my service. I would strip to my waist, tie my shirt around my forehead, and plunge right into the moving stream. In no time I would return with everything everybody had wanted. The villagers, giving me the thumbs-up, would say, ‘That second brother from the Li family sure is something!’ Realization of this unmistakable pride in my mother’s smile reassured me and I even vowed, ‘I’m going to be better still!’ (p. 6, Balley)

The following year, during the Sino-Japanese War, he escorted his fragile mother on a quest to find his father who had left home to do some business, but never returned. On the way they passed Qixia Shan temple and monastery near Nanjing. For some reason he gave the abbot Zhi Kai his word that he would receive the tonsure and renounce worldly life. His mother, held back her tears upon seeing his determination. She returned to Jiangdu alone. Again he said quietly, “Mother, don’t
worry. I will be your pride!”

Hsing Yun became a `sraama.nera (novice monk), was fully ordained at the age of 14 (the usual age was 18) and began receiving his moral education at Qixia Vinaya school and Jiao Shan Buddhist College which was noted for its hall dedicated to the combined practice of Ch’an meditation and Pure Land devotion.

The traditional temple teaching was by disciplining and reprimanding and not guiding and encouraging. Barring novices from returning home was based on the fear that exposure to outside influences might be distracting, and they would forget their quest for truth. Rigorous training was supposed to teach monks to prevail with mental fortitude. It entailed the endurance of pain and poverty. In the end they learned to let go of material life.

Hsing Yun adopted a traditional form of discipline that would not interfere with daily responsibilities. He ate one meal before noon, copied the sutras, carried out the prostrations drill late at night, practiced meditation, remained in silence for long periods of time, concentrated on Buddha’s teachings and did some retreats. He never went into lone seclusion for long periods of time. These exercises did not bring him immediate enlightenment, but bolstered his aspiration for and faith in Buddhism.

Many years of character building by way of a rather rigid and disciplined education in a large monastery setting enabled him not only to just smile at life’s adversities but also to delight in complying with others. He was given the names of Wu Che (Dharma name, inside – “Completely Wise”) and Jin Jue (Daily use name, outside-“Enlightened Today”).

Adult Years in Mainland China

China, especially after World War II was finally over, was a vast land of destitution. Even in temples, there often were not enough provisions to feed all the monks. They survived on very little. They had little to wear so were often shivering in the winter cold. Rags others threw away were converted into socks. Hsing Yun had no money. He couldn’t even mail any letters to his mother.

Admitted to Jiao Shan Buddhist College in 1945, he enjoyed reading books, newspapers and other information. By the time he left Jiao Shan in 1947, Hsing Yun had studied in the monastic system for close to ten years. He completed his training in Buddhist discipline, teaching and doctrine. He also experienced an immersion in the Mahayana spirit of the importance of both practice and understanding. Afterwards, with youthful ardor, he stepped into a gravely afflicted society and found himself embroiled in the survival of both the nation and his faith.

He lived in a struggling time — the belligerence of the warlords, the aggression of the Japanese, the strife between the Nationalists and Communists, the incursion of Western ideas and the suffering of the common folk. He promised to “revitalize” Buddhism in order to establish peace and tranquility. He could not stop thinking, “Don’t ask what Buddhism can give me. Ask what I can give Buddhism!” (p. 50, Fu)

In 1947 he arrived at Da Jue temple in order to become abbot and principal of White Pagoda Elementary School. There he founded a monthly newspaper and was arrested a couple of times by either a “bandit” group (or, by some accounts, the Communists or Nationalist government). He became director of Hua Zang temple in Nanjing in 1948 and edited the Splendid Light supplement to the newspaper Xu Bao. In some of his extensive readings he came across a science book on the universe which explained the role of nebulae in creating stars. He was so impressed he created the name Hsing Yun (Star Cloud) and put it on one of his ID cards. Later, in his time of always having to move around, he lost his other ID papers and thus took the name Hsing Yun as his official name.

The Maoists took over most of China by 1949. Hsing Yun lost contact with his widowed mother during this Civil War. Also, his great teacher and mentor Zhi Kai died. The pain of separation from these two important people made him more determined in his resolve to spread the Dharma. In order to be in a place with less turmoil so he could re-examine his life’s intentions, Hsing Yun and several other monks joined a medical relief mission and arrived from Shanghai at the port of Keelung in Taiwan.

Moving to Taiwan

For many years in Taiwan, he also endured great hardships. He arrived without a cent to his name. It was almost impossible to find food and shelter. Newcomers from the mainland were viewed with suspicion. He was soon arrested with others on allegations of subversive activities since they were from mainland China. The political atmosphere was extremely paranoid at that time. Finally, after his release and weeks of wandering, the Yuan Kuang temple in Chungli took him in. Out of gratitude, he began serving others by undertaking the menial tasks of pulling carts, buying food, fetching water, cleaning latrines and cutting wood.

At that time Taiwan was seen as somewhat anti-Chinese Buddhist (they were more into the Japanese Zen tradition) and had few temples, most of which were in the “mountains and forests.” In spite of all these problems he saw Taiwan as the “brave new world” for Buddhism. He moved on from the menial tasks and became involved in a lot of teaching (including in prisons), writing and publishing as well as founding a kindergarten. At Yuan Kuang temple, under Master Miao Kuo, he authored his first book, Singing in Silence.

The Buddhist monasteries in Taiwan were unlike the land-owning, self-sufficient establishments of China. Donations from devotees and contributions to the monastics were their main sources of sustenance. In these early days Taiwan was in economic plight, and purse strings were tight. Hence, for the longest time, the Buddhist community was busy just trying to survive. Progress had to wait. Buddhism was mostly for funeral ceremonies. Intellectuals looked West. Catholic and Protestant Christian influences increased from the presidential level on down.

But, Hsing Yun worked diligently with an open-minded, persistent, perfectly willing and humble attitude. His early publications advocated the reforming, opening and saving of Buddhism in China and Taiwan. In many ways these ideas were extremely dangerous to have at the time. But the more he was deterred, the bolder and more determined he became. He always seemed to be a revolutionary, advocating positive change and new developments in order to transform lives and society. His goal was to promote Buddhism and care for and serve others. He was perfectly willing to dedicate everything, even his life, to this cause.

Often he would be “going against the tide” of established culture. At that time most “worshipers” were connected to family, Daoist, Confucian, or Matsu Temples. Youths might be attracted to Buddhism but after compulsory military service, they lost interest and gave into the temptations of society. In spite of these trials and tribulations, he wrote articles at night after long days of manual labor. Even if left to beg, he vowed he would work for education and spreading the teachings of the Buddha.

Hsing Yun was asked by a lay Buddhist to teach Buddhism in Ilan in 1952 at the Lei Yin temple, which had been built during the Qing Dynasty. The conditions there were very basic and inward looking. Taiwan was still reeling from almost a century of Japanese oppressive rule, a low education rate among the people and fear of outsiders. His “reaching out” was often seen as threatening, but he was persistent. This was his first opportunity to really try out practicing his concept of a humanistic form of Buddhism. He gave regular lectures, officiated at chanting ceremonies, set up a Buddhist youth choir to perform publicly, wrote for Awakening the World magazine and Buddhism Today, helped with youth education and construction projects and promoted art. He finally was able to make a positive impression on the people of Taiwan.

________________________

[1] Often the Western world has not yet developed the vocabulary to express many of the insists of Buddhism. Even our most suitable English words do not yet have the depth of associations needed to convey the full meaning of the traditional terms. In writing this research paper I often paraphrase, synthesize, and/or summarize the Grand Master’s writings (from English translations). Also, certain pertinent statements by him I do quote directly with suitable references (if available) for the reader.

I have tried to stay away from the use of the most judgmental dualities we have in English such as “good”/ “bad”, “right”/ “wrong”. I have chosen to use alternative terms such as “positive”/ “negative” and “correct” /”incorrect” that are still dualistic but not quite as judgmental and, in my experience, more authentic to Humanistic Buddhist teachings.

This research does not come from the original language of Buddhism such as Pali and Sanskrit or Humanistic Buddhist writings in Chinese (except interviews). All written research material was in English, therefore its accuracy as to the original intention may not be complete. For traditional Buddhist terms, I use the Sanskrit spelling.

Buddhism engaged in service to others and grounded in monastic communities and lay organizations dedicated to Buddhist teaching and practices. It is his conviction that Humanistic Buddhism, in its practical implications, symbolizes the goals of all schools and sects of Buddhism in the world, and therefore, serves as a unifying concept for the redefinition and interpretation of the teaching of Buddhism for the benefit of humanity today. (Dr. Ananda W.P. Guruge)

Thursday, January 19, 2023

Daniel Scharpenburg | Tâm Quảng Nhuận lược thuật: Martin Luther King Jr. & Đạo Phật | Martin Luther King Jr. & Buddhism

 

“Trong thế giới này, sự căm ghét chưa bao giờ xua tan được sự căm ghét. Chỉ có tình yêu mới xua tan được hận thù. Đây là chân lý muôn đời” | ~ Đức Phật

“Bóng tối không thể xua đuổi được bóng tối; chỉ có ánh sáng mới có thể làm được điều đó. Hận thù không thể xua đuổi hận thù; chỉ có tình yêu mới làm được điều đó ”. | Martin Luther King Jr.

Martin Luther King Jr. không phải là một Phật tử. Tuy nhiên, trong hoạt động bất bạo động của mình, rõ ràng là ông đã được truyền cảm hứng từ phong trào phản kháng bất bạo động của Gandhi. Ông cũng được truyền cảm hứng từ các bậc thầy Phật giáo. Tinh thần đấu tranh bất bạo động của ông là điều cần truyền cảm hứng cho tất cả chúng ta.

Hòa bình, bình đẳng, và tình yêu — đây không phải là các giá trị riêng của Cơ đốc giáo hay các giá trị Phật giáo. Đây là những giá trị nhân văn mà chúng ta nên vun đắp vì hạnh phúc của mọi người.

Mọi người đều biết về hoạt động tích cực của Tiến sĩ King trong cuộc đấu tranh vì bình đẳng chủng tộc. Ông cũng là một nhà hoạt động vì hòa bình. Ông ấy phản đối mạnh mẽ cuộc chiến ở Việt Nam — một trong những bài phát biểu “Beyond Vietnam” của ông ấy là truyền cảm hứng nhất.

Ông kết bạn với một thiền sư trẻ tuổi sống lưu vong từ Việt Nam và tham gia hoạt động vì hòa bình. Ngài tên là Thích Nhất Hạnh. Thực sự chúng ta không biết chính xác hai vị này đã học được bao nhiêu điều từ nhau, nhưng chúng ta biết rằng họ đã dành một khoảng thời gian bên nhau và họ đã đưa ra lời khuyên cho nhau.

Tiến sĩ King đã viết một lá thư cho Ủy ban Nobel kêu gọi họ trao giải Nobel Hòa bình cho Thiền sư Thích Nhất Hạnh vì những nỗ lực của ngài trong hoạt động hòa bình.

Ảnh: Internet

Nguyên văn như sau:

Thưa quý ông:

Với tư cách là người từng đoạt giải Nobel Hòa bình năm 1964, bây giờ tôi hân hạnh được đề xuất một người bạn của tôi là Tỳ kheo Thích Nhất Hạnh cho giải thưởng đó năm 1967. Cá nhân tôi không biết có ai xứng đáng với giải Nobel Hòa bình hơn nhà sư Phật giáo Việt Nam hiền lành này.

Đây sẽ là một năm tốt lành đáng chú ý để trao Giải thưởng của mình cho thầy Nhất Hạnh. Đây là một sứ giả của hòa bình và bất bạo động, bị lưu đày một cách tàn nhẫn khiến cách ly khỏi dân tộc của mình đang trong hoàn cảnh bức bách bởi một cuộc chiến tàn khốc đang leo thang và tạo sự bất an cho toàn thế giới.

Bởi vì không có vinh dự nào được tôn trọng hơn Giải Nobel Hòa bình, việc trao tặng Giải thưởng cho thầy Nhất Hạnh tự nó sẽ là một hành động hòa bình ý nghĩa nhất. Nó sẽ nhắc nhở tất cả các quốc gia rằng những người có thiện chí sẵn sàng chuyển hóa các phần tử tham chiến thoát khỏi vực thẳm của hận thù và hủy diệt. Nó sẽ thức tỉnh những người chiến binh về lời dạy của vẻ đẹp và tình yêu được tìm thấy trong hòa bình. Nó sẽ giúp làm sống lại hy vọng về một trật tự công lý và hòa hợp mới.

Tôi biết thầy Thích Nhất Hạnh, và tôi rất hân hạnh được gọi ông là bạn của tôi. Bay giờ hãy cho phép tôi được chia sẻ với bạn một số điều tôi biết về Thầy ấy.

Bạn sẽ tìm thấy trong con người độc đáo này một loạt các khả năng và ý nguyện tuyệt vời.

Tượng kỷ niệm tình bạn của Thích Nhất Hạnh và Tiến sĩ Martin Luther King
tại Nhất Hạnh’s Magnolia Grove Monastery ở Mississippi. | Ảnh: Paul Davis

Thầy ấy là một người thánh thiện, vì khiêm tốn và tín tâm. Thầy là một học giả có trí lực vô biên. Tác giả của mười tập truyện đã xuất bản, Thầy cũng là một nhà thơ của sự trong sáng và lòng nhân ái tuyệt vời. Ngành học của Thầy là Triết học Tôn giáo, từng là Giáo sư tại đại học Vạn Hạnh, một trường Đại học Phật giáo mà thầy đã góp một phần tâm huyết để thành lập ở Sài Gòn. Thầy đảm trách Viện Nghiên cứu Xã hội tại Đại học này. Vị Sư tuyệt vời này cũng là biên tập viên của báo Thiện Mỹ, một ấn phẩm hàng tuần về Phật giáo có ảnh hưởng quần chúng. Đồng thời, thầy còn là Giám đốc Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, một tổ chức của đào tạo những người trẻ tuổi mang tâm nguyện tái lập nền hòa bình cho đất nước của họ.

Thầy Nhất Hạnh bây giờ hầu như vô gia cư và không quốc tịch. Nhưng nếu quay trở lại Việt Nam, tuy là điều mà Thầy hằng mong mỏi, thì cuộc sống của Thầy sẽ rất nguy hiểm. Cho nên Thầy là nạn nhân của một cuộc lưu đày chỉ vì dám mạnh mẽ đề xuất thực hiện chủ trương hòa bình cho dân tộc của mình. Đây là một hoàn cảnh bi thảm hiện tại của Việt Nam và những người gây ra nó.

Lịch sử Việt Nam chứa đầy những trang bóc lột của các thế lực ngoại bang và những kẻ tham tài, cho đến tận bây giờ người Việt Nam vẫn bị cai trị hà khắc, đói kém, nghèo khổ, và gánh nặng bởi tất cả những khó khăn và kinh hoàng của chiến tranh hiện đại.

Thầy Nhất Hạnh đưa ra một giải pháp thoát khỏi cơn ác mộng này, một giải pháp được các nhà lãnh đạo duy lý chấp nhận. Ông đã đi khắp thế giới, tư vấn cho các chính khách, các nhà lãnh đạo tôn giáo, các học giả và nhà văn, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của họ. Những ý tưởng của ông về hòa bình, nếu được áp dụng, sẽ xây dựng một tượng đài cho chủ nghĩa đại kết, cho tình anh em thế giới, cho nhân loại.

Tôi trân trọng đề nghị Hội đồng lưu tâm cho sự nghiệp của Thầy ấy bằng sự thừa nhận của Giải Nobel Hòa bình năm 1967. Thầy Thích Nhất Hạnh sẽ nhận vinh dự này một cách ân cần và khiêm tốn.

Trân trọng,

Martin Luther King, Jr.

Mặc dù bấy giờ Thiền sư Thích Nhất Hạnh không nhận được giải Nobel  — nhưng kể từ đó, Thầy là một nhà hoạt động không mệt mỏi để truyền bá hòa bình và tình yêu.

Thầy vẫn làm việc đó cho đến ngày hôm nay. Không nghi ngờ gì, Thầy Thích Nhất Hạnh và Tiến sĩ King là những Bồ tát giữa cõi đời này.

Chúng ta có thể học hỏi rất nhiều điều từ những hoạt động của họ.

Photo by Paul Davis

Martin Luther King Jr. & Buddhism.

Daniel Scharpenburg | Elephant Journal

“In this world
Hate never yet dispelled hate.
Only love dispels hate.
This is the law,
Ancient and inexhaustible.”
the Buddha

“Darkness cannot drive out darkness; only light can do that. Hate cannot drive out hate; only love can do that.”
Martin Luther King Jr.

I don’t think Martin Luther King Jr. was a Buddhist.

However, in his nonviolent activism, it was clear that he was inspired by Gandhi’s nonviolent resistance movement. He was also inspired by Buddhist teachers. His commitment to nonviolence is something that should be inspirational to all of us.

Peace, equality, love—these aren’t just Christian values or Buddhist values. These are human values that we should all cultivate for the well-being of everyone.

Everyone knows about Dr. King’s activism in the struggle for racial equality. He was also a peace activist. He strongly opposed the war in Vietnam—one of his speeches “Beyond Vietnam” is, to me, the most inspiring.

He befriended a young Zen monk who had been exiled from Vietnam and was involved in peace activism. His name was Thich Nhat Hanh. It isn’t really known exactly how much these two learned from each other, but we know that they spent some time together and they gave each other advice.

Dr. King wrote a letter to the Nobel Committee urging them to award the Nobel Peace Prize to Thich Nhat Hanh for his efforts at peace activism.

Here it is:

  1. “Gentlemen:
  2. As the Nobel Peace Prize Laureate of 1964, I now have the pleasure of proposing to you the name of Thich Nhat Hanh for that award in 1967. I do not personally know of anyone more worthy of the Nobel Peace Prize than this gentle Buddhist monk from Vietnam.
  3. “I hated Journaling until I tried this.” Take the 90-Day Journey, you will not be disappointed. (Get 20% off with code EJ20) >>
  4. This would be a notably auspicious year for you to bestow your Prize on the Venerable Nhat Hanh. Here is an apostle of peace and non-violence, cruelly separated from his own people while they are oppressed by a vicious war which has grown to threaten the sanity and security of the entire world.
  5. Because no honor is more respected than the Nobel Peace Prize, conferring the Prize on Nhat Hanh would itself be a most generous act of peace. It would remind all nations that men of good will stand ready to lead warring elements out of an abyss of hatred and destruction. It would re-awaken men to the teaching of beauty and love found in peace. It would help to revive hopes for a new order of justice and harmony.
  6. I know Thich Nhat Hanh, and am privileged to call him my friend. Let me share with you some things I know about him.
  7. You will find in this single human being an awesome range of abilities and interests.
  8. He is a holy man, for he is humble and devout. He is a scholar of immense intellectual capacity. The author of ten published volumes, he is also a poet of superb clarity and human compassion. His academic discipline is the Philosophy of Religion, of which he is Professor at Van Hanh, the Buddhist University he helped found in Saigon. He directs the Institute for Social Studies at this University. This amazing man also is editor of Thien My, an influential Buddhist weekly publication. And he is Director of Youth for Social Service, a Vietnamese institution which trains young people for the peaceable rehabilitation of their country.
  9. Thich Nhat Hanh today is virtually homeless and stateless. If he were to return to Vietnam, which he passionately wishes to do, his life would be in great peril. He is the victim of a particularly brutal exile because he proposes to carry his advocacy of peace to his own people. What a tragic commentary this is on the existing situation in Vietnam and those who perpetuate it.
  10. The history of Vietnam is filled with chapters of exploitation by outside powers and corrupted men of wealth, until even now the Vietnamese are harshly ruled, ill-fed, poorly housed, and burdened by all the hardships and terrors of modern warfare.
  11. Thich Nhat Hanh offers a way out of this nightmare, a solution acceptable to rational leaders. He has traveled the world, counseling statesmen, religious leaders, scholars and writers, and enlisting their support. His ideas for peace, if applied, would build a monument to ecumenism, to world brotherhood, to humanity.
  12. I respectfully recommend to you that you invest his cause with the acknowledged grandeur of the Nobel Peace Prize of 1967. Thich Nhat Hanh would bear this honor with grace and humility.
  13. Sincerely,
  14. Martin Luther King, Jr.

Thich Nhat Hanh didn’t win the Nobel Prize that year—but, he’s been a tireless activist for spreading peace and love ever since.

He’s still doing it today.

There is no doubt in my mind that Thich Nhat Hanh and Dr. King were Bodhisattvas.

We can learn a lot from their examples.