Ngài Khương Tăng Hội - Sư Tổ Thiền Việt Nam. |
GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT
Công Trình Dịch Thuật Kinh, Luật, Luận, Triết Học, Thi Ca của Thượng Toạ Tuệ Sỹ
NGUYÊN SIÊU
Xuyên suốt tầm nhìn để làm việc xâu kết một công trình học
thuật có tầm vóc là một điều vô cùng khó khăn. Hơn nữa, một công
trình học thuật lại là của một bậc Thầy, của một nhà nghiên cứu Phật
học uyên bác, của một nhà tư tưởng, thi ca đương thời thì quả
thật lại càng không nên.
Nếu nói về số lượng của công trình học thuật ấy
cũng đủ để cho chúng ta kính trọng, ngưỡng mộ cái khả năng bền bỉ, liên
tục, làm việc không biết mỏi mệt, để ngày hôm nay đã tác thành những bộ
kinh được luận giải, chuyển ngữ từ Phạn bản, Hán tạng ra Việt
ngữ. Bao nhiêu tư tưởng triết học từ Ðông sang Tây được viết
thành những chủ đề lớn để thấy được hai nền văn hóa Ðông Tây gặp
nhau dưới ngòi bút của Thầy. Và còn biết bao những áng văn thơ khác nữa.
Nếu nói về phẩm, qua công trình học thuật ấy, thì
Thầy có một trí tuệ hoằng viễn, một công trình giảng luận to
lớn qua các tác dịch phẩm đã được ấn hành. Do vậy, nhân buổi lễ giới
thiệu tác phẩm "Huyền Thoại Duy Ma Cật" hôm nay,
người viết xin phép được giới thiệu một cách tiêu biểu các
tác dịch phẩm, các chủ đề biện bàn Triết Học Tư Tưởng Ðông
Tây, Tư Tưởng Phật Học và một số bài thơ mang tình đạo vị, quê
hương, dân tộc, để thấy một người con dân nước Việt đã sống trong lòng quê
hương, lớn lên trong tình tự dân tộc đã cùng chia sẻ, cưu mang những
bước thăng trầm của vận nước và từ đó đã đi theo định nghiệp của
mình, như lời tựa, Thắng Man Giảng Luận: do Ban Tu Thư Viện Cao
Ðẳng Phật Học Hải Ðức Nha Trang ấn hành năm 2001:
"Bản Kinh Thắng Man này được dịch và giải vào một thời điểm
mà dấu ấn của nó sẽ mãi mãi không phai mờ trong tâm
trí của những chứng nhân lịch sử. Mỗi cá nhân nhìn
theo góc độ nhãn quan của mình. Bằng hữu trí thức có thể tìm thấy đâu
đó, giữa hai hàng chữ dịch và giải, dấu ấn mơ hồ của thời gian.
Một cọng cỏ non yếu, cố vươn mình đón bắt ánh sáng cho lẽ sống, dưới sức nặng
tàn bạo của khối đá vô tri lầm lì. Bản dịch và giải chỉ mới hoàn
tất phần đại cương. Nhưng cũng phải tạm thời xếp vào góc tối của giá
sách. Người viết đi theo định nghiệp của mình. Hay của cả dân tộc?"
Dịch Thuật Kinh
Tạng
Trong thời gian nhập thất Thầy đã dịch xong bộ A
Hàm (Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhứt A Hàm và Tạp
A Hàm) làm Kinh học cho các lớp chuyên khoa Phật Học, đồng thời cũng
để cho các thế hệ kế thừa có cái nhìn thấu triệt về đời
sống, và công cuộc thuyết pháp hóa độ thường nhật của Ðức Thế
Tôn và hàng Thánh chúng.
Nội dung bốn bộ Kinh A Hàm, Ðức Phật thuyết pháp
cho đủ mọi giới, từ thế giới chư thiên đến hội chúng Thánh đệ
tử, từ xã hộiloài người đến các loài chúng sinh khác. Ðức
Phật không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, vua chúa, cùng đinh, trí
thức hay yếu kém, thành thị hay thôn quê, bất cứ ai có đủ nhân
duyên thì Ðức Phật đều hóa độ. Như kinh Angulimala, chàng Vô Não,
Ðức Phật hóa độ kẻ sát nhân thành Thánh quả. Kinh Amparali
Ðức Phật hóa độ người kỹ nữ thành thánh thiện, người gánh
phân thành A La Hán, bậc vua chúa thành người hộ pháp và hàng trưởng
giả thành đại thí chủ. Trong kinh Giáo Thọ Thi Ca La
Việt, Ðức Phật hóa độ chàng Thiện Sanh lạy lục phương trong Thánh
pháp luật. Kinh Phạm Thiên thỉnh Phật, hóa độ qua các
cung trời. Kinh Thủy Tịnh Phạm Chí, hóa độ hàng Bà La
Môn ngoại đạo, mà cách thức tu hành của họ là lõa thể, hay khổ
hạnhtheo cách sống của loài súc vật - Ngưu hành giả, Cẩu hành
giả, bắt chước cách ăn như trâu và ngồi chồm hổm như chó.
Cũng trong nội dung bốn bộ A Hàm đã nói lên đời sống thật đơn
giản, ít nhu cầu và an nhiên tự tại của Ðức Phật: Ngày chỉ ăn một
bữa, tối ngủ dưới gốc cây, với ba tấm y, một bình bát, một đãy lọc nước,
một túi kim chỉ, tọa cụ và cây gậy. Gia tài Ðức Phật chỉ có
chừng đó. Bất cứ nơi nào cũng là chốn an nghỉ của Ngài, khi thì trong ngôi nhà
trống, khi thì nơi đống rơm, trong căn phòng của người thợ đồ gốm, khi thì dưới
gốc cây hay bên triền núi...
Nền văn học Kinh văn A Hàm đã làm sống
lại thời Ðức Thế Tôn tại thế, cũng như hàng Thánh chúng trong
sự tu tập, thiền định hằng ngày. Trong sự tu tập thiền định ấy, quán
chiếu tự thân, thọ, tâm, pháp để ý thức từng cảm giác, động
tác nơi chính mình, loại trừ vô minh, cấu uế, chấm dứt phiền
não ô trược của tham sân si, để chuyển thành vô tham, vô
sân, vô si...
Thầy phiên dịch bốn bộ kinh A Hàm chứa đựng
bao nhiêu tinh túy, thâm uyên của nền kinh viện Nguyên Thủy Phật
giáo, đã làm tỏ rạng, đậm nét từng bước chân đi của Ðức Phật in dấu trên khắp mọi
nẻo đường hóa độ, thì đồng thời, Thầy cũng dịch thuật những bộ
kinh thuộc nền kinh viện Ðại Thừa, phát huy Bồ Tát Đạo. Những vị Bồ
Tát sống đời tại gia, hình dung, dáng dấp không khác một ai,
nhưng tâm tư, ý niệm lại là hóa thân của Ðại Bồ Tát,
mang hành trang Bi Nguyện làm đẹp cuộc đời, cứu vớt trầm
luân. Những bản kinh hàm súc nội dung ấy là: Thắng Man Giảng
Luận, Duy Ma Cật Sở Thuyết, Huyền Thoại Duy Ma Cật, Pháp
Thoại Duy Ma Cật...
Yếu chỉ của những bộ kinh ấy đã dạy cho chúng
ta thấy con đường của Bồ Tát đi, chí nguyện của Bồ
Tát phát và hành vi của Bồ Tát làm để phụng sự lý
tưởng giác ngộ. Dù trên con đường phụng sự ấy, gặp phải
muôn ngàn chướng duyên, nghịch cảnh, Bồ Tát cũng không nao núng ý
chí độ sinh. Bởi vì Bồ Tát có đủ Ðạo, Nguyện, Hành, có đủ Bồ Ðề
Tâm, lòng giác ngộ cho mình và cho người.
Trong Thắng Man Giảng Luận, Tiết 2: Phát Bồ Ðề Tâm, Thầy viết:
"Hạt giống Bồ Đề không được gieo vào một cánh đồng trừu tượng nào
xa xôi, cũng không chờ đợi gieo vào một vùng đất hứa thần thoại nào
khác, mà nó được gieo xuống ngay trên sa mạc sinh tử này, khô cằn với
những đau khổ triền miên của chúng sinh này. Rồi hạt
giống ấy cần phải được tưới bằng nước ngọt của Từ Bi để
lớn mạnh, để đến thời trổ hoa giác ngộ. Do đó, quá trình Quy, Giới, Nguyện
và Hành của Bồ Tát Đạo là những giai đoạn gieo xuống và vun tưới hạt
giống Bồ Đề. Nói cách khác phát Bồ Ðề Tâm và thành tựu Bồ Đề quả
là trọn vẹn tất cả sự nghiệp của Bồ Tát."
Thầy tiếp tục lý giải bước đầu của Bồ
Tát phát tâm phải như thế nào? Bằng cái nhìn thẩm thấu xuyên
suốt ba đường ác đạo, bằng cái khổ miên man trên ngọn lửa
thiêu đốt, chúng sinh mãi lang thang trong rừng vô minh, đại
dương sinh tử mà chưa từng có ý niệm vượt thoát sông mê. Từng
những ý niệm ban sơ cứu độ, từng những cảm xúc đến những
nỗi khổ của chúng sinh, Bồ Tát phát khởi chí nguyện gieo
hạt mầm giác ngộ trên mảnh đất phiền não thế gian - phiền
não tức Bồ Đề, để từ đó hương vị giải thoát được vươn cao, thành tàng
rộng che mát thế gian nhiều nắng quái và tiếp tục nuôi dưỡng bằng
dòng sữa từ ái lớn khôn trên con đường chuyển mê khai ngộ,
từ phàm thành thánh.
Ðể thấy rõ ý nghĩa đích thực của Bồ Ðề Tâm mà một vị Bồ
Tát hay hành giả đi trên con đường cứu độ phải thân
chứng, thật chứng tánh đức vị tha ấy. Thầy viết:
"Bồ Ðề Tâm là gì? Bồ Ðề Tâm đó là chí nguyện nóng
bỏng của một chúng sinh tự thấy mình đang sống trong cảnh tối
tăm giữa đọa đày khổ nhục, mong tìm một con đường sáng
không những để giải thoát bản thân khỏi những đe dọa áp
bức mà còn để giải thoát cho tất cả những người cùng cảnh
ngộ. Bồ Ðề Tâm, đó là ý chí kiên cường bất khuất của một người bị cột
trói trên ngọn lửa rực cháy, bị chà đạp dưới những sức mạnh tàn
khốc của tham vọng, điên cuồng của chính ta và của một tập thể ma
quái chung quanh ta. "Vui cười gì, thích thú gì, giữa ngọn
lửa không ngừng thiêu đốt? Bị bao phủ trong bóng tối, sao không đi tìm ngọn đuốc?"
Không có tâm nguyện đó, không có ý chí đó, Bồ
Tát Đạo chỉ là một con đường xa xôi, không tưởng, thần
thoại hoang đường. Và Phật thừa không hơn một tiếng nói suông của
một người mê sảng trong giấc ngủ ngày."
Từ sự suy tư hiện thành lý giải, giảng luận, chúng
ta thấy Bồ Ðề tâm mang nhiều ý nghĩa qua sự sưu khảo nghiên
cứu từ Ðại Tạng Kinh, từ những bộ luận lớn cho người học Phật một kiến
thức Phật pháp, một cái học đầy hứng thú, một kiến giải Phật
pháp thâm uyên. Và cũng từ sự học Phật đó để trang bị cho mình, hay
nói cho đúng hơn, chớ có đánh mất Bồ Ðề Tâm, mà phải luôn nhớ, và luôn
luôn hiện hữu, dù bất cứ sống chết trong loài chúng sinh nào.
Bởi vì Bồ Ðề Tâm là tâm giác ngộ. Trên con đường tu tập mà
quên đi cái tâm giác ngộ thì tu tập để thành cái gì? Bồ Ðề
Tâm là nhân tố, là những điều kiện tất yếu cần có trên con đường thăng
tiến cầu đạo Vô thượng, là những phẩm tính siêu việt nâng đỡ để Bồ
Tát thành tựu ước nguyện.
Trong phần chú thích, Thầy đã dẫn giải:
"Bồ Ðề Tâm (SKT Bodhicitta), nói đủ là vô thượng Bồ
Ðề Tâm, hay A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Ðề Tâm (SKT
Anuttara-Samyak-Sambodhi-citta) tức tâm nguyện thành tựu sự giác
ngộ tối thượng. Ðại trí độ: "Bồ Tát sơ phát tâm, lấy vô thượng
Bồ Đề làm đối tượng, nói rằng: Mong tôi sẽ thành Phật. Ðó gọi là Bồ Ðề
Tâm." Bồ Tát Di Lặc nói với Thiện Tài: "Bồ Ðề Tâm là hạt
giống của hết thảy Phật pháp. Bồ Ðề Tâm là ruộng phước vì
nuôi lớn pháp bạch tịch. Bồ Ðề Tâm là cõi đất lớn, vì nâng đỡ hết thảy thế
gian. Bồ Ðề Tâm là tịnh thủy, vì rửa sạch tất cả cáu bợn phiền não..."
Thắng Man Giảng Luận là bộ kinh lấy tên người
con gái của Vua Ba Tư Nặc và Mạt Lỵ phu nhân để đặt
tên. Nguyên do, sau khi tiếp nhận thư của vua cha và mẫu hậu tán
thán những phẩm tính siêu việt của Như Lai mà Thắng
Man đã phát khởi niềm tin thâm thiết, và phát nguyện rộng
lớn, ấy là chí nguyện đại thừa Bồ Tát, thượng cầu hạ hóa. Một chí
nguyện hy hiến thân mạng để tôn sùng Ðạo pháp, để lợi lạc chúng
sinh. "Thắng Man phu nhân phát khởi chí nguyện. Chí
nguyện ấy là mong học hỏi và thấu triệt vô lượng vô
biên Phật pháp; và không chỉ có thế, chí nguyện phu nhân còn
hướng đến những thực hành cao cả, tự mình gánh vác trách
nhiệm lớn lao, sẵn sàng xả bỏ thân mạng vì sự tồn tại của chánh
pháp và vì lợi ích của tất cả chúng sinh."
Tên người Thắng Man, biểu tượng công hạnh Bồ Tát của nữ
giới. Từ biểu tượng Bồ Tát này, chúng ta thấy hình
ảnh Bồ TátDuy Ma Cật trong Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, hay Huyền
Thoại Duy Ma Cật, mà Thầy đã giới thiệu và luận giải. Ðể rõ duyên
do và ý niệm của Kinh, trong chương II Phương Tiện Quyền
Xảo, Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh đã nói:
"Bấy giờ, trong thành Tỳ Da Li có vị trưởng
giả tên Duy Ma Cật, hằng cúng dường vô lượng Phật, trồng
gốc rễ thiện, chứng đắc vô sanh pháp nhẫn, có tài biện thuyết vô
ngại, hiện du hí thần thông, nắm vững các tổng trì, đạt được vô
sở úy, khuất phục mọi thù nghịch quấy nhiễu của Ma, thấu hiểu
mọi pháp môn sâu thẳm, dẫn đến giác ngộ... An trú trong
oai lực nhiệm mầu của Phật, tâm ông luôn trải rộng như đại dương. Ðược chư
Phật ca ngợi, hàng Ðế Thích và Phạm Thiên kính phục."
Một vị Bồ Tát hiện thân Trưởng giả, có đủ đời
sống ngũ dục mà không bị chi phối bởi ngũ dục. Ở trong
hương sắc của thế gianmà không bị thế gian đắm nhiễm. Vui
chơi trong cuộc sống mà lúc nào cũng trụ trong đạo tràng thanh tịnh -
Tùy sở trú xứ thường an lạc.
Ðây là tư tưởng Ðại thừa Phật giáo, bàng bạc
trong Kinh văn Duy Ma Cật. Có lần Duy Ma Cật Trưởng giả gặp
Ngài Xá Lợi Phất đang tĩnh tọa trong khu rừng vắng, Duy
Ma Cật hỏi Ngài Xá Lợi Phất:
"Thưa Ngài Xá Lợi Phất, bất tất ngồi như thế mới là tĩnh
tọa... không khởi diệt tận định (Samjnàvedita -Nirodha-Samàpatti) mà
hiện các oai nghi, đó mới là tĩnh tọa... không đoạn phiền não mà nhập
Niết Bàn, ấy mới là tĩnh tọa..."
Ðó là cung cách của Ngài Xá Lợi Phất - bậc A
La Hán. Còn đối với chư vị Bồ Tát, có lần Duy Ma Cật lên cung trời
Ðâu Xuất (Tusita) viếng Bồ Tát Di Lặc (Maitreya) và hỏi:
"Thưa Ngài Di Lặc, Thế Tôn thọ ký cho
Ngài, một đời nữa sẽ thành Phật. Nhưng Ngài được thọ ký theo
đời nào? Quá khứchăng? Quá khứ đã qua rồi. Vị lai chăng? Vị
lai chưa đến. Hiện tại chăng? Hiện tại không dừng?"
Huyền Thoại Duy Ma Cật, tác phẩm được giới
thiệu hôm nay, hàm tàng một nội dung ẩn mật phô diễn hành
trạng của vị Bồ Táthóa thân vào đời để thi thiết Bồ Tát đạo, lập
thệ sâu xa Bồ Tát nguyện và tác thành chân thân Bồ
Tát hạnh giữa biển đời sinh tử trầm luân. Huyền Thoại Duy
Ma Cật là tác phẩm mới nhất được Thầy dịch giảng, luận giải bằng sở
tri uyên thâm Phật pháp, bằng nghệ thuật văn phong lịch nghiệm để từ
đó hiến dâng, trao tặng cho tất cả bằng hữu tri thức, cùng pháp giới chúng
sanhthấm nhuần ân pháp nhũ.
Như vậy, riêng về phần phiên dịch Kinh tạng, Thầy đã phiên
dịch hai hệ kinh điển Nguyên Thủy Phật giáo - Kinh
A Hàm và Ðại Thừa Bồ Tát - Duy Ma Cật, Thắng Man để giúp
người học Phật có cái nhìn tổng quát qua hai hệ kinh điển của Thượng
Tọa bộ và Ðại Chúng bộ theo từ ngữ thời bấy giờ. Nhưng, cho đến hôm
nay, có lẽ cái nhìn được cởi mở và thấu triệt hơn nên Thầy đã phiên
dịch Kinh điển để cống hiến sự lợi ích cho mọi
người và cũng để góp phần xây dựng nền học thuật kinh
điển nước nhà ngày thêm phong phú.
Dịch Thuật Luật
Tạng
Về Tạng Luật, Thầy đã để phần lớn thời gian hiệu đính,
chú thích kỹ lưỡng vì tầm quan trọng của giới luật. Tỳ Ni tạng trụ, Phật
pháp diệc trụ - Luật tạng được vững bền thì Phật
pháp cũng được bền vững. Là cột trụ của ngôi nhà Phật pháp, nên giới
luật không thể khinh suất, từ đó Thầy đã hoàn thành bộ Tứ Phần Luật gồm
có sáu quyển cũng như bộ Yết Ma Yếu Chỉ, nhờ vậy mà các thế
hệ chúng Tăng hôm nay có đủ bộ luật để học trong các tự viện và
các trường Phật học, mà không còn tùy thuộc vốn liếng chữ Hán. Bộ Luật
Tứ Phần cũng như Yết Ma Yếu Chỉ đã được ấn hành tương
đối đầy đủ cho các Tăng sinh trong những mùa an cư kiết hạ hay
những khóa học Phật pháp. Thiết nghĩ bộ Luật Tứ Phần và Yết
Ma Yếu Chỉ cần được giảng dạy cho Tăng chúng, nhất là môi trường
ở hải ngoại này.
Nếu ai đó ưu tư về mạng mạch của Tăng già, tuổi
thọ Phật pháp và làm thế nào để phát huy và giữ vững nếp sống của cộng
đồng Tăng lữ ngày một hưng thịnh, thì Thầy là một trong những bậc Tôn
túc thiết tha, tâm lượng đến tuổi thọ và sức sống ấy. Nỗi ưu
tư suy tưởng đã hiện thành việc làm cụ thể, thích
hợp qua công trình phiên dịch luật tạng hôm nay. Trong
khi phiên dịch hay hiệu đính, chú thích là việc làm hoàn
toàn tùy thuộc vào khả năng, kiến thức về luật tạng, nếu
không đủ năng khiếu về ngôn ngữ, mà nhất là thứ ngôn ngữ cổ:
Phạn, Pàli, Hán thì khó mà dịch hay hiệu đính cho đúng. Do vậy, làm một công
trìnhthuộc văn học luật, văn hóa Phật, đòi hỏi sự thận
trọng, tôn trọng lời Phật dạy, nếu không sẽ gây tai hại cho
nhiều thế hệ mai sau. Trong khi phiên dịch, những điều sai sót về chữ
nghĩa, ngôn từ là điều không phải không có, như trong phần Tự Ngôn,
Thầy viết:
"Có nhiều trường hợp căn cứ trên các Phạn bản, chủ
yếu là bản Pàli để chỉnh lý những điểm sai sót trong bản Hán do sao chép. Thí
dụ, trang 85-1a, bản Hán chép là Bà La Bạt Ðề, đây là tên của một cô
gái đọc theo Pàli là Sàlavatì, do đó biết rằng Hán đã chép nhầm từ Sa thành Bà
vậy từ đúng là Sa La Bạt Ðề, thay vì là Bà La Bạt Ðề trong
các ấn bản Hán."
Sự sai sót này đòi hỏi người dịch, hiệu chính, chú thích phải thông
hiểu thấu đáo ngôn ngữ và kiến thức Phật học, đọc qua
nhiều Ðại Tạng ngôn ngữ khác nhau để đối chiếu, tìm ra chỗ
đúng và chỗ không đúng. Trong khi làm việc này, Thầy xem như không khó lắm,
có nghĩa là rất dễ dàng đối với Thầy trên phạm vi ngữ pháp. Thầy viết:
"Mặt khác, những sai sót do sao chép thường nhầm lẫn tự dạng
mà Khuy Cơ (Thành duy thức luận thuật ký tự) nói là suyễn phượng
ngoa phong, quai ngư mậu lỗ." Chữ phượng nhầm lẫn với chữ phong, chữ ngư lẫn
lộn với chữ lỗ; những trường hợpnhư vậy rất thường xuyên, và chỉnh lý
không khó khăn lắm, tùy thuộc trình độ ngôn ngữ, và trình
độ nhận thức giáo nghĩa."
Việc làm của người nắm vững mực thước, quy củ, Thầy
đã nhiều lần thấy tầm quan trọng của giới luật, mà khi xưa một thời chư bậc
Tổ đức Thiền gia đã giữ gìn như giữ tròng con mắt, không thể
khinh suất. Chính vì vậy mà quý Ngài là chỗ nương tựa của chúng
Tăng, là bậc Long Tượng trong rừng thiền, là gốc cây đại thọ ngàn
năm rợp bóng cho nhiều thế hệ nương theo. Những bậc tuyên dương giới
luật làm rạng ngời nếp sống phạm hạnh huân tu, mãi mãi cho
đến bây giờ, mỗi khi nhìn lên bàn thờ Tổ, vẫn thấy nét thâm nghiêm thanh
tịnh còn hiển hiện. Ðạo phong trác việt, tánh đức uy nghi như
là bài học sống động suốt thời gian chẳng phai mờ. Hình
ảnh của chư vị Kỳ Túc Tổ Sư thờ nơi hậu Tổ như luôn nhắc nhở
hàng hậu học, mỗi khi lễ Tổ thỉnh sư hành lễ. Những hình ảnh ấy,
khi còn sanh tiền hay giờ này đã chích lý Tây quy, nhẹ bước về miền tịnh
địa thì cũng vẫn là hương xưa còn phảng phất, âm hưởng chẳng
bặt tăm. Nghi dung một thời đĩnh đạc trong chốn tòng lâm, làm tấm gương
soi cho hậu thế. Nghĩ đến những tấm gương làu làu sáng rỡ, chẳng chút bụi
trần mà Thầy viết lời Tự Ngôn đượm nhuần tình tựcủa kẻ kế thừa,
nối gót theo sau:
"Hòa thượng là một số rất ít trong các Tỳ Kheo trì
luật của Tăng già Việt Nam, kể từ khi Phật giáo được
trùng hưng, Tăng thể được chấn chỉnh và khôi phục. Thế hệ thứ
nhất trong phả hệ truyền thừa luật tạng của Tăng già Việt
Nam thời trùng hưng hiện đại bao gồm bóng mờ của nhiều bậc
Thượng tôn, Trưởng lão, uy nghi đĩnh đạc nhưng khó hình
dung rõ nét đối với các thế hệ tiếp bước theo sau. Các Ngài xứng
đáng là bậc Long Tượng trong chốn tòng lâm, mà đời sống phạm
hạnh nghiêm túc, phản chiếu giới đức sáng ngời, tịnh như
băng tuyết, mãi mãi ghi dấu trên các nẻo đường hành cước, tham
phương, hoằng truyền chánh pháp."
Bằng tầm nhìn suốt một chặng đường lịch sử hoằng truyền chánh
pháp chấn chỉnh tông môn, thì luật tạng là điều trọng
yếutrong công cuộc hoằng truyền và chấn chỉnh, mà dư hưởng một
thời của chư bậc Tổ Ðức còn âm vang làm chất liệu cơ năng cho sự bảo lưu nền văn
học luật tạng, Thầy đã đi trên dòng lịch sử bảo lưu ấy.
Có thể nói, thế hệ của Thầy là điểm gạch nối giữa thế
hệ cha ông và thế hệ tử đệ của Thầy. Do vậy, Thầy đã uống được
ngụm nước đầu nguồn tươi mát đó mà tưới tẩm vun bồi cho thế hệ kế thừa và
nhiều thế hệ sau nữa. Cho nên Thầy phải làm và làm thật nhiều những
gì cần làm để xây dựng, tạo lập một kho tàng pháp bảo bằng khả
năng hiện có của Thầy, ngõ hầu góp phần xây dựng chung cho
ngôi nhà Phật giáo Việt Nam ngày thêm vững chắc, trong khả năng hiểu
biết của một vị tăng với sứ mệnh phụng sự Ðạo pháp và cộng
đồng Tăng.
Nhân danh một cá nhân tăng để san bằng tất
cả những khúc mắc, gập ghềnh chung và bổ túc những khiếm khuyết nếu
có qua công trình biên khảo, dịch thuật của chư vị dịch giả khác. Tâm
nguyện phụng sự của Thầy được dàn trải qua các "Lời Tựa,
Tự Ngôn, Tiểu Dẫn...". Trong tập Yết Ma Yếu Chỉ, phần Tiểu
Dẫn, Thầy đã trình bày thực trạng của cộng đồng Tăng lữ Việt Nam bị
trì kéo bởi nhiều thế lực thế tục, mà Tăng già không ý
thức trách nhiệm tự tồn sẽ bị vong thân theo những thế lực ấy.
Ðó là nỗi đau thường hằng và trực diện. Nỗi đau hằn lên tâm khảm
thành những vết tích loang lở của thời đại đã xé nát thân
thể Tăng già Việt Nam. Thầy viết:
"Trong mấy thập niên trở lại, với mặc cảm tự
ti của một quốc gia nô lệ, xã hội Việt Nam có xu
hướng bứt rễ truyền thống để đua kịp người khác. Các học
thuyết triết học phương Tây được mô phỏng một cách vội vã,
từ chủ nghĩa Duy Tâm Nhân Vị, cho đến Duy Vật Vô Thần,
thật sự đang để lại trên cơ thể Việt Nam những rạn nứt vô
cùng đau nhức. Trong bối cảnh xã hội đó chưa thấy cộng đồng Tăng
lữ ở quốc gia nào mà chịu nhiều rạn nứt như ở Việt
Nam."
Những thẩm định ấy được xác lập bằng định nghiệp của
chính Thầy hay cộng nghiệp chung của cộng đồng dân tộc
trong đó có Phật giáo Việt Nam, phải băng vượt qua bao nhiêu
thác ghềnh thời đại, bao nhiêu thế lực và tham vọng độc
tôn. Ðây là bài học xương máu mà cộng đồng Tăng lữ Việt Nam phải chiêm
nghiệm.
Dịch Thuật Luận
Tạng
Như bao nhiêu Luận sư khác, Thầy đã dịch thành
Duy Thức Luận, A Tỳ Ðạt Ma Câu Xá Luận... tất cả những bộ luận
này đều được giảng dạy trong các Phật Học Viện, cũng như thời gian Thầy
đảm trách vai trò Học Vụ tại viện Cao Ðẳng Phật Học Hải
Ðức. Thầy dạy Duy Thức Học, Câu Xá Luận, Nhơn Minh Luận Ðại
Trí Ðộ Luận... Tất cả những bộ luận này đều đã ấn hành và là giáo
trình cho Tăng Ni sinh. Có thể nói, công trình phiên dịch của
Thầy đã đem lại nhiều sự lợi ích và phương tiện cho những
ai nghiên tầm kinh Phật, thực tập kinh Phật và tu chứng kinh
Phật. Những bản dịch thuật, luận giảng, được Thầy ghi chép đầy đủ xuất xứ, rõ
ràng, mạch lạc, cũng như dẫn chứng và chú thích những từ ngữ khó
hiểu, kiến văn giảng giải của Thầy khiến cho người đọc say mê thích
thú.
Từ phạm trù Kinh, Luật, Luận bước sang lãnh vực Thiền
học và Triết học, tiêu biểu những tác dịch phẩm: Bộ Thiền
Luận của Daisetz Teitaro Suzuki. Thiền và Bát Nhã. Tinh Hoa Triết
Học Phật giáo. Triết Học về Tánh Không. Ðại Cương Thiền
Quán... Những tác phẩm này, tư tưởng chính là Thiền, Bát
Nhã và Tánh Không.
Thiền học, Thầy tiếp tục dịch bộ Thiền Luận của cụ
Trúc Thiên mới dịch được quyển thượng, nhưng trước khi quyết định dịch giáo
nghĩa Thiền, Thầy nói môn đó không phải là sở trường của Thầy và
trong các tác phẩm, Thầy như không muốn chạm vào phong thái Thiền.
Nhưng qua bộ Thiền Luận tập II và III mọi người đã thấy được khả năng
dịch thuật sâu sắc, phong phú của Thầy, và chẳng phải là việc
làm của tay trái, dù lúc đó Thầy mới khoảng 27 tuổi. Thiền Luận tập II, phần
I, Một Kinh Nghiệm Siêu Việt Tri Kiến, trang 56, Thầy dịch:
"Này, tâm của ngươi đã được an rồi đó". Bồ Ðề Ðạt Ma xác
nhận: "Sự xác nhận về phía Tổ Sư đã làm sáng mắt Huệ
Khả. Ðại Huệ lại nhận xét: "Như rồng lặn xuống nước, như cọp tựa vào
đá. Ngay giây phút này, Huệ Khả không thấy có Tổ Sư ở trước
mặt, không có tuyết, không có cái tâm rong ruổi theo vật, không có cả sự chứng
ngộ mà tâm Ngài sở đắc. Tất cả đều tan biến khỏi tâm thức của
Ngài, tất cả đều không."
Ấy là sự lịch nghiệm Thiền bặt dứt ngôn ngữ, văn tự đi
thẳng vào lòng người để kiến tánh thành Phật. Bởi vì tất cả là không,
thì có gì để hỏi và đáp. Còn có gì để mê và ngộ. Còn có gì giữa ngã và ngã
sở, trong giây phút đó, Huệ Khả đã đổi đời từ hố thẳm của sự chết
chuyển thành sự sống bất diệt.
Cũng trong phần Tu Tập Công Án, Phương Tiện Chứng
Ngộ, Thiền Luận II, trang 59, chúng ta thấy sự biểu tỏ của trực tính
Thiền, như gõ vào vách đá tạo thành tiếng vang, gặp bậc Thánh giả mê
vọng sớm trừ, chỉ còn thuần lại chất liệu giác ngộ. Như Ngài Huệ
Năng gánh củi bán dạo, nhân nghe được câu kinh Kim Cương:
"Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" mà quyết định đi
tìm Ngũ Tổ để học Thiền. Sau khi đến núi Hoằng Mai để gặp Tổ Hoằng
Nhẫn, Tổ hỏi:
"Nhà ngươi ở đâu đến? Ðến đây để làm gì?"
"Tôi là tên quê mùa ở Tân Châu đến, muốn làm Phật."
Tổ nói:
"Vậy ra ngươi từ Lĩnh Nam tới, nhưng người phương Nam không
có Phật tính, sao nhà ngươi lại mong thành Phật được?"
Tổ Huệ Năng đối lời:
"Người có Nam Bắc, nhưng Phật tính đâu có phân
biệt Bắc Nam?"
Bát Nhã, một bộ kinh dày 600 quyển, nhưng rút gọn lại
chỉ còn 270 chữ, tính luôn đề kinh, nhiệm mầu, siêu việt trên mọi tự
tính. Thầy đã chứng minh sự nhiệm mầu ấy trong cuốn Thiền và Bát
Nhã, phần dẫn vào kinh văn Bát Nhã do Viện Cao Ðẳng Phật Học Hải
Ðức, Ban Tu Thư Phật Học ấn hành năm 2004, trang 11, như
sau:
"Mạc Hạ Diên, mà phương Tây gọi là sa mạc Gobi, sách xưa gọi
là Sa Hà, một bãi cát mênh mông dài trên 800 dặm, nối liền hai nền văn
minh tối cổ của nhân loại, trên không chim bay, dưới không thú chạy,
cỏ không, nước cũng không, Huyền Trangmột mình một bóng đã vượt
qua khỏi đoạn đường đầy kinh sợ và thường xuyên làm nản lòng những
người kiên cường nhất, duy chỉ bằng vào lời kinh "Ma ha Bát Nhã ba la
mật đa tâm kinh"
Ấy là năng lực hiệu nghiệm của kinh, là sự gia
trì của Bồ Tát khi lòng mình thanh tịnh, hay quán thấy thật
tướng của các pháp là không, không có thật thể, mà vượt qua tất
cả khổ nạn, như lời kinh thường tụng đọc: "... Chiếu kiến ngũ
uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách... Bồ Tát y Bát Nhã ba
la mật đa cố tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng
bố, viễn ly điên đảomộng tưởng..."
Tư tưởng Bát Nhã, trí tuệ vô lậu là nhân tố
đủ để làm thành con đường chuyển tải sự giác ngộ, là chiếc bè
đưa người qua dòng bộc lưu, dòng nước xoáy của sông sinh tử. Bát
Nhã là điều kiện duy nhất để con người thành Phật,
dù con người trải quabao nhiêu chặng đường sinh tử. Nhưng một
khi trí Bát Nhã bừng dậy đốt cháy vô minh, dập tắt phiền
não thì con đường giác ngộ là đấy. Do vậy, Bát Nhã là
Mẹ của chư Phật và Bồ Tát.
"Nói rằng Bát Nhã là nguyên lý chỉ đạo của
các Ba La Mật ấy là vì các nhà Ðại Thừa quan niệm nó cấu thành
nhất thiết trí (Sarvajnãtà). Tức là, trí tuệ viên mãn mà bậc toàn
trí đã thành tựu. Do đó, Bát Nhã là ánh sáng rọi khắp mà chúng
ta phải chiêm ngưỡng. Nó đứng trên tất cả ảnh hưởng ô nhiễm của
các vật thể trần gian. Nó soi sáng tất cả bóng tối trong thế giới đối
đãi nhị nguyên, và do đó mang lại thanh bình và an ổn cho
mọi loài. Nó cung cấp ánh sáng cho người mù, nhờ đó y có thể yên lành
đi xuyên qua đêm tối của vô minh. Nó dẫn những người lạc lối trở
về con đường chính. Nó vén mở cho chúng ta thấy chân
lý của vạn hữu, và chân lý đó là Nhất Thiết Trí (Sarvajnãtà).
Nó là nơi nương tựa của mọi loài, khiến chúng hoàn toàn không sợ
hãi, là người có năm con mắt soi rõ trọn cả thế gian. Là chân lý vượt
lên sống và chết, vượt lên tất cả mọi tạo tác và khát ái mà chính là tính
Không. Là kho lẫm của hết thảy mọi chân lý (dharmakosa). Là Mẹ của hết
thảy chư Phật và Bồ Tát."
Tánh Không từ Thiền Bát Nhã, chúng ta bước
sang Triết Học và Tánh Không, hai phương trời lồng lộng tư
tưởng giải thoát. Từ tư tưởng giải thoát, giác ngộ này
đã phá đổ tất cả những điều sai biệt nhị biên của thế tục,
để dựng thành một thế giới trang nghiêm đạo quả Bồ Tát.
Từ nền Triết học Tánh Không và Bát Nhã này, người học Phật
không thể không có cái nhìn, cái suy tư nghiêm túc là giữa cuộc
đời trần gian nhiều mộng ảo, huyễn tướng là nơi sinh trụ
của Bồ Tát, của những tâm hồn Ðại sỹ. Triết học và Tánh
Không là cái học cao siêu, cái học thực thể về tính chất không
thật của sự vật. Tính chất không thật này được diễn đạt bằng
một thứ ngôn ngữ Triết lý Phật giáo. Vậy thì, Bát
Nhã và Tánh Không cùng gặp nhau ở một điểm là san
bằng mọi nếp suy tư, tưởng và không tưởng; thật và không thật,
hay bất cứ cái có thể diễn đạt hay không nói thành lời. Chân trời của Bát
Nhã và Tánh Không không vướng vấp, và đọc qua những ngôn từ của thế
tục đế, qua lằn vết, biên giới của tâm tư, Bát Nhã và Tánh
Không vượt thoát con đường tục đế nhưng hàm tàng và hiện
hữu khắp mọi thời, mọi chốn.
Chúng ta đọc Thiền, Bát Nhã và Tánh Không là
làm một hành trình quay về nguồn để đối diện với cái chân
như uyên nguyên vô sinh, bất diệt, mà từ vô thủy cho đến nay,
người và chúng ta mãi lặn lội, mò mẫm trong đêm trường
sinh tử theo dòng thác lũ, cuồng thức. Thầy viết trong Thiền và Bát
Nhã, trang 198, như sau:
"... Cái cày nằm trong đôi tay, nhưng cày đất lại bằng tay
không. Ngồi trên lưng ngựa, nhưng trên yên lại không kỵ sĩ, dưới yên không kỵ
mã. Bước qua cầu nước không chảy mà cầu trôi. Thanh văn vẫn còn
"bên này", dù đã chứng đạo, cho nên sự chứng đạo đó lại
khác hẳn với kinh nghiệm của mình. Ý niệm đích thực về Tánh
Không đang cản trở sự sống thực của mình. Với Bồ Tát thì Tánh
Không không còn là Tánh Không, Bồ Tát sống thực đời sống mình
không bị phân vân giữa cái không hay Bất không, giữa Niết Bàn và sinh
tử, giữa giác ngộ và vô minh. Cái đó Bát Nhã nói là
"ở trong Không tam ma địa mà không thủ chứng thực tế". Và đấy
là một trong những thái độ đặc sắc nhất của Bồ Tát đối
với cõi đời."
Từ đây, chúng ta thấy đạo Phật hiện hữu trong thế
gian, xây dựng cho thế gian một nếp sống tịnh lạc, an
lành, không lìa khỏi thế gian để tìm cầu giác ngộ. Bồ Tát không
chối bỏ chúng sinh, để tìm hạnh phúc cho riêng mình. Bồ Tát sống
ngay giữa lòng đời tử sinh để độ thoát tử sinh, chúng
ta hãy tu học theo bài kệ:
Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly thế mích Bồ Đề
Do như cầu thố giác
Dịch:
Phật pháp ở nơi thế gian này
Chẳng lìa khỏi thế gian để cầu giác ngộ
Lìa khỏi thế gian để tu chứng giác ngộ
Giống như đi tìm lông rùa sừng thỏ
Các Chủ Ðề Ðạo
Học và Triết Học Ðông Tây.
Ngoài công trình dịch thuật, trước tác, Thầy còn viết
những loạt bài chuyên đề về tư tưởng Phật Học, Triết học Ðông
Tây. Những nhận định, quan điểm... lúc còn là Giáo sư Ðại học Vạn
Hạnh và Tổng Biên Tập tạp chí Tư Tưởng. Những bài viết về các
chủ đề này một phần đã đăng trong tạp chí Tư Tưởng Vạn Hạnh, một
phần đăng rải rác trên các báo chí, tập san, hay trên các trang báo điện tử:
trang nhà Phật Việt, Quảng Ðức, Pháp Vân... Qua những bài viết này, một số
lấy tên là Như Thị, như bài: Cogito Bát Nhã Dưới Ánh Sáng Hiện
Tượng Luận. Tạp chí Vạn Hạnh số 8 và 9, kỷ niệm Phật đản,
Phật lịch 2510, trang 114. So Sánh Các Vấn Ðề Triết Học Ðông
Tây Cogito Trong Triết Học Phật Giáo, tạp chí Vạn Hạnh số
1, kỷ niệm Phật đản, Phật lịch 2500, trang 49, v.v...
Những chủ đề như trên, Thầy viết khá nhiều, người viết
xin giới thiệu một số tiêu biểu:
Lệ Ngôn.
"Cogito là một danh từ La Tinh có nghĩa là "tôi suy tưởng"
rút trong nguyên lý triết học của Descarts "Cogito ergo sum: tôi suy
tưởng vậy có tôi" (ji peuse je suis). Theo Decarts thì đó là một chân
lý hiển nhiên sau khi ông đã hoài nghi phủ nhận sự hiện
hữu của mọi sự vật trong vũ trụ. Vậy Cogito chỉ là một thể nghiệm
về sự hiện hữu của chủ thể, với trí thức trực giác về hữu
thể của chủ thể ấy.
Sau này Husserl, Sartre, Heidegger lần lượt theo
Descarts suy nghiệm về bản thể của tri thức và đem lại cho
danh từ Cogito những nội dung khác nhau. Do đó, chúng tôi cũng có ý
mượn danh từ Cogito đặt làm một đề mục cho sự nghiên cứu bản
thể tri thức siêu nghiệm của Ðức Phật, trong loạt bài So Sánh Triết
Học Ðông Tây của chúng tôi." (Tư Tưởng Vạn Hạnh, quyển 1, Kỷ Niệm
Phật Ðản Phật lịch 2509, trang 49)
Thi Ca, Nền Văn
Học Hiện Ðại.
Nói đến thơ của Thầy, hầu như ai cũng biết tập thơ Giấc Mơ Trường
Sơn và Ngục Trung Mị Ngữ. Ngoài hai tập thơ này còn có các thơ khác qua nhiều dạng
thức, được đăng trên các tạp chí, đặc san từ trong nước đến hải ngoại. Nhiều
bài trong Tập thơ Giấc Mơ Trường Sơn đã được phổ nhạc và đã được các ca nghệ sĩ
ngâm, hát, thơ Thầy.
Những ý thơ của Thầy đã tạo nhiều ấn tượng cho giới thưởng
ngoạn, những hình ảnh thâm trầm của quê hương dân tộc, những tình
tự và ước nguyện muôn trùng của "cuộc lữ", phương trời
mộng. Ðọc thơ Thầy, để thấy tâm hồn của người nghệ sỹ, thi sỹ hay đọc
thơ Thầy để cảm nhận, chia sẻ tâm thức của kẻ sĩ luôn hướng về đất nước
bị đọa đày? Một đất nước đói nghèo đầy tủi nhục, một dân tộc lầm than khốn
cùng, và ý chí ấy đứng thẳng để thấy quê hương và dân tộc Việt hào
hùng trong ý thức tự tồn, độc lập. Thơ của Thầy mang nhiều cảm
tính dạt dào tình người, tình đạo, tình non sông gấm vóc. Một tình cảm chân
thật mà suốt dòng lịch sử quê hương còn mênh mang trong ý thơ mượt
mà, hùng tráng:
Người đi đâu bóng hình mòn mỏi
Nẻo tới lui còn dấu nhạt mờ
Ðường lịch sử
Bốn ngàn năm dợn sóng
Ðể người đi không hẹn bến bờ
(Tĩnh Thất 24, 2000-2001)
Hay:
Tiếng trẻ khóc ngân vang lời vĩnh cửu
Từ nguyên sơ sông máu thắm đồng xanh
Tôi là cỏ trôi theo dòng thiên cổ
Nghe lời ru nhớ mãi buổi bình minh
Buổi vô thủy hồn tôi từ đáy mộ
Uống sương khuya tìm sinh lộ viễn trình
Khi nắng sớm hôn nồng lên nụ nhỏ
Tôi yêu ai, trời rực sáng bình mình.
(Bình Minh - Tĩnh Tọa, tháng 9-1983)
Tiếp theo Giấc Mơ Trường Sơn là Ngục Trung Mị Ngữ, tập thơ
làm trong thời gian ở tù bằng chữ Hán. Ðọc Ngục Trung Mị Ngữ để thấy
được tinh thần an nhiên tự tại của Thầy dẫu là những bài
thơ trong lúc ở tù. Một tâm hồn thư thái nhẹ như mây và thong
dong như gió, nhưng đầy ắp lòng thương yêu trần gian khổ lụy, đầy
huyết lệ tuôn trào, mỗi khi bưng bát cơm tù. Từ những bi hoan của cuộc
sống tù đày ấy, Thầy đã viết thành những lời thơ nói lên tâm cảm của mình, qua
bài Cúng Dường:
"Phụng thử ngục tù phạn
Cúng dường Tối Thắng Tôn
Thế gian trường huyết hận
Bỉnh bát lệ vô ngôn."
Dịch:
"Ðây bát cơm tù con kính dâng
Cúng dường Ðức Phật Ðấng Tôn Thân
Thế gian chìm đắm trong máu lửa
Lệ nhỏ không lời, lòng xót thương"
Ngoài ra còn có những bài thơ mà không ở trong hai tập nói
trên, như bài Tiểu Khúc Phật Ðản, Những Ðiệp Khúc Cho Dương Cầm... Thầy đã viết:
"Sườn non một bóng đạo già
Trầm tư năm tháng bên bờ tử sinh
Nhìn sao mà ngỏ sự tình:
Ai người Ðại Giác cho mìmh quy y?"
Ðể rồi từ đó, Thầy gởi gấm lòng mình qua ý thơ: Cuộc sống quá
nhiều khổ đau, con người cứ mãi lang thang trên những bước đường
sinh tử trầm luân, mà chẳng biết khi nào được thoát khỏi vòng quanh
quẩn ấy:
"Thời gian vỗ cánh ngang đầu;
Sinh, già, bệnh, chết tránh đâu vận cùng
Khổ đau là khối tình chung
Ai nâng cõi thế qua bùn tử sinh?"
Ðọc xong hai tập thơ Giấc Mơ Trường Sơn và Ngục
Trung Mị Ngữ cũng như một số các bài thơ khác, chúng ta không thể
không nghĩ đến tác phẩm "Tô Ðông Pha, Những Phương Trời Viễn
Mộng" mà Thầy đã dịch giảng lời thơ văn bay bổng, chơi vơi. Người viết xin
được trích một đoạn trong "Tô Ðông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng", trang
240, để giới thiệu tác phẩm tầm cỡ của nền văn học, thi ca hiện
đại của Thầy:
"... Giang Sơn như họa
Một thời hào kiệt anh hùng"
"Ngọc đường Kim mã bỗng vang lên những tiếng gào thét đoạn
trường. Chim hồng giật mình tung cánh bay cao. Biết nơi nào là cố quận, nơi nào
là tha hương để chim hồng đậu lại.
Trạch tận hàn chi bất khẳng thê
Tịch mịch sa châu lãnh
Ðường ra đi, qua trăng ngàn, qua gió bãi, mây vần vũ, núi
non sụp xuống, nắng chiều đỏ như máu. Ðau khổ, kinh hoàng nên kêu
réo, nên ngậm ngùi và uất hận.
Sơn ức Hỷ hoan lao viễn mộng
Ðịa danh Hoàng Khủng khấp cô thần.
Ðất khách là mười tám cái ghềnh thác kinh hoàng đổ xuống,
nước mắt của một lão thần cô quạnh cũng đổ xuống. Nhưng đất đó đọa
đày thân xác mà không đọa đày viễn mộng. Quê hương với ân
tình thắm thiết kia mới thực là đọa đày viễn mộng.
Núi nhớ Hỷ hoan đọa đày viễn mộng
Ðất tên Hoàng Khủng lệ khóc cô thần"
Tất cả những gì được giới thiệu hết sức tiêu biểu công
trình học thuật, thi ca của Thầy, chỉ là tiếng nói của cảm nghĩ sâu
xa, tồn đọng nơi người học trò qua bao thập niên, lãnh thọ từ sự
giáo huấn, tài bồi ân đức của bậc Thầy trong sự truyền đạt, nuôi
dưỡng thế hệ con em. Do vậy, không sao tránh khỏi những điều
khiếm khuyết. Kính mong Thầy từ bi lượng thứ, cũng như chư vị Thức
giả cao minh vui lòng chỉ giáo.
Nguyên Siêu
(Bài giới thiệu tác phẩm Huyền Thoại Duy
Ma Cật của Thượng tọa Tuệ Sỹ tại Santa Ana 11 tháng 8-2007)
Dịch Thuật Kinh
Tạng
Dịch Thuật Luật
Tạng
Dịch Thuật Luận
Tạng
Các Chủ Ðề Ðạo
Học và Triết Học Ðông Tây.
Thi Ca, Nền Văn
Học Hiện Ðại.
No comments:
Post a Comment