Thursday, December 1, 2022

VẼ LẠI CUỘC ĐỜI ANH

VẼ LẠI CUỘC ĐỜI ANH

Anh đi cánh nhạn qua sông

Tình thương để lại trong lòng người thương


Nhận chân được sự vô thường, nhưng sự trở về bản thể thanh tịnh của anh Nguyễn Sanh Tỵ làm cho chúng em chùng lòng, xót dạ. Em xin viết sơ lại những gì em biết về anh hầu tưởng nhớ đến người anh thân thương.

Anh Nguyễn Sanh Tỵ sinh ra trong một gia đình Phật giáo ở làng Vĩnh Nhơn, Thừa Thiên Huế vào ngày 26 tháng 9 năm 1953 tại Huế, Việt Nam. Mất ngày 31 tháng 10, 2022 tại thủ phủ Sacramento, CA. Anh là con trai Út trong gia đình có 7 anh chị em. Anh Tỵ là một người đàn Ông mẫu mực đáng quý, hiền lành, dễ thương và vui tính. Anh được gia đình, bạn bè, quyến thuộc, Huynh trưởng và đoàn sinh GĐPT Kim Quang, cũng như Đạo tràng ở đây trân quý và yêu mến anh. Anh là một người chồng lý tưởng, một người cha tuyệt vời, một người nặng tình thân, người anh em họ hàng tử tế và rộng lượng. Anh Tỵ, & chị Thu từng là hàng xóm với nhau ở Lương Y, gần thành Đại nội Huế từ năm 1973, rồi nhân duyên đưa đẩy anh chị lại gặp nhau ở Sacramento vào năm 1982. Anh Nguyễn Sanh Tỵ đã kết duyên cùng với chị Ngô Thị Thu vào mùa hè năm 1984, được hơn 38 năm, tại chùa Kim Quang dưới sự chứng minh của Cố Hoà Thượng Thích Mãn Giác và HT. Thích Tịnh Từ. Anh chị có hai cháu trai, Rô và Lu, đã được thành đạt. Anh chị vẫn sinh hoạt từ đó cho đến bây giờ.


MỘT NHÀ GIÁO

Sau thời chinh chiến, anh Tỵ là một giáo viên ở Quế Sơn, Quảng Nam từ năm 1976-1978, rồi anh chuyển đến Long Mỹ, Cần Thơ, Hậu Giang vào những năm 1978-1980. Anh dạy chuyên toán và thể dục, thể thao. Có thể nói anh là một nhà giáo nghèo mà liêm sĩ ở Việt Nam thời ấy. Sau biến cố 1975 anh tìm đường tự do bằng cách vượt biên.Anh đến Palawan, Phi Luật Tân vào năm 1981 và qua Mỹ năm 1982. 

Tôi nhớ có lần anh kể lại chuyện nhận được một món quà từ xa gửi đến Quế Sơn khi anh còn đi dạy học. Đó là một ít cá biển từ miền yêu thương gởi lên. Sống ở vùng khắc nghiệt sau chiến tranh Việt Nam, điều kiện kinh tế khó khăn. Cơm ngày hai bữa toàn rau với cà. Cá và thịt thì cực kỳ hiếm.Vì vậy, một ngày nọ, khi nhận được món quà cá thịt, lòng ai cũng vui như hội. Bữa ăn giàu chất đạm đó quý anh em giáo chức đã ăn hết tất cả, hết sạch sành sanh, trừ các bộ xương cá. Nhưng rồi sau đó, họ quyết định giữ lại bộ xương để nấu súp cho các bữa ăn sau. Ngày này qua ngày khác chỉ có mùi cá là chất đạm còn sót lại. Ăn uống cho đến khi bộ xương tan biến theo đúng nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Khi anh Tỵ chia sẻ câu chuyện đó, anh đã bật cười và hoài niệm những kỷ niệm xa xăm. Tôi biết rằng anh đã quay ngược thời gian và sống lại thời đại đó, với những tiếng cười và nước mắt.


MỘT NGƯỜI HUYNH TRƯỞNG

Theo làn sóng tị nạn, ở đâu có người Việt là ở đó có Chùa viện, và ở đâu có chùa đều mong ước có một tổ chức Gia đình Phật tử. Anh Tỵ cũng như thế, sinh hoạt với GĐPT Kim Quang vào những ngày tháng phôi thai. Như quý vị cũng đã biết, tại Hoa Kỳ, có thể nói GĐPT Kim Quang là một trong 5 đơn vị đầu tiên ở xứ sở Tự do này. Liên đoàn trưởng đầu tiên của đơn vị là anh Quảng Thành Đoàn Thanh Nam (1978-1983), và liên đoàn trưởng thứ 2 là anh Nguyên Phú - Nguyễn Sanh Tỵ (1983-1984). Trong sinh hoạt, anh cho hết tất cả những gì anh có từ tâm cang và trí tuệ của mình, âu đó cũng là khả năng lãnh đạo đích thực (authentic leadership) của anh. Sau khi làm liên đoàn trưởng anh vẫn tiếp tục sinh hoạt và cống hiến những gì anh có thể. Anh Tỵ là một handy-man, một người khéo tay, cái gì làm cũng được. Chuyện gì ở Gia đình Phật tử cần, thì anh không từ nan. Những năm sau này, anh dạy lớp nghệ thuật nhiếp ảnh cho các em đoàn sinh trong chương trình trao dồi năng khiếu / enrichment program.

Anh luôn vui chơi và chăm lo cho các em. Lúc về hưu, cũng đi sinh hoạt hằng tuần với đơn vị. Anh thấy các em bỏ balo không được tươm tất, anh âm thầm làm những nơi để các em treo lên. Thấy chỗ nấu ăn không sạch, thấp ẩm, anh làm lại, quét dọn và sửa đổi cho tươm tất. Anh lại đóng kệ để đựng thức ăn, trữ những dụng cụ trong gia đình, v.v… anh bảo đi GĐPT con tim anh trẻ lại và học hỏi từ các em thật nhiều. Vì thế, anh vẫn luôn đi sinh hoạt và gần gũi với các em.


ANH LÀ CON MỌT SÁCH VÀ ÂM THẦM YÊU NGHỆ THUẬT


Có thể quý vị có biết, nhưng anh Ty là một người ham đọc sách, nói đúng hơn và con mọt sách, anh đọc từ Đông sang Tây, từ Cổ tới kim. Em nhớ là anh cho em mượn cuối Hoàng Tử Bé, mà em chưa trả lại thì phải (Sorry anh)....

Anh đọc sách từ Võ Đình Mai đến Nguyễn Huy Thiệp, từ Phạm Công Thiện, Duyên Anh, Doãn Quốc Sỹ, Nhã Ca đến Nguyễn Ngọc Ánh, Vương Hồng Sển, Trần Dạ Từ… có lần anh em kết nhau vì trò chuyện sách Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác, và Xứ Trầm Hương của Quách Tấn, v.v.... Anh đọc sâu hiểu rộng, nhất là văn chương và lịch sử Việt Nam. Ngoài ra, qua những lần nói chuyện, bình luận của anh rất chí lý. Anh cũng là con người có tính nghệ sĩ, tuy anh không có hát. Nhưng anh thích nghe nhạc, nhất là những nhạc nhẹ, thính phòng hay những dòng nhạc nào mà người thân của anh thích hát. Anh lại rất yêu nghệ thuật và là người làm nghệ thuật. Chúng tôi có cơ hội cùng anh đi săn ảnh ở những nơi ở California. Có lần đi săn thác lửa ở Yosemite, (fire falls), anh chụp ảnh đẹp về treo lên tường để thưởng thức. Anh bảo chụp mà không đưa lên thì cũng như không. Em thì như thế, nhưng sẽ nhớ lời anh nói mà em cũng sẽ treo hình lên tường.


MỘT NGƯỜI CHỒNG TUYỆT VỜI VÀ NGƯỜI CHA MẪU MỰC


  Anh Tỵ là một người chồng mẫu mực, một người cha hiền. Chúng em có cơ duyên làm việc với anh chị, nhất là chị Nguyên Nhơn Ngô Thị Thu. Anh chị như đôi uyên cương Lê Nguyên Phương. Chị là dạng người vượng phu ích tử. Chị làm gì anh đều ủng hộ chị cả, lúc nào cũng bên cạnh, đồng hành, lắng nghe và chia sẻ cùng chị. Nhất là chuyện của GĐPT, chuyện một ngàn lẻ một đêm. Với thiên chức của người Cha, anh tận tuỵ thương yêu hai em Rô và Lu. Nhớ có những buổi sáng sớm mùa Đông, anh ‘vách cày' ra đồng, vừa đi cắt cỏ vừa chở con đi học, đi chơi bóng rổ, chơi đàn, bơi lội và những sinh hoạt khác. Chúng tôi có cơ duyên chở các em Rô và Lu đi học cùng trường, sáng nào anh em cũng gặp nhau, anh đưa con đi đúng nơi hẹn để chúng tôi chở các em đến trường. Vẫn nụ cười đó, vẫn cái vẫy tay chào đó. Anh lúc nào cũng vui vẻ, hiền từ và có khuôn mặt rất phúc hậu. Ah, và vẫn chiếc sẽ truck nhỏ và cũ đó, nhưng anh vẫn vui vẻ và biết ơn nó cho đến khi về hưu.

Rồi có những lúc cần giúp người khác hoặc gia đình khó khăn về tài chánh hoặc để nuôi con ăn học, anh phải đi tiểu bang xa để làm việc. Việc gì anh cũng không từ nan, miễn đó là chánh nghiệp.  Dù ở tiểu bang lạnh xa xôi, anh vẫn vui vẻ vừa làm việc vừa thưởng thức cuộc đời và đi săn ảnh. 

Tuy anh làm vất vả, nhưng anh cũng tranh thủ chở các em đi chơi vacation và nhất là về Việt Nam thăm lại cội nguồn của mình. Đó là những kỷ niệm rất đẹp mà anh luôn trân quý. Ngoài là một người mẫu mực với gia đình, bà con thân thuộc ai cũng yêu mến anh vì tính tình của anh và giọng nói cười sảng khoái. Nụ cười quá thoải mái của anh đôi khi được chị Thu nhắc là cười / nói nhỏ lại, mà anh cười bằng giọng không được thì anh cười bằng mắt. Nếu chúng ta nhìn rõ thì thấy ở anh có tuyệt điểm đó.


Anh một con người lạc quan yêu đời. Anh cũng đã trừng trải nghiệm qua 3 cái cửa của cuộc đời. Sau khi trở lại từ cõi chết, anh lại càng yêu đời hơn, lạc quan, nhẹ nhàng trong từ hơi thở. Rồi cuối cùng, anh lại bước qua cánh cửa thứ 4, chúng em lại hoan man và hối tiếc là chưa có cơ hội ngồi thở, cười cùng anh trước khi anh nhắm mắt.

Nói tóm lại, anh ấy có một con người tử tế, đẹp từ trong ra ngoài, và thực sự anh đã làm cho những người chung quanh anh và trái đất càng đẹp hơn này. Anh đã và sẽ tiếp tục tác động đến nhiều người, trong đó có em. 

Anh thật sự được thanh thản và hài lòng với mọi thứ trong cuộc sống. Anh đã sống hết mình. Anh hãy thong dong nhẹ bước về phương Phật anh nhé. Thôi thì, em thở cho anh đây. Em mỉm cười cho anh đây, và em sẽ treo hình mình chụp cho anh đây. Em cũng sẽ đọc sách thêm cho anh đây.

Anh Nguyễn Sanh Tỵ vẫn còn đây trong tâm trí, trong sự yêu thương của tất cả chúng ta. Chỉ khác là anh đã đi chơi xa, rồi sẽ có ngày gặp lại.  Anh hãy nhẹ nhàng như bao chuyến đi mình chung cùng anh nhé. Mong anh diện kiến chư Phật xong, hội ngộ Ta Bà để chúng ta tiếp tục hành trình áo lam trong tinh thần tư bi, trí tuệ và dũng cảm hay chỉ đơn thuần là một người Phật tử Việt Nam. Thôi thì, để em hát đưa tiễn anh lần cuối.


          TIỄN MỘT NGƯỜI ANH


Giã từ cõi tạm anh đi

Tình thương ở lại lâm li vô thường

Anh đi lóng lánh hạt sương

Thu buồn hờ hững nhớ thương vô cùng

Tình Lam có thuỷ có chung

Có Bi Trí Dũng chung cùng hướng đi

Bao người giọt lệ vành mi

Nhớ anh trung hậu luôn vì đàn em!


Anh đi vạt nắng qua thềm

Hư không tĩnh mịch êm đềm hư vô.


Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

Tâm Thường Định và Nguyệt Giác Nghiêm kính tiễn.


A Tribute to PAUL MICHAEL THOMPSON (1970 - 2022)


A Tribute to PAUL MICHAEL THOMPSON (1970 - 2022)


Paul Thompson, a social teacher, I considered a friend and a great gentle giant

He inspired many students, teachers and staff even when he was no longer with us

People normally remembered death by the way they lived; yet, in Paul we did both.

As an organ donor, he helped more than 50 individuals and families, 

His legacy of life, kindness, love and compassion lived on.


Paul's whole life was working diligently and contributing to the Mira Loma community, as an amazing coach, wonderful mentor, dedicated teacher.


His gentle smiles, casual conversations and sense of humor still echo through the hall

His passion for travel, history, politics, and education were commendable 


The last time we talked just a few week before his passing

We talked about retirement, traveling, and the cheap beer and great food in Vietnam.

Oh man, Paul's enjoyment of that trip with his fellow Matador, Steve Cox, was still fresh in his mind. And that we couldn't wait to travel to Vietnam if and when we had a chance.


When Paul was alive, he always supported his wife's ambition to become a great politician. 

He’s always present with Nancy, the love of his life.


And just like that he passed away suddenly while making his organs live on in the others' lives.


Paul’s death reminded all of us to hug our loved ones a little tighter, show more love, as it is the only way possible.

Everything in life is fragile and impermanent.

Exclusively only our legacy, compassion, love, and karma live on


Life is short and we need to embrace, appreciate, enjoy and live fully.

You did just that, Paul.

Now please Rest In Peace, Paul

May you be free of suffering, at ease and rest in peace.


Om!

Amen!

Hallelujah, Paul!


Gate, Gate, Paragate, Para Sam gate Bodhi Svaha.

Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, 

Ba la Tăng Yết đế, Bồ Đề Tát Bà Ha.

Ði qua, đi qua. Ði qua bờ bên kia,

Ðã đi qua đến bờ bên kia, reo vui!

Gone, gone. Gone beyond, gone far beyond. Awaken, Rejoice!


Tiễn bạn PAUL MICHAEL THOMPSON 

(1970 - 2022)


Paul Thompson là giáo viên dạy sử, một người bạn mà tôi gọi người khổng lồ hiền lành tuyệt diệu.


Paul đã truyền cảm hứng cho rất nhiều học sinh và đồng nghiệp ngay khi còn sống.


Thông thường, con người tưởng nhớ người vừa mất một theo phong cách họ sống; tuy nhiên ở Paul, chúng tôi đã làm cả hai: sống và chết.


Là một người hiến tạng, dù đã mất, Paul đã giúp đỡ hơn 50 cá nhân và gia đình,


Di sản của cuộc sống, từ bi, tình yêu và lòng trắc ẩn của Paul vẫn tiếp tục tiếp nối.


Cả cuộc đời Paul đã làm việc chăm chỉ siêng năng.


Những đóng góp cho trường Mira Loma và cộng đồng, với tư cách là nhà huấn luyện viên tuyệt vời, người cố vấn tận tâm, và vị thầy tận tụy.


Nụ cười hiền lành, những cuộc trò chuyện thân mật và hài hước của Paul vẫn còn vang vọng khắp hành lan của trường.


Niềm đam mê du lịch, lịch sử, chính trị và giáo dục của anh ấy thật đáng khen ngợi


Lần cuối cùng chúng tôi nói chuyện chỉ cách vài tuần trước khi qua đời

Chúng tôi nói chuyện về việc nghỉ hưu, du lịch, giá bia rẻ và thức ăn ngon ở Việt Nam.


Hỡi ơi, niềm vui của Paul về chuyến du lịch cùng với người bạn đồng nghiệp, Steve Cox, vẫn còn nguyên vẹn trong tâm trí anh ấy. Và chúng tôi rất nóng lòng được đến Việt Nam nếu có đầy đủ thuận duyên.


Khi Paul còn sống, bạn ấy luôn ủng hộ ước vọng của vợ mình---trở thành một chính trị gia tầm cỡ.


Paul luôn có mặt cùng với Nancy, tình yêu duy nhất của mình.


Và cứ như thế, Paul đột ngột qua đời, rồi chờ hiến nội tạng của mình nhằm truyền trao cuộc sống mới cho kẻ khác.


Cái chết của Paul nhắc nhở tất cả chúng ta hãy ôm những người thân yêu của mình chặt hơn, thể hiện tình yêu thương nhiều hơn, vì đó là cách duy nhất có thể.


Mọi thứ trong cuộc sống đều quá mong manh vô thường.

Đặc biệt, chỉ có di sản, lòng trắc ẩn, tình yêu và nghiệp lực của chúng ta vẫn tồn tại


Cuộc sống vốn ngắn ngủi, vì thế chúng ta hãy ôm ấp, trân quý, tận hưởng và sống trọn vẹn.


Bạn đã làm điều đó, Paul ạ.

Bây giờ xin hãy yên giấc nghìn thu, Paul nhé


Cầu mong bạn thoát khỏi đau khổ, thoải mái và yên nghỉ nơi suối vàng.


Om!

Amen!

Hallelujah, Paul!


Gate, Gate, Paragate, Para Sam gate Bodhi Svaha.

Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, 

Ba la Tăng Yết đế, Bồ Đề Tát Bà Ha.

Ði qua, đi qua. Ði qua bờ bên kia,

Ðã đi qua đến bờ bên kia, reo vui!

Gone, gone. Gone beyond, gone far beyond. Awaken, Rejoice!




Wednesday, November 23, 2022

Alfred Bloom | Tâm Quảng Nhuận: Hiểu về tinh thần hoạt động xã hội của Phật giáo | Understanding Buddhist Activism

 Alfred Bloom | Tâm Quảng Nhuận: 

Hiểu về tinh thần hoạt động xã hội của Phật giáo | Understanding Buddhist Activism

Trước nhiều vấn đề của năm mới (2011), điều quan trọng nhất là người Phật tử phải đánh giá lại vai trò của mình trong cộng đồng và xã hội. Chúng tôi bức xúc trước thực tế là tại các cuộc thảo luận gần đây về hoạt động tích cực của Phật giáo đã làm nổi bật thực tế rằng, giới Phật tử, ở Hawaii và hải ngoại, nói chung đã thụ động trước nhiều vấn đề xã hội trong cộng đồng. Đúng là các cộng đồng Phật giáo truyền thống nói chung đã không lên tiếng phản đối chiến tranh, dù trước đây ở Việt Nam hay hiện nay ở Iraq và Afghanistan. Tuy nhiên, vào năm 2007, các thanh niên của Hiệp hội Phật giáo trẻ Honpa Hongwanji đã vận động thành công việc tổ chức Ngày Hòa bình hàng năm ở Hawaii tại cơ quan lập pháp. Ngoài ra, cơ quan lập pháp của Phái đoàn Honpa Hongwanji đã tuyên bố công khai ủng hộ HB 444 về Liên minh Dân sự trong cơ quan lập pháp Hawaii. Trong buổi nói chuyện này, chúng ta sẽ khảo sát hoạt động xã hội của Phật giáo trong lịch sử. Đáng tiếc, cuộc khảo sát này còn sơ sài và hạn chế, chỉ sơ lược về các hoạt động được thực hiện bởi những người theo đạo Phật trên khắp thế giới. Tuy nhiên, tôi hy vọng rằng, ở một mức độ nào đó, nó sẽ phản bác và sửa chữa quan điểm cho rằng Phật tử không nhận thức được xã hội theo bản chất của giáo lý.

Lưu ý, chúng ta cần phân biệt một số yếu tố về các cấp độ hoặc chiều kích hoạt động xã hội. Ở cấp độ Cá nhân, đó là Lòng từ thiện. Ở chiều hướng của Xã hội, nhiều Dịch vụ trong thời nay, đã được thực hiện bởi các tổ chức đáp ứng nhu cầu xã hội. Cùng lúc, những Phúc lợi xã hội, được cung cấp bởi chính phủ, nhưng thường tất cả đều có sự vận động và hỗ trợ của những nhóm tôn giáo và xã hội. Tiếp nữa là Chủ nghĩa tích cực xã hội với tư cách là một lực lượng chính trị tranh đấu vì sự cải thiện của toàn xã hội và vì lợi ích tự do, bình đẳng, công bằng.

Trọng tâm của bài tiểu luận này cho thấy các Phật tử đã tích cực tham gia vào xã hội trong suốt lịch sử qua nhiều Hoạt động Từ thiện và Phục vụ Xã hội khi có thể. Những hoạt động này phần lớn xảy ra trong bối cảnh khi mà các nhà lãnh đạo chính trị thiếu trách nhiệm hoặc thờ ơ. Từ trước cho đến nay, dưới những hệ thống chính trị chuyên quyền, Phật giáo luôn gặp khó khăn khi hoạt động xã hội vì nhiều yếu tố không cho phép. Nhưng với các xã hội dân chủ, bây giờ các Phật tử và cộng đồng Phật giáo có thể tham gia vận động hay hành động nhằm cải cách xã hội nói chung.

Trong truyền thống Phật giáo sơ khai, cụ thể được nêu trong Kinh Pháp Cú, chúng ta có thể quan sát một quan điểm đạo đức phổ quát. Một tín ngưỡng Phật giáo cổ xưa cho rằng Bồ tát Di Lặc sẽ thị hiện từ cung trời Tusita (Đâu Xuất) với tư cách là vị Phật tương lai kế tiếp để sửa chữa những điều sai trái trên thế gian. Niềm tin này sau đó đã truyền cảm hứng cho các hội kín mang tính cách mạng ở Nam Á.

Giáo lý Bát Nhã Tam Muội của Ngài Huệ Năng (Hsin-hsing 540-594) ở Trung Quốc đã thách thức Phật giáo truyền thống là thủ bại. Họ tin rằng tất cả mọi người đều có Phật tính và đều đạt được Phật tính như nhau. Họ tôn kính với gassho – chắp tay – với tất cả những người mình gặp gỡ. Giáo phái cũng thành lập Kho bạc Vô hạn, nhấn mạnh Dana (hiến tặng vị tha) cho người nghèo và bệnh tật. Nhưng sau đó đã bị chính phủ đàn áp.

… Theo Kinh Niết Bàn, toàn bộ các thiện pháp là nhân duyên cho việc tái sinh vào cõi tịnh độ… Nguyên nhân thứ hai là việc khuyến khích bố thí, kêu gọi người ta mở rộng đường, đào giếng, trồng cây ăn trái, chăm sóc y tế và thuốc men cho người bệnh, xây dựng khu nhà sư, cúng dường cho những người thọ giới và hoằng pháp, đúc tượng, xây dựng bảo tháp hoặc cúng dường các loại. Những người như vậy [người nuôi dưỡng lòng quảng đại này] sẽ được tái sinh…

Ở Nhật Bản xa xưa, có những ví dụ đáng chú ý về các nhà sư tham gia vào việc nâng cao xã hội, tuân theo Kinh Niết Bàn, điều mà chính phủ đã không làm. Dosho (629-700) nổi tiếng trong việc xây cầu, đào giếng, đặt phà và mở quán ăn cho người nghèo. Ông được cho là người đã đưa phương pháp hỏa táng vào Nhật Bản. Gyogi (670-749) được mọi người yêu quý đến nỗi được đặt cho danh hiệu kính trọng: Bosatsu (Bồ tát, Phật tổ). Ông cũng xây dựng cầu và đê, kênh tưới tiêu, phà và bến cảng, trồng cây ăn quả, thiết lập các ký túc xá cho khách thập phương. Saicho (767-822), người sáng lập giáo phái Tendai Nhật Bản đã kêu gọi Phật tử sống sao cho xứng đáng là Bảo vật Quốc gia, phục vụ xã hội. Kukai (774-835), người từng giới thiệu giáo phái Shingon, đã xây dựng các con đập và trường học, nơi mọi người từ của tầng lớp đều được đón nhận. Kuya, nhà sư nơi một khu chợ, luôn hát, múa và niệm danh hiệu Phật A Di Đà trong khi tham gia vào các hoạt động phục vụ xã hội.

Sau đó vào thời đại Kamakura (1185-1332), thiền sư Eisai (1141-1215) đã hiến tặng kim loại đồng đúc tượng, bảo dưỡng người nghèo và chẳng quan tâm đến những lời chống báng từ các đệ tử của mình. Thầy Tịnh độ Shinran (1173-1263) đã thẳng thừng chỉ trích chính phủ Nhật Bản bức hại việc truyền bá Tịnh độ. Ông cũng ghi nhận sự bất bình đẳng công lý phổ biến trong xã hội, điển hình trích dẫn một bài thơ của Hoàng tử Shotoku, tuyên bố rằng khi một người giàu ra tòa giống như ném một hòn đá vào nước, thật dễ dàng. Trong khi đó một người nghèo tìm kiếm công lý, nó giống như ném nước vào đá, không thể thắng. Giáo lý của giáo phái Shin đã truyền cảm hứng cho nhiều cuộc nổi dậy của nông dân trong thời kỳ Muromachi sau này (1392-1573) được gọi là Ikko Ikki. Ikko có nghĩa là “nhất tâm” “một hướng” “một cách” và ám chỉ Phật giáo Shin. “Các cuộc nổi dậy của những người Chung một lý tưởng” Nichiren (1222-1282) đã đi sâu vào việc thay đổi nhận thức về giáo lý Phật giáo sai lầm vốn đe dọa sự tồn tại của Nhật Bản. Ông quan tâm sâu sắc đến vận mệnh quốc gia.

Ở Nhật Bản hiện đại sau khi Minh Trị Thiên hoàng phục hồi vào năm 1868, Phật giáo đã có một số nỗ lực cải cách xã hội. Shin Bukkyo Doshikai (Hội đồng hương tân thời của các Phật tử) bác bỏ mê tín dị đoan và chống giáo sĩ. Nó phản đối sự can thiệp của chính phủ vào tôn giáo và thúc đẩy tu tập cũng như giới đức.

Các phong trào với nền tảng Phật giáo Shinshu là Muga no Ai hay tình yêu vị tha. Những người khác là Shinbukkyo Undo (Phong trào Tân Phật giáo) hay nhà cải cách Seishinshugi (tâm linh) của Kiyozawa Manshi và Hanseikai (Tự phản tỉnh) ở Nishi Hongwanji. Muga no Ai do Ito Shoshin (1876-1963) khởi xướng xuất bản tạp chí Tình yêu vị tha vào năm 1905.

Phong trào Tân Phật giáo tổ chức năm điểm chính:

  1. Nguyên tắc cơ bản là phải có đức tin Phật giáo đúng đắn.
  2. (Phật tử) phải làm việc để truyền bá niềm tin đúng đắn và cho sự cải cách của xã hội.
  3. Chủ trương tự do nghiên cứu Phật giáo và các tôn giáo khác.
  4. Họ không chấp vào việc bảo tồn hệ thống tôn giáo cũ và các nghi lễ là cần thiết.
  5. Họ hoàn toàn bác bỏ sự phục tùng chính trị và chính trị can thiệp vào tôn giáo.

Họ cũng quyên góp tiền để giúp đỡ những người bị thương trong hầm mỏ và ủng hộ giới lao động. Họ chỉ trích sự đàn áp của cảnh sát và vi phạm nhân quyền. Họ đứng về các vấn đề công cộng và ủng hộ việc xóa bỏ mại dâm, cũng như phản đối việc uống rượu và hút thuốc.

Cá nhân đáng chú ý là Takagi Kemmyo (1864-1914), một bộ trưởng của Higashi Hongwanji, người đã chết trong ngục tù, bị buộc tội tham gia vào một âm mưu chống lại chính phủ trong tư cách là một nhà hoạt động xã hội. Kujo Takeko (1887-1928), con gái của Abbott Myonyo ở Hongwanji, phải lao lực khi làm việc để cứu giúp những người bị thương trong trận động đất ở Tokyo năm 1923. Bà cũng là người thành lập bệnh viện Asoka ở Tokyo.

Với sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản sau Thế chiến I, Chính phủ Nhật Bản khắc nghiệt hơn. Cảnh sát mật Kempeitai trở nên khét tiếng. Bất kỳ hình thức phản đối chính sách hoặc hoạt động của chính phủ đều trở nên nguy hiểm cho tính mạng của ai đó. Không có tự do tôn giáo thực sự cho đến sau năm 1945 và sự thất bại của chủ nghĩa phát xít Nhật Bản trong Thế chiến II.

Kể từ khi Thế chiến thứ hai kết thúc, đã có nhiều phong trào hòa bình của Phật giáo phản đối chiến tranh và vũ khí hạt nhân. Họ cũng thúc đẩy môi trường trong lành, trong khi một số hoạt động để khắc phục sự phân biệt đối xử chống lại burakumin hoặc những người bị kỳ thị. Ngoài ra, đã có những nỗ lực cải cách bản thân các tông phái Phật giáo khác nhau. Một số nhà nghiên cứu tập trung vào sự hợp tác của các giáo phái Phật giáo với chính phủ quân phiệt nhưng những người khác thì chỉ trích một số giáo lý như Giác Ngộ Bổn Nguyên (Primordial Enlightenment) đã khuyến khích sự tự mãn đồng thời dễ dàng chấp nhận mọi khi chúng bị chính quyền sai khiến.

Với Hongwanji đã có một số phát triển đáng chú ý. Trên nền tảng kinh nghiệm của Nhật Bản trong chiến tranh và các vấn đề xã hội, chúng ta có thể quan sát thấy sự phản đối mạnh mẽ của Hongwanji đối với việc tái vũ trang và vũ khí hạt nhân của Nhật Bản. Trong số các học giả đã có nghiên cứu về cái được gọi là Senji Kyogaku hay Học thuyết thời chiến mà tăng lữ đã hợp tác với Chính phủ để hỗ trợ chiến tranh. Nó dẫn đến việc Hongwanji phải xin lỗi vì đã thông đồng với chính phủ. Họ đã phản đối việc sửa đổi điều khoản chống chiến tranh trong hiến pháp.

Một khía cạnh của sự thông đồng giữa giáo phái và chính phủ là việc giải thích ý nghĩa của lòng vị tha. Ngày nay, chúng ta cho rằng vị tha là một cái nhìn sâu sắc quan trọng của Phật giáo. Tuy nhiên, nó có thể có nhiều nghĩa khác nhau. Trong thời chiến, vị tha được hiểu là hy sinh và chết cho Hoàng đế. Có một cụm từ truyền thống nổi tiếng là Messhi hoko, Bỏ cái tôi và phục vụ công chúng.

Hongwanji cũng đã phản đối mạnh mẽ việc chính phủ tái lập ủng hộ đền Yasukuni, biểu tượng của chủ nghĩa quân phiệt và Thần đạo ở Yasukuni làm nơi yên nghỉ cho tất cả những người lính đã chết trong chiến tranh. Vài năm trước, Abbott cũng là người đứng đầu chính thức của một tổ chức xóa bỏ sự phân biệt đối xử với những người Burakumin bị kỳ thị, được gọi là Dowa Mondai. Trong những năm gần đây đã có mối quan tâm rộng rãi đối với các vấn đề sinh thái và môi trường. Ngoài ra còn có một phong trào nhà tế bần mạnh mẽ hoặc phong trào hoạt động Vihara. Trong nhiều cuộc phỏng vấn và thảo luận bàn tròn, Hòa thượng đã nói rõ rằng những người theo Chân tông phải tham gia vào xã hội và rằng các nguyên tắc của Phật giáo có ý nghĩa xã hội. Hongwanji tiếp tục đấu tranh chống phân biệt kỳ thị.

Liên kết với giáo phái Higashi Hongwanji, có Kaiho Shinshu Kyokai. Phong trào này nhằm giải phóng Burakumin bị phân biệt đối xử. Họ đã cảnh giác việc xem xét kỹ lưỡng giáo lý Phật giáo để tìm bất kỳ sự hỗ trợ nào cho sự phân biệt kỳ thị. Họ rất nhạy cảm với ý tưởng về nghiệp. Khi nghiệp được giải thích một cách trừu tượng, nó trở thành số phận và được sử dụng để giải thích bất kỳ giới hạn và điều kiện nào. Việc trở thành Burakumin được coi là kết quả của hành động trong quá khứ ở một kiếp sống khác và xác lập sự phân biệt đối xử. Sự phân biệt đối xử này bắt đầu từ trong Phật giáo với những công việc không trong sạch như đồ tể, thợ thuộc da, và những vấn đề đối đãi liên quan người chết v.v. Nếu bạn đã xem bộ phim Nhật Bản Người tiễn đưa, cốt truyện xoay quanh thái độ đối với những người đối xử với người quá cố.

Chúng ta cũng nên lưu ý rằng có lẽ Nichiren là nhà hoạt động Phật giáo nổi bật nhất. Bỏ qua những cân nhắc về giáo lý và luận chiến, Nichiren tin rằng quốc gia đang gặp nguy hiểm nghiêm trọng do xung đột nội bộ và khả năng xâm lược nước ngoài của người Mông Cổ. Nichiren chống đối chính phủ vì đã không tuân theo lời dạy của kinh Pháp Hoa. Ông là vị thầy Phật giáo bị ngược đãi nhiều nhất nhưng can đảm nhất vì ông quan tâm đến hạnh phúc của xã hội.

Trong hoàn cảnh hiện đại của chúng ta, hầu hết các phong trào hòa bình ở Nhật Bản đều bắt nguồn từ truyền thống Nichiren và nổi bật nhất là giáo phái Nipponzan Myohoji được chú ý vì đi bộ và giống tiếng trống khắp thế giới vì hòa bình.

Soka Gakkai cũng bắt đầu với nỗ lực cải cách xã hội. Người sáng lập Makiguchi Saburo, một giáo viên địa lý, đã bắt đầu một phong trào tương tự như phong trào Khôi phục đạo đức ở phương Tây. Nó được đặt tên là Hiệp hội học thuật để trau dồi các giá trị văn minh. Anh ấy liên kết với Nichiren Shoshu như một cơ sở tôn giáo. Makiguchi bị cầm tù trong chiến tranh vì phản đối chiến tranh. Anh ta chết trong ngục thất. Một phần thành công của phong trào của ông sau chiến tranh và thông qua quá trình tái thiết dựa trên thực tế rằng đây là nhóm duy nhất không hợp tác với chính phủ như các giáo phái khác đã làm. Trong phong trào mà chúng ta biết sau này, sự nhấn mạnh vào việc lợi lạc thế gian nhờ trì tụng danh hiệu Kinh Pháp Hoa đã nhận được nhiều tiếng tăm hơn, cũng như sự lan truyền nhanh chóng ở Nhật Bản, Hoa Kỳ và các quốc gia khác. Tại Nhật Bản, nó đã thành lập một đảng chính trị Đảng Chính phủ trong sạch-Komeito. Sinh thái và Hòa bình hiện là chủ đề chính của họ.

Bên ngoài Nhật Bản, chúng ta nên lưu ý đến công việc của Tiến sĩ B. R. Ambedkar (1891-1956) với tư cách là người tham gia xây dựng Hiến pháp Độc lập của Ấn Độ. Ông cũng đã khiến hàng nghìn người cải đạo sang Phật giáo. Chúng ta cũng nhớ đến những nhà sư Việt Nam dũng cảm đã tự thiêu để phản đối chiến tranh.

Và, lấy cảm hứng từ sự phản đối chiến tranh Việt Nam, Hội Ái hữu Hòa bình Phật giáo được khởi xướng ở Hawaii bởi Robert Aitken Roshi, một thiền sư đã viên tịch. Giờ đây, nó đã trở thành một nỗ lực quốc gia chịu ảnh hưởng của nhà hoạt động Phật giáo Việt Nam Thích Nhất Hạnh và Đức Đạt Lai Lạt Ma, người đấu tranh cho nhân quyền ở Tây Tạng và thế giới. Phong trào Phật giáo nhập thế ở phương Tây cũng được truyền cảm hứng bởi ông Sulak Sivaraksa của Thái Lan và Tiến sĩ A. T. Ariyaratne của Sri Lanka. Tiến sĩ Ariyaratne đã thành lập một cơ quan dịch vụ xã hội Sarvodaya giúp mọi người thông qua các tổ chức làng xã để cứu trợ và phát triển, Danh xưng có nghĩa là sự thức tỉnh của tất cả thông qua nổ lực chung.

Chúng ta cũng có thể lưu ý đến xuất thân Phật giáo của bà Aung San Suu Kyi ở Miến Điện (Myanmar), người đã bị chính quyền đàn áp từ lâu vì bà kiên quyết ủng hộ nền dân chủ. Tiến sĩ Ken Tanaka kêu gọi sự chú ý đến một phong trào Tịnh độ hiện đại ở Đài Loan với sự tham gia xã hội tích cực hơn: “Kiến lập và Tịnh độ nhân gian.” (Phật Tịnh Độ Tông, tr. 15.)

Ngoài ra còn có Hội Cứu trợ Từ bi Phật giáo Từ Tế tổ chức các phòng khám y tế và thực hiện các dịch vụ xã hội trên khắp thế giới. Tổ chức Tzu Chi có nguồn gốc từ Đài Loan vào năm 1966 bởi Master Cheng-yen. Nó tham gia vào chăm sóc y tế, giáo dục và truyền bá Phật giáo trên khắp thế giới. Khởi đầu với 30 thành viên, những bà nội trợ tiết kiệm hai xu từ tiền mua hàng tạp hóa mỗi ngày để giúp đỡ người nghèo, quỹ hiện có tình nguyện viên ở 47 quốc gia và 372 văn phòng trên toàn thế giới.

Từ những ví dụ về hoạt động Phật giáo lịch sử và đương đại cho thấy rằng Phật giáo có thành tích hoạt động xã hội ủng hộ phúc lợi con người, nhân quyền và công lý, cộng đồng Phật tử nhập cư ở Hawaii và đại lục, đặc biệt là người Nhật, dường như bị tụt hậu trong những nỗ lực đó. Tuy nhiên, tình huống này cũng phải được hiểu theo lịch sử.

Phật giáo đến Hawaii ban đầu như một chỗ dựa tinh thần cho các gia đình lao động Nhật Bản trên các đồn điền đường. Được du nhập trực tiếp từ quê hương, Phật giáo phản ánh những điều kiện phổ biến ở Nhật Bản vốn đã được định hình trong bối cảnh chế độ chuyên quyền qua nhiều thế kỷ. Trong suốt lịch sử của mình, chính quyền Nhật Bản hạn chế tiếp cận và giảng dạy quần chúng, đặc biệt là trong thời kỳ Tokugawa (1800-1898) tự cô lập. Chức năng chính của các ngôi đền, tự viện là thờ phụng tổ tiên và duy trì trật tự xã hội.

Ngoài ra, vì tôn giáo của tầng lớp lao động, bị tách biệt trong các đồn điền, không có quyền công dân hoặc sự công nhận về chính trị hoặc xã hội, các thành viên nhập cư hướng nội đến các ngôi tự viện nơi họ nhận được sự hỗ trợ tinh thần và các nguồn lực để xác nhận cá nhân. Các ngôi đền được xây dựng và chủ yếu hoạt động như các tổ chức xã hội và cộng đồng, duy trì các trường dạy ngôn ngữ và các hoạt động văn hóa, đồng thời là trung tâm nghi lễ của đức tin.

Vị thượng thủ thứ hai của Hongwanji đã ủng hộ các cuộc đình công đa chủng tộc vào những năm 1920 tại Oahu, Hawaii, khiến cộng đồng chiếm ưu thế đáng kể. Ông đã viết các bài luận về sự tương thích giữa Phật giáo và dân chủ, đồng thời kêu gọi sự chú ý đến thói đạo đức giả của người Mỹ, trong khi tự cho mình là một nền dân chủ, đã có những nỗ lực đàn áp và vi phạm quyền của người Nhật. Người ta đã cố gắng đóng cửa các trường dạy tiếng Nhật, trong khi truyền giáo Cơ đốc giáo nhấn mạnh rằng một người chỉ có thể là một người Mỹ tốt nếu một người theo đạo Cơ đốc. Chiến tranh thế giới thứ hai đã mang lại sự nghi ngờ và từ chối các quyền đối với tăng lữ và tổ chức Phật giáo. Trong khi cộng đồng người Nhật ở Hawaii phần lớn tránh bị giam giữ, không giống như cộng đồng ở đất liền, Phật tử khó có thể “hoạt động tích cực” như chúng ta hiểu hiện nay về hoạt động tích cực.

Với sự trùng tu sau năm 1945, các ngôi chùa và hội chúng lấy lại niềm tin vào truyền thống của họ và xây dựng lại các cơ sở của mình, ở đây và trên đất liền. Theo kinh nghiệm của riêng tôi khi đến Hawaii vào năm 1970, tôi nhận thấy rằng mọi người vẫn còn chịu áp lực. Sẽ dễ kiếm được việc làm trong xã hội hơn nếu một người theo đạo Thiên chúa. Những sinh viên có nền tảng Phật giáo sẽ không dễ dàng thừa nhận họ là Phật tử. Dần dần dưới sự lãnh đạo của Kanmo Imamura, con trai của vị vị thượng thủ thứ hai, việc thành lập Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo và các chương trình nghiên cứu Phật giáo trong các khoa triết học và tôn giáo tại Đại học Hawaii đã góp phần vào việc ngày càng công nhận Phật giáo là một nền giáo dục chính và có ảnh hưởng niềm tin giữa các nền văn hóa trên thế giới. Tất nhiên, đã có những phát triển đáng kể ở đại lục, nơi các tổ chức, phân khoa Tôn giáo mọc lên để giảng dạy các tôn giáo trên thế giới và nhiều chương trình Phật giáo đã được khởi xướng với sự quan tâm đến Thiền và nhữngc hình thức Phật giáo khác. Do đó, trên khắp đất nước từ những năm 60 trở đi, sự quan tâm đến Phật giáo ngày càng tăng với sự gia tăng học bổng, các khóa học và ấn phẩm cũng như sự gia tăng ở các trung tâm nhỏ với một vị thầy và các tín đồ như Diamond Sangha ở Hawaii. Hiện nay còn có các nhóm Thiền Chánh niệm và Thiền Vipassana cũng như đại diện cho truyền thống Phật giáo Tây Tạng.

Do môi trường thay đổi và sự thừa nhận tích cực về sự đa dạng của các con đường tâm linh trong xã hội Hoa Kỳ, những người Phật tử đã bắt đầu phát triển tiếng nói và cách tiếp cận của riêng họ đối với các vấn đề đương đại. Nó đã chuyển từ sự thụ động được thúc đẩy bởi nền tảng văn hóa và lịch sử và sự thiếu tự tin với tư cách là một tín ngưỡng thiểu số sang một tín ngưỡng với thông điệp cần được lắng nghe trong xã hội phân cực của chúng ta. Tại Hawaii, Hiệp hội Phật giáo Quốc tế Hawaii được khởi xướng như một tổ chức giáo dục và đã đưa ra những tuyên bố công khai về hôn nhân đồng giới và chiến tranh ở Iraq.

Thông điệp của Phật giáo kêu gọi chúng ta nhận ra rằng, nhiều vấn đề của chúng ta là do xung đột của bản ngã, cá nhân; cộng đồng, và chúng ta cần tự phản tỉnh. Tất cả các vấn đề của chúng ta không phải do hoàn cảnh bên ngoài hay do người khác tạo ra. Các cuộc tranh luận là hai mặt và cuộc sống dân chủ đòi hỏi sự pha trộn giữa các lợi ích và mong muốn cạnh tranh nhau.

Phật giáo cũng nhấn mạnh đến sự phụ thuộc lẫn nhau của chúng ta, điều này có thể chống lại sự gây chia rẽ và cuối cùng là tự chuốc lấy thất bại, hiện đang thống trị nền văn hóa của chúng ta. Chủ nghĩa cá nhân tràn lan, nơi chỉ có thể có người chiến thắng, coi thường kẻ thua cuộc, đang phá hoại kết cấu xã hội mà tất cả chúng ta cần phải sống có ý nghĩa.

Phật giáo sẽ chống lại sự kết hợp giữa chủ nghĩa dân tộc, Cơ đốc giáo và chủ nghĩa tư bản kinh tế đang thống trị xã hội của chúng ta và làm suy yếu trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và ngành công nghiệp vì lợi ích vật chất. Phật giáo, bằng cách khuyến khích tự kiểm điểm và tự phê bình, sẽ thúc đẩy tinh thần trách nhiệm chung và sự thừa nhận rằng chúng ta không thể tồn tại và thịnh vượng trừ khi chúng ta cũng giúp người khác tồn tại và thịnh vượng. Phật giáo sẽ đặt trách nhiệm xã hội lên hàng đầu và nói rõ rằng tự do thực sự là không thể chia cắt.

Phật giáo có thể đóng góp tiếng nói của mình và củng cố các nguyên tắc tự do và công lý vốn là dấu ấn của lịch sử và xã hội Hoa Kỳ. Nó cũng có thể khiến chúng ta khiêm tốn nhận ra rằng chúng ta đã thường xuyên không tuân theo những lý tưởng cao nhất của nền dân chủ của mình. Hoàn cảnh hiện tại, nơi có nhiều người tìm kiếm, mang đến cho Phật giáo một cơ hội chưa từng có trong lịch sử để mang cái nhìn sâu sắc về đạo đức và tâm linh của mình vào xã hội đương đại.

_________________________

Tâm Quảng Nhuận lược dịch từ nguyên bản tiếng Anh “Understanding Buddhist Activism” của tác giả Alfred Bloom, Giáo sư danh dự, Đại học Hawaii, đăng trên trang Shin Drarma Net | Buddhist Study Center, Honpa Hongwanji Mission Of Hawaii