MẸ TÔI
Mừng Sinh Nhật 75 tuổi của Mẹ.
Mẹ sinh ra và lớn lên ở vùng quê đẹp
và thơ mộng ven biển Miền Trung trong một gia đình Nho giáo. Mẹ, tên là Trần Thị
Ái, Pháp danh Nguyên Ái. Mẹ sanh ngày 20 tháng 12, năm 1934 (năm Ất Hợi) tại
thôn Vĩnh Hội, Phủ An Nhơn, Huyện Phù Mỹ, Tỉnh Bình Định. Nay là thôn Vĩnh Hội,
Xã Cát Hải, Huyện Phù Cát, Tỉnh Bình Định. Mẹ là người con thứ 6 trong một đại
gia đình gồm 10 anh chị em. Ông Ngoại là Xã trưởng Trần Hoành và bà Ngoại là Trần
Thị Nhĩ. Mẹ xuất thân từ một gia đình Nho giáo, nhưng đã được thấm nhuần tinh
tuý Phật Giáo. Thời thơ ấu, quý Cậu Dì và Mẹ được Ông Bà Ngoại cho thọ Tam quy
Ngũ giới với vị Phương trượng Chùa Linh Phong (Tục gọi là Chùa Ông Núi), Phù
Cát, Bình Định lúc bấy giờ. Từ đó, hạt giống Phật pháp đã thấm nhuần trong Mẹ từ
lời nói, hành động, và thân giáo của người. Mẹ lúc nào cũng nhỏ nhẹ, dịu dàng,
kiên nhẫn, hy sinh, và từ tốn.
Mẹ là người đảm đang, hiền lành, và nhân hậu. Mẹ còn là vị “nữ
tướng” trong gia đình. Mẹ vất vả thức khuya dậy sớm lo cho chồng cho con từng
giờ từ thuở làm dâu đến bây giờ. Thuở thiếu thời Mẹ học trường làng đến gần lớp
Hai thì phải nghỉ học giúp việc gia đình. Ở tuổi thơ ấu, Mẹ đã lo cho gia đình,
trông nôm đàn em, lo việc nhà, và trồng trọt trong vườn. Khi lớn lên, như bao nhiêu
thiếu nữ khác trong làng, Mẹ phải làm ruộng làm rẫy, một nắng hai sương thật cơ
hàn và vất vả. Mẹ lớn lên trong tình thương yêu và dạy dỗ của Ông Bà Ngoại. Mẹ
được hấp thụ những tư tưởng mộc mạc mà bao quát như “Đói cho sạch, rách cho
thơm” đến “Ta nên tất thị mình nên”; “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân; Điều gì
mình không muốn thì đừng nên làm cho người.” và những tư tưởng căn bản của Phật
Giáo như nghiệp và nhân quả luân hồi. Đó cũng là những gì mà chúng tôi được Mẹ
dạy từ tấm bé. Người trong họ hàng, ai ai cũng thương mến Mẹ. Ở trong làng, ai
cũng biết Mẹ hiền hậu, tử tế, và xinh đẹp. Có lần Mẹ nhắc lại có gã thanh niên
con trai làng bên cỡi ngựa chận đường trêu Mẹ. Mẹ thẹn thùng quay đi. Những gã
thanh niên tuấn tú như thế mà chưa lọt mắt Mẹ vì Mẹ chỉ biết “Ba Mẹ đặt đâu con
nằm đấy” mà thôi.
Năm 1953, khi lên mười chín, Mẹ lạy Ông Bà đi lấy chồng. Chuyện
tình của Ba Mẹ là một chuyện tình thật đẹp. Ông Nội, Ông Ba Ước, Ông Bốn Kha,
và Ba chèo thuyền đi mua củi về chụm. Thực ra là “xem mắt” thì đúng hơn. Mẹ rất
vô tư mang nước lên đãi khách trong khi quần áo đi cày ruộng vẫn còn nguyên vẹn.
Cái thật thà, vô tư đó là một trong những đặc điểm mà Mẹ được Ông và Ba thương
mến rất nhiều. Ba là con trai đầu, là anh cả trong gia đình 9 anh chị em. Ba
thì lớn lên với biển. Biển dạt dào êm ả, biển bao la mặn nồng, nhưng biển cũng ầm
ĩ vô cùng. Ba lặn lội dầm mưa dãi nắng để kiếm kế sanh nhai. Ba hiền lành, chất
phát, dáng trung trung, chỉ 1 mét 6 (5'3''), nhưng vạm vỡ; Mẹ nhân hậu, cao
ráo, và xinh đẹp. Ba Mẹ thật là xứng đôi vừa lứa.
Mẹ làm dâu thật tốt, những năm đầu Mẹ lo sự nghiệp gia đình
bên Nội nên mãi đến 6 năm sau Mẹ mới có con. Tình yêu của ba Mẹ ngày càng sâu đậm
và sau 21 năm, Mẹ đã sinh cho Ba được năm chị gái. Đến đây thì sức cũng đã cạn.
Ngũ long công chúa còn gì bằng, nhưng Ba là con trai trưởng nên cần phải “Nối
dõi tông đường”. Vì sự thuyết phục rất tuyệt diệu của Ba và áp lực bên chồng, Mẹ
một lần nữa thọ thai. Đợt này, thai nghén rất khác thường. Mẹ thầm nghĩ đây chắc
là hỷ sự, là đứa con trai để nối tiếp dòng họ Bạch. Mẹ lại rã rời tay chân khi
biết được thêm một chị gái, chị Bạch Thị Xoa chào đời. Chị là sự xoa dịu, vỗ về
cho những cơ hàn và nhọc nhằn của Ba Mẹ. Mặc dù toàn là con gái, nhưng Ba Mẹ lại
yêu thương các con vô bờ bến.
Thế rồi, Ba Mẹ quyết chí sẽ không có con thêm nữa vì tuổi đã
ngoài 40. Sau cùng để tiếp nối dòng họ Bạch, Ba Mẹ đã quyết định xin một anh
trai tại Cô Nhi Viện Quy Nhơn về làm con nuôi. Anh trai, Bạch Xuân Thảo là con
của một quân nhân Hoa Kỳ. Ba Mẹ xin anh về lúc anh lên hai, ba tuổi, thương yêu
và nuôi nấng anh như đứa con ruột. Anh rất đẹp trai và kháu khỉnh. Không bao lâu Ba Mẹ biết anh có chứng bệnh
kinh phong; thật nhọc nhằn cho Mẹ nhưng tình yêu của Ba Mẹ dành con anh vẫn đậm
đà. Thế là, không mong mà được; không đợi, không mong, Mẹ đã thọ thai một lần nữa.
Và đứa con trai duy nhất ra đời đúng vào ngày rằm Tháng Bảy, mùa Vu Lan Thắng Hội,
năm Nhâm Thìn (1976) trong sự thương yêu và trìu mến của nhiều người, nhất là
gia đình bên Nội. Bạch Xuân Phẻ, cái tên mà Ba Mẹ mong mỏi luôn luôn khỏe mạnh,
là đứa con trai ruột duy nhất của Ba Mẹ. Bạch Xuân Phẻ là cháu Nội đích tôn của
Ông Bà họ Bạch đời thứ 6 trong làng chài Phước Lý.
Ở Phước Lý (nay là Xã Nhơn Lý), ai cũng thương yêu Mẹ. Vì Mẹ
sống cho gia đình và sống vì mọi người. Mẹ nấu ăn rất ngon. Mẹ nấu cho nhiều
đám giỗ và đám cưới. Nhiền lần Mẹ nấu ăn cho cả vài trăm người mà không hề than
phiền mệt nhọc. Mẹ là người nhà Quê
mà làm mắm, làm mực không ai bằng. Mẹ buôn tần bán tảo. Mẹ vun vén, lo toang
xây nhà cho Ông Bà Nội. Mẹ giúp chăm sóc các em chồng, trông nom và lo lắng cho
gia đình chồng. Cuộc sống cơ hàn như thế mà lúc nào Mẹ cũng dịu dàng, kính trên
nhường dưới, và ngọt ngào với mọi người. Mẹ sống trên thuận dưới hòa, Mẹ được
lòng rất nhiều người và tiếng thơm ngày càng vang xa.Với một bầy con 8 đứa, Mẹ
dạy dỗ, yêu thương, và chăm sóc từng ngày. Mẹ lo cho chồng, cho con. Mẹ đã vượng
phu, ích tử. Mẹ đã hun đúc và dìu dắt cho các con thành người. Tuy Ba Mẹ không
có học vị, nhưng đứa nào cũng có nghề nghiệp và học vấn đàng hoàng. Chỉ có chị
Hai, Bạch Thị Đố, đã cùng Mẹ hy sinh lo cho đàn em học hành đến nơi đến chốn
nên không có cơ hội lo cho chính mình. Mẹ đã nuôi nấng cho đàn con lớn khôn thành
người và đã gả chồng cho những con gái lớn sau khi đã có nghề nghiệp, đó là chị
ba Lố và chị bốn Gành. Năm 1987, chị thứ 6, Bạch Thị Phượng là người con gái đầu
tiên của Làng được vào Đại Học Sư Phạm ở thành phố Quy Nhơn. Mẹ hy sinh biết
bao, có lần Mẹ đã bán hết tất cả của cải mình có để nuôi các con ăn học. Hồi
trước, Mẹ bảo là nhà có vàng thẻ, dần mòn bán hết để lo cho con cái rồi đến lúc
phải đi mượn gạo nấu đỡ qua ngày. Có những lúc, Mẹ đã rơi nước mắt mà nào Mẹ có
cho Ba hay con cái hay biết gì đâu. Mẹ vẫn một lòng kham nhẫn chịu đựng khổ nhọc
nuôi con. Chị thứ 7, Bạch Thị Hoa, vì thương gia đình, nên đã tìm đường vượt biển
hầu giúp gia đình như thiên hạ, nào ngờ chị bị kẹt lại ở Phi Luật Tân. Điều đó
càng làm cho Mẹ thêm lo lắng và âu sầu.
Đến năm 1988, có chương trình Con Lai Đi Mỹ (Vietnamese
Ameriasian Homecoming Act), Ba Mẹ quyết định làm giấy tờ thử xem sao. Rồi cuối
cùng cũng không có đủ tiền vào Sài Gòn, nên chỉ đành cho anh Thảo một mình về Mỹ.
Nhưng đại sứ quán bảo rằng anh bệnh, nên cần phải có người chăm sóc. Nhà chỉ đủ
tiền cho chị Sáu đi thôi, nhưng chị Sáu cũng lưỡng lự vì đang học ở Trường Đại
Học Sư Phạm Quy Nhơn vả lại chị cũng ngại xa gia đình một mình. Cuối cùng, Mẹ lại
một lần nữa âm thầm đi mượn chác để có tiền vào Sài Gòn chuẩn bị đi Mỹ. Ở tại
Sài Gòn, anh Thảo và Mẹ được ở tại Trung Tâm Chuyển Tiếp Trẻ Lai tại quận Tân
Bình để chuẩn bị và trị liệu cho anh. Thời gian này là thời gian vất vả nhất
cho Mẹ. Anh Thảo lại trở bệnh nặng và tâm trí lại bất ổn. Mẹ cực nhọc biết bao.
Trong lúc khổ đau và vất vả, có nhiều cô chú trong trung tâm giúp đỡ cho ba mẹ
con như chú Tùng, cô Tâm, cô Thu, và chú Hoàng. Vì sự sinh tồn, Mẹ phải lặn lội
đi bán hàng rong ở khu du lịch Đầm Sen bên cạnh. Mẹ phải đi chợ thật xa mua hoa
quả và vật dụng, bán lấy lời. Có lần Mẹ bị bắt, các chú Công An đã nhốt Mẹ
trong phòng cầu tiêu nhỏ xíu. Mẹ vừa tủi thân, vừa sợ sệt; thế là Mẹ khóc
nguyên đêm. Nước mắt Mẹ đã đổ thật nhiều vì con vì cái. Mỗi lần nhắc đến việc
này, chúng tôi không cầm được nước mắt.
Có những lần, Mẹ phải dành dụm thức ăn hoặc sữa để bán lại lấy
tiền, giúp các con ở ngoài Trung. Bản thân tôi phải bỏ học từ đầu lớp Bảy để
vào Sài Gòn cùng Mẹ chia ngọt sẻ bùi trong cuộc sống. Có lần về lại thăm quê từ
Sài Gòn, người ta đã nhìn Mẹ và gia đình bằng đôi mắt trêu chọc, khinh miệt. Còn
Trường làng Phổ Thông Cơ Sở Xã Nhơn Lý cũng không cho tôi đi học lại vì họ viện
lý do là “sắp đi Mỹ”. Mẹ vẫn cười làm lơ không một lời oán trách. Thế rồi,
duyên lành cũng đến. Cuối cùng, toà đại sứ cho cả gia đình đi Mỹ mà may thay là
có một ông bác sĩ Mỹ bảo trợ nên gia đình được bay trực tiếp qua Thái rồi qua Mỹ,
thay vì qua Phi Luật Tân ở học tiếng Anh trong 6 tháng mới định cư qua Mỹ. Gia
đình rất hạnh phúc và ngậm ngùi rời Việt Nam vào ngày 9 tháng 6 năm 1991. Qua
Thái Lan ở khoảng một tuần, sau đó đại gia đình được đặt chân trên xứ Hoa Kỳ
vào ngày 18 tháng 6 năm 1991 tại San Francisco rồi định cư tại Lincoln,
Nebraska. Ở San Francisco, chúng tôi rất
vui, ngạc nhiên, tò mò, lo sợ, hồi hộp, và hy vọng. Và đó cũng là những cảm xúc
ban đầu.
Niềm vui của Mẹ chưa thấm thì nước mắt Mẹ lại đổ vì trên chiếc
phi cơ 18 chỗ ngồi, nhìn xuống vùng Trung Mỹ toàn là ruộng với ruộng nối tiếp
nhau. Cò bay thẳng cánh là đây, mà Mẹ thì lại sợ đi làm ruộng. Như mọi sự đã được
Ơn trên an bày, sau 6 tháng ăn tiền trợ cấp của chính phủ. Ba Mẹ có việc làm ở
hãng giặt, chị sáu Phượng thì phải vừa đi học vừa đi làm ban đêm để giúp gia
đình và lo cho các em đi học. Chúng tôi biết chị cũng đã khóc thật nhiều và thầm
cảm ơn sự hy sinh cao cả của chị cũng như chị Hai một thuở. Năm 1993, chị Hoa
được đoàn tụ cùng gia đình từ Phi Luật Tân. Thế rồi chúng tôi được đưa vào lớp
10, và cũng bắt kịp việc học hành và nên người như thiên hạ, không phụ lòng ân
nghĩa sinh thành dưỡng dục của Ba Mẹ.
Ở Lincoln, Ba Mẹ lấy làm tự hào và hoan hỷ trong sự trưởng
thành, học hành, và hiếu thảo của con cái. Ngoài ra, Ba Mẹ tìm được sự an lành
và thảnh thơi tại Chùa Linh Quang. Ở đó ai ai cũng quý mến Ba Mẹ đã một lòng tu
học và làm công quả cho Chùa. Mẹ một thời, một đời sống vì chồng vì con, vì gia
đình, vì tha nhân. Trên đôi vai của Mẹ vẫn cưu mang cho những người còn ở lại
Việt Nam. Thế rồi, sức Mẹ cũng có hạn, Mẹ về hưu mừng tuổi hạc. Năm 2000, chúng
tôi đã đón Ba Mẹ về sống với nắng ấm California. Mẹ càng ấm lòng khi chứng kiến
con cái thăng hoa, tuần tự lập gia đình, sanh con đẻ cái. Hết lo cho con, bây
giờ Mẹ lo cho cháu. Đó cũng là niềm vui của Mẹ. Ba Mẹ vào tuổi hạc, thất thập cổ
lai hy, Ba mẹ càng ngày càng tinh tấn thiền tịnh song tu. Ba Mẹ thường xuyên đi
về Chùa và tu tập tại Đạo tràng Kim Quang. Nói sao cho hết tình thương yêu của
Ba Mẹ. Tình thương của Mẹ ngọt ngào và diệu vợi. Mẹ là dòng suối ngọt ngào, mẹ
lấp lánh ngàn sao, mẹ là rau thơm sau hè, mẹ là những chùm mận đỏ, mẹ là tiếng
chuông tiếng mỏ, mẹ là câu kệ bài kinh, mẹ là Bất Khinh Bồ Tát, mẹ là cánh đồng
bát ngát, mẹ là nước mắm nhỉ cá cơm, mẹ là cảo thơm, mẹ là bài thơ lục bát. Mẹ
ơi, chúng con làm sao dùng từ ngữ có hạn của nhân gian mà viết hết về Mẹ được. Tình
Mẹ sao mà mênh mông và dào dạt quá.
Mẹ yêu,
Hôm nay mừng tuổi Mẹ
Các con lạy đền ân
Ơn Mẹ hơn trời biển
Ơn Mẹ thật vô biên
Mẹ ơi, con thương Mẹ!
Sacramento, December 20th, 2008.
For English, please click here. My Mother's Biography.
Hôm nay mừng tuổi Mẹ
Các con lạy đền ân
Ơn Mẹ hơn trời biển
Ơn Mẹ thật vô biên
Mẹ ơi, con thương Mẹ!
Sacramento, December 20th, 2008.
For English, please click here. My Mother's Biography.
Ngôn ngữ trên thế gian là hữu hạn thì làm sao diễn đạt hết tình yêu thương, sự hi sinh, khó nhọc mà Cha Mẹ đã một đời dành hết cho con cho cháu.
ReplyDeleteNay Mẹ đã mãn duyên nơi trần thế. Chúng ta hãy cùng cầu nguyện hương linh Mẹ được siêu sanh tịnh độ về cõi Niết Bàn.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT