Tuesday, February 11, 2020

Thiền và Thi Ca Thi Kệ


Như Hùng: Thiền và Thi Ca Thi Kệ

Có người nói thi nhân là những thiên thần bị đọa xuống trần gian, nên phải làm thơ để mang yêu thương, ray rứt đến cho đời. Thi nhân là kẻ cố gắng khám phá ra những gì đang bị che dấu, khuất lấp trong thực tại, những gì yên ngủ bấy lâu được thi nhân khơi dậy, trang trải cho đời một khuôn mặt, một cách nhìn mới lạ. Thi sĩ đầy quyền năng sáng tạo, dệt nên thơ bằng đôi tay phù phép của mình, bằng cách vật lên, níu nó lại gần vừa tầm nhìn của đôi mắt, thổi vào đó một làn hơi, thêm vào đó một chút linh hồn, một sự sống, để nó vỗ cánh tung bay, mang đến cho đời những sắc hương, hay nhớ thương đến độ dư thừa.
Dòng sông không những là dòng sông với nước lững lờ trôi về muôn lối, với những chiều nhớ thương đưa tiễn mà còn là bến đò tiễn biệt cho kẻ ở người đi, cho vấn vương, sầu nhớ quyện lại đâu đây, cho nỗi buồn dai dẳng phủ kín không gian xa vắng. Đôi mắt của em không còn là đôi mắt “u uẩn chiều nhớ thương” mà còn là mặt nước hồ cho thuyền anh ghé bến.
“Mắt em là một dòng sông
Thuyền anh bơi lội trong vòng mắt em”
Nụ hôn đầu đời của tình yêu, không những nóng bỏng đê mê, để lại dấu ấn trong tâm hồn, mà còn là một thứ âm thanh vang vang vô tận trên bến bờ sinh tử.
“Lần đầu ta ghé môi hôn
Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang”
Trần Dạ Từ
Không phải thi sĩ chỉ mang bấy nhiêu tâm sự đến cho ta, thỉnh thoảng còn mang những nỗi u hoài, giá buốt, khổ đau chồng chất lên nhau nữa.
“Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê”
Nguyễn Du
Có phải đây là bộ mặt đích thực của cuộc đời, mà trong những lần rong ruổi cùng tử sinh, nó đã gắn trọn vào tận cùng tâm thức, bám theo ta trên mọi lối đi về? Thỉnh thoảng đâu đó trong ta một nỗi xót xa, một chút nhớ về, khi bóng hoàng hôn đổ xuống, khi nhớ thương dâng cao chồng chất, ta cứ mãi làm kẻ lang thang lê bước, cắm đầu theo mưa buồn nắng nhớ, chạy theo được mất hơn thua. Rồi những lúc thả hồn cho gió mây gặm nhấm, cho kẻ ở người đi, cho sầu mộng đong đầy, trên mọi nẻo đi về của biệt ly thương nhớ, cho tử sinh tìm về cố quận.
Nhiều lúc ta cảm thấy cuộc đời trở nên vô vị chán chường đau khổ, âu lo theo đó lớn dần và dâng cao khiến ta choáng ngợp, hụt hẫng trong sự phủ vây tứ bề cô quạnh. Cái có với cái không, cái còn với cái mất, cái danh với cái lợi, cái sinh với cái tử, như một bản hòa tấu quyện vào trong tận cùng tâm thức, khiến ta cứ thế mà nổi trôi mà hụt hẫng. Thỉnh thoảng trong ta có một năng lực nào đó muốn đẩy tung nó ra thì nó lại càng bám vào, cứ thế liên tục ta bị đục khoét, đào mòn không lời giải thích hay tiếc thương dù ta thừa biết đây chỉ là sản phẩm của tâm ý và suy tưởng. Ta chỉ có thể hất tung nó ra, khi nào trông thấy trọn vẹn được bản thể không thật của nó như một sự thế vào. Nhưng biết khi nào và bằng cách nào ta khám phá ra được? Không lẽ ta cứ mãi lê lết, rảo bước trong sự bất lực và mờ ảo của nhân sinh, trong sự thờ ơ câm nín và nỗi quạnh đau, phũ phàng của vô thường thổn thức?
Ta thử đọc hai bài thơ “Sơn Phòng Mạn Hứng”, của thiền sư Trúc Lâm Trần Nhân Tông, để thấy sự phi thường ở những con người vượt thoát.
“Ai trói buộc chi tìm giải thoát?
Khác phàm đâu phải kiếm thần tiên
Vượn nhàn, ngựa mỏi, ta già lão
Như trước, am mây chốn tọa thiền”.
“Phải trái rụng theo hoa buổi sớm
Lợi danh lạnh với trận mưa đêm
Hoa tàn, mưa tạnh, non im lắng
Xuân cỗi còn dư một tiếng chim”.
Đỗ Văn Hỷ, dịch Thơ Văn Lý Trần tập 2
(Thùy phọc cánh tương cầu giải thoát
Bất phàm, hà tất mịch thần tiên
Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão
Y cựu vân trang nhất tháp thiền).
(Thi phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn).
Bước đi của con người vốn là bước đi trong cô tịch, hoang liêu trên bến bờ sinh tử; lộ trình nào có bước chân con người đi qua đều in dấu trên từng tâm khảm. Thơ được kể như dòng nước tươi mát trên lộ trình đó, và hành trình nào cũng đong đầy những ngang trái, bẽ bàng, cô liêu hay hoa thơm cỏ lạ, đều tùy vào sự khởi đầu hay chung cuộc cho từng bước đi. Đi trong hoàng hôn tái tê, đi trong bình minh ấm áp, hay đi trên lối về của muôn hoa, không còn nằm ở chỗ đi mà đi là gì, làm gì và tại sao? Một bài thơ tuyệt diệu, một tâm thức bùng vỡ đạt đến đỉnh cao, chắc hẳn không đi qua chặng đường suy luận của ý thức sai biệt, của có không, mà từ sự tỉnh thức trong mọi vận hành hoạt dụng, vượt lên trên cõi thông tục, cõi ấy là tâm giác ngộ.
“Giác ngộ thân tâm vốn lặng yên
Thần thông các tướng biến hiện tiền
Hữu vi vô vi từ đây có
Thế giới hà sa không thể lường
Tuy nhiên đầy khắp cõi hư không
Mỗi mỗi xem ra chẳng tướng hình
Muôn đời ngàn đời nào sánh được
Chốn chốn nơi nơi thường rạng ngời”.
Thiền Sư Cứu Chỉ
Thiền Sư Thích Thanh Từ dịch:
(Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch
Thần thông biến hóa hiện chư tướng
Hữu vi vô vi tùng thử xuất
Hà sa thế giới bất khả lượng
Tuy nhiên biến mãn hư không giới
Nhất nhất quan lai một hình tượng
Thiên cổ vạn cổ nan tỷ huống
Giới giới xứ xứ thường lãng lãng).
Thiền sư, cũng từ những cánh cửa mầu nhiệm của thơ, nâng quan cảm của mình trở thành sự thể nhập, sự đồng cảm của tâm thức, sống và thở như chính nó, trong sự chiêm nghiệm mãnh liệt của tỉnh thức, để từ đó mở ra cái lẽ biến dịch vô thường của tạo hóa. Bằng lời cảnh tỉnh sáng soi thực ngộ, nhắn gởi đến con người đang sống trong thế giới mộng mị, thống khổ phủ vây. Bên cạnh sự biến đổi của vô thường khổ đau ấy, vẫn còn ý nghĩa đích thực của chân thường, của an lạc giác ngộ.
Không hất tung xô đẩy chuyển hóa cái này thì làm sao cái kia hiển lộ; không thong dong, tự tại, vượt lên buông bỏ, thoát ra, thì làm sao trông thấy bản thể như thật của muôn loài?
“Cõi trần vui đạo hãy tùy duyên
Đói cứ ăn no, mệt ngủ yên
Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm
Vô tâm trước cảnh hỏi gì thiền”.
Thiền Sư Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Huệ Chi dịch, Thơ Văn Lý Trần, tập 2 trang 510
(Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền).
Thơ, ý nghĩa của sự sống, vận dụng tất cả những hình tượng biến thành biểu tượng, đưa quan cảm tìm tới đích để liên tục gõ nhịp. Đây không thuộc phạm trù tỷ giảo giữa biểu tượng hoặc cảm xúc, bởi lẽ hai thế đó không bao giờ tách rời ra để tồn tại, nó quyện lại với nhau, như hoa với hương, như bóng với hình. Nó là cái đích mà thơ cần phải đạt đến, chứ không phải chặng đường tìm đến, vì khi tìm ta đã lạc lối hoang sơ, đi vào mê lộ, không khác gì khi ta quay lưng lại với đời sống để nhìn vào một lối duy nhất, trong khi cuộc đời vẫn tiếp tục vận hành ở những dạng thái và lối mòn khác nhau. Làm sao ta có thể đưa quan cảm thoát ra, để dệt thành lời thơ trong sự bay bổng tuyệt diệu của tâm thức? Có phải thơ là sự chắp nối của nghệ thuật hoang tưởng, và là sự biến dạng cùng quẫn nào đó của đời sống, hay những tư tưởng nổi loạn bí lối; và có phải đó là sự đè nén, trá hình về một thế giới hình dung tưởng? Có thể những điều này tạo nên sự có mặt của thơ, tuy nhiên trên tất cả thơ là vùng đất nằm thâm sâu trong tâm ý, khi nào đạt đến trạng thái tuyệt cùng thì nàng thơ mới chợt trổi dậy, làm cuộc lên đường đi đến bản thể vô cùng.
Thi ca vốn không có biên giới, không phạm trù ngôn ngữ, chỉ có quyền năng của thi nhân thoát ra bay bổng trên từng hiện hữu, biến tiểu ngã thành đại ngã, biến cái riêng của mình thành chung của vạn hữu, biến cảm xúc của mình thành chất liệu muôn thơ. Thơ thiền khởi đi trong sự thể nhập vô cùng nào đó của tâm cảnh, vượt ra ngoài thời không về nơi có không vô tận.
“Xoay mình một nén vượt ra lồng
Muôn sự đều không, nhập mắt không
Ba cõi thênh thang, lòng sáng rỡ
Trăng Tây vừa lặn, nhú vầng Đông”.
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Đào Phương Bình dịch
(Phiên thân nhất trịch xuất phần lung
Vạn sự đô lô nhập nhãn không
Tam giới mang mang tâm liễu liễu
Nguyệt hoa Tây một nhật thăng Đông)
Thiền sư vượt lên tất cả, truy tìm ra căn nguyên cấu tạo của muôn vật, đưa tâm thức thoát ra ngoài tử sinh, phiền não, hạnh phúc khổ đau. Thong dong tự tại đi vào cuộc đời vô thường, biến hiện như đi vào cõi thơ mênh mông sâu thẳm. Thiền giúp ta mở tung từng hiện thể, khiến ta tỉnh thức, thoát ly ra ngoài thực trạng, buông bỏ tất cả để không bận lòng, bước vào vườn hoa Thiền với muôn ngàn vẻ đẹp, linh hiện, hòa nhập cùng đất trời, trong sự tuyệt diệu của muôn hoa.
“Thân như tường vách đã lung lay
Đau đáu người đời luống xót thay
Nếu đạt tâm không, không tướng sắc
Sắc không ẩn hiện mặc vần xoay”.
Viên Chiếu Thiền Sư
Thiền Sư Thích Thích Thanh Từ dịch
(Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thế thông thông thục bất bi
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiển nhậm suy di).
Năng lực của thiền còn giúp cho ta mở ra con mắt trí huệ, một khi có được con mắt này chiếu rọi, tất cả đều phải phơi bày, hiện nguyên hình bản thể như thật. Từ năng lực tàn phá của thời gian đến những hiển hiện phi thực ở trong tận cùng tâm ý. Từ những lôi kéo chạy theo mộng huyễn tử sinh, đến những thể nhập trong vô cùng, đều nhờ con mắt huệ này giúp ta bừng lên ánh sáng tuyệt luân, soi thẳng chọc thủng vào màng đen của vô minh, trong tức khắc của sát na nào đó và ta bùng lên giác ngộ. Công năng của thiền còn mang đến cho ta sự hạnh phúc an lạc, cho dù tác tạo ta vẫn thong dong trên mọi lối đi về của sinh tử, một cuộc sống không có khởi đầu hay kết thúc, bay bỗng ra ngoài suy tư luận bàn nhân thế, đâu đó chỉ có tự tại trong sự tái sinh và chuyển tiếp, trong sự linh hiện vượt thoát ra ngoài càn khôn.
“Đã có gì cũng có
Khi không gì cũng không
Khi có không nhào xuống
Mặt trời mọc đỏ hồng”.
Tông Diễn Thiền Sư .
Nguyễn Lang dịch, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận 2, trang 174
(Ưng hữu vạn duyên hữu
Tùy vô nhất thiết vô
Hữu vô câu bất lập
Nhật cảnh bổn đương bô).
Thiền sư, khởi đi từ những âm hưởng mầu nhiệm nào đó của thi ca, thôi thúc gõ nhịp liên tục lên tâm thức nốt nhạc vô thường, sinh tử, khổ đau để đánh thức thực tại, thăng hoa tâm thức giác ngộ của mình. Sống và thở như chính nó, từ đó mở tung cái lẽ biến dịch vô thường của tạo hóa, con người, đau khổ, hạnh phúc, mê mờ, giác ngộ, thành sự thể nhập tự tại trong cõi mênh mang, có không, vô cùng.
“Pháp cũng như vô pháp
Không hữu cũng không không
Nếu đạt được lẽ ấy
Chúng sanh với Phật đồng
Trăng Lăng Già lặng chiếu
Thuyền vượt biển trống không
Không cũng không như có
Định tuệ chiếu vô cùng”.
Thiền Sư Huệ Sinh
Nguyễn Lang dịch, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận 1, trang 126
(Pháp bản như vô pháp
Phi hữu diệc phi không
Nhược nhân tri thử pháp
Chúng sanh dữ Phật đồng
Tịch tịch Lăng Già nguyệt
Không không độ hải chu
Tri không không giác hữu
Tam muội nhiệm thông châu).

TÌM HIỂU THƠ THIỀN VIỆT NAM
Tác giả: Như Hùng
Cội Nguồn Tổ Việt và Lotus Media xuất bản, 2020.
Bìa: Quảng Pháp – Uyên Nguyên
Trình bày: Tâm Thường Định và Nhuận Pháp
Copyright © 2020 Như Hùng, Cội Nguồn và Lotus Media. All rights reserved.
Có những lúc ta phải thức khuya dậy sớm không ngủ nghỉ, bắt nhịp theo tâm thức của mình, thơ là điều khởi nên của những bắt nhịp đó. Từ âm thanh màu sắc, những nổi trôi biến dạng, đẹp xấu, thơ mộng, hay thương đau. Nó tựa như dòng nước len lỏi qua từng ngõ ngách, thấm sâu vào từng kẽ hở để trưởng dưỡng nuôi sống muôn loài. Tất cả quyện lại với nhau, đẩy xô, hài hòa với nhau và thơ chợt trỗi dậy cất nên lời ca trong sự thơ mộng cô liêu, hay những ngang trái đong đầy. Điều này hoàn toàn nằm sẵn trong tâm thức của thi nhân trước khi thơ được cất bước hình thành.
Bài thơ được kể như hay, mang nhiều ý nghĩa là bài thơ đứng trước hai đầu, hai nỗi của hạnh phúc hay thương đau, diễn tả trọn vẹn thực thể của hai vấn đề trên, không những chỉ có cảm giác, thức giác mà còn vận dụng đến tâm giác. Đẩy sự rung động không phải chỉ ở trong rung động, mà hóa thân bay bổng ra ngoài, để thi nhân còn cơ hội xúc tác ngắm nhìn nâng niu, trước khi lời thơ cất lên đi về nơi vô tận. Thi nhân là kẻ rung động trước sự rung động của con người, nhưng là kẻ đi sau của mỗi lời thơ gợi nhớ. Thơ không chỉ là những dòng chữ, những lời ca, những điệp khúc, những dệt nên, mà là một linh hồn ẩn chứa, gởi gắm, những yêu thương chan hòa cho con người và muôn vật.
Sự gặp gỡ giữa thiền sư và thi sĩ có chung điểm tương đồng, đó là khơi dậy sự ngủ say của muôn vật, bằng những rung động trăn trở của mình; và hình thành lời thơ là cơn vượt thoát, chấn động tâm não. Quá trình bắt nhịp tạo nên thơ, đều bước qua ngưỡng cửa màu sắc âm thanh, của thời không, của thiên nhiên, đối tượng, con người, của sinh tử và giác ngộ. Từ đó, đắm chìm trong tư duy, để bắt nhịp đi vào cõi thơ nơi vĩnh cửu, để hoa giác ngộ nở rộ trên lối đi về.
Ở đây thơ không những được hiểu như năng lực sáng tạo, mà còn như cảm quan bùng vỡ tuôn trào, đồng lúc với “gảy mỗ” – một thuật ngữ quan trọng trong thiền, một khi sự vật nở tung hiển lộ tròn đầy đồng nhất. Nó không còn nằm ở biên giới giữa cái này với cái kia, giữa đối tượng và con người mà trở thành hợp thể vô phân nguyên vị, không có chủ thể, khách thể, tâm cảnh, sắc không.
“Tuổi trẻ chưa tường lẽ sắc không
Xuân sang, hoa nở, rộn tơ lòng
Chúa xuân nay đã thành quen mặt
Nệm cỏ ngồi yên ngó rụng hồng”.
Thiền sư Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Ngô Tất Tố dịch
(Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung
Như kim khám phá đông hoàng điện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng).
Ngoài những sai sử, tác động, dệt nên trên lối mòn của ý thức khi nhận định về thơ, khó có dịp ta tìm ra ý nghĩa chung cuộc đúng mức, bởi lẽ có mấy ai thật sự rung động bằng khối óc con tim, bằng sự vượt thoát trên từng hiện hữu, như thi nhân đã từng rung động và nếu có thì chắc gì hiểu trọn vẹn được ý thơ? Tuy vậy chỗ đứng của thi nhân vẫn tuỳ thuộc vào mức độ cảm xúc trong tâm hồn, sự thức tỉnh, giác ngộ trong tâm ý, đó cũng là thước đo khi thơ hiện hình. Ý có dồi dào thơ mới đến đích; tư duy có chín mùi, hồn thơ mới thật sự sống dậy.
Thơ là sự trãi bày dệt nên từ cảm xúc, ta không thể dùng ý thức năng động sai biệt để chuyên chở, như thế hồn thơ sẽ trở nên tức tưởi, đóng khung, nhốt kín theo chiều hướng sai sử, tạo dựng nào đó trong ta. Tuy vậy, ta chỉ là kẻ lần theo dấu vết cảm xúc của thi nhân để bắt nhịp thưởng ngoạn, khi nào chưa biến quan cảm của mình trở thành cảm quan của thi nhân, chưa thể nhập vào vô cùng, chưa vượt thoát ra ngoài biến động nổi trôi, ta vẫn là kẻ lang thang đứng ngoài cuộc chơi, đưa tiễn chính mình về nơi vô tận của có không.
“Muôn pháp về không, không thể nương
Chơn như lặng lẽ hiện tỏ tường
Thấu tột nguồn tâm không chỗ chỉ
Nước tâm bóng nguyệt bặt nghĩ lường”.
Tịnh Giới Thiền Sư
Thiền Sư Thích Thích Thanh Từ dịch
(Vạn pháp qui không vô khả y
Quy tịch chơn như mục tiền ky
Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ
Thủy tâm thủy nguyệt dẫn tâm nghi).
Thi ca ẩn tàng và có mặt trong tất cả mọi sinh thể, dù lặng yên như gỗ đá, hay phơi bày vẻ đẹp trước muôn hoa, nó ở đó chôn mình trong hố thẳm hoang sơ, hay lặng lẽ bồng bềnh theo mây trời lãng đãng. Tất cả được nhà thơ vực dậy, trao cho nó một sức sống, thế là nó bùng lên vỗ cánh tung bay mang hương sắc đến cho đời. Điều khó là làm sao cho nó thức dậy mà không gây thương tổn nào trong tâm thức, và nó trở mình như thế nào trong ý nghĩa cùng tuyệt?
Đây là chặng đường gần giống với thiền, nhằm đánh thức cái tâm giác ngộ tàng chứa trong mỗi chúng ta, nhưng không gây nên sự xung đột, chiến tranh, khủng hoảng tâm lý. Dĩ nhiên cung cách khơi dậy tùy thuộc vào những thôi thúc, những cưu mang, ẩn chứa, thăng hoa của thi sĩ mà thơ mang những âm hưởng khác nhau. Chặng đường của có có, không không, phiền não và niết bàn, khổ đau và hạnh phúc, tất cả rồi sẽ như “bóng nguyệt lòng sông”.
“Có thì có tự mảy may
Không thì vũ trụ này cũng không
Có không: bóng nguyệt lòng sông
Cả hai tuy vậy chẳng không chút nào”.
Thiền Sư Từ Đạo Hạnh
Nguyễn Lang dịch, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận 1, trang 127
(Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không).
Con người sinh ra lớn lên, không phải chỉ có đối diện với khổ đau, hạnh phúc, không phải chỉ có đấu tranh sinh tồn, không phải mải mê làm cuộc cách mạng đập phá. Trên tất cả sự có mặt của con người là làm tăng thêm vẻ đẹp thơ mộng thiên nhiên đất trời, cỏ cây hoa lá đã hào phóng ban tặng. Thi ca ghi dấu chặng đường tâm ý, trên hành trình vạn nẻo dong ruổi của tử sinh, trong một giây phút bất chợt cảm tác cao độ nào đó, thi nhân đã bắt nhịp, trao gởi lời thơ đến cho đời.
Dĩ nhiên không phải sự bắt gặp nào cũng thơ mộng, và chặng đường nào cũng đầy hoa thơm cỏ lạ ngập lối đi, và càng không phải tâm tư nào cũng đong đầy yêu thương, hạnh phúc. Nhưng có vẻ đẹp nào không tàn phai theo năm tháng, hình hài nào không in đậm nét thương đau, tâm tư nào không chất đầy trĩu nặng?
Khi nào tâm thức chưa chuyển hóa, khi nào biên kiến tư tưởng chưa phá vỡ, khi nào khổ đau còn phủ ngập trên lối đi về thì tất cả đều trở nên vô nghĩa, như chính sự vô nghĩa nào đó mà đêm ngày ta đang đối diện thở than.
“Một thân nhàn nhã dứt muôn duyên
Hơn bốn mươi năm những hão huyền
Nhắn bảo các người đừng gạn hỏi
Bên kia trăng gió rộng vô biên”.
Thiền Sư Pháp Loa
Nguyễn Đức Vân dịch
(Vạn duyên tuyệt đoạn nhất thân nhàn
Tứ thập dư niên mộng ảo gian
Trân trọng chư nhân hưu tá vấn
Ná biên phong nguyệt cánh hoàn khoan).
Dù bên cạnh những khổ đau ngang trái chồng chất ấy, thỉnh thoảng trong ta vẫn cảm nhận ra được muôn ngàn vẻ đẹp đang ngự trị, phảng phất đâu đây. Nếu có cơ may trông thấy vẻ đẹp ấy một lần, và từ lần ấy ta quyết nắm bắt duy trì đừng để nó vụt mất, hoặc tạo cơ hội cho những biến động khác chen vào tước đoạt khiến ta phải hối tiếc. Đó cũng là cách ta tiếp cận phần nào sự tỉnh thức an lạc, nếu từ giây phút ấy kéo nó lại gần vỗ về, ôm ấp chiêm nghiệm, hòa cùng với đất trời cây cỏ, phổ nên bản nhạc trần gian. Như có lần thiền sư Không Lộ (?- 1119) cất lên tiếng ca trong tứ bề cô quạnh, làm lạnh cả đất trời, tái tê cõi nhân gian sâu thẳm.
“Kiểu đất long xà chọn được nơi
Tình quê lai láng chẳng hề vơi
Có khi xông thẳng lên đầu núi
Một tiếng kêu vang lạnh cả trời”.
Thiền Sư Không Lộ
Kiều Thu Hoạch dịch
(Tuyển đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thì trực thướng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư).
Tiếng kêu vang dội khủng khiếp ấy khiến mọi cơ năng, mọi suy tư trong ta ngưng đọng giật mình bừng tỉnh, đâu đó chỉ có núi non trùng điệp chồng chất lên nhau. Đâu đó chỉ có mây trời thong dong lơ lửng trên từng đỉnh đồi sương khói; đâu đó chỉ có âm vang vô tận của sinh tử và niết bàn. Đỉnh cao mà thiền sư Không Lộ bước lên trên muôn vạn núi đồi ấy, có phải đó là đỉnh cao của ý thức, của tâm cảnh đang cưu mang, chất đầy những phiền não trong ta?
Có những lúc muôn ngàn âm thanh quái đản cất lên vẫn chưa làm cho kẻ đối diện run sợ, nhưng có lúc chỉ một tiếng kêu và tiếng ấy xoáy thẳng đánh vào trong tận cùng tâm điểm, khiến ta hoang mang bí lối trước những nổi trôi sinh tử trong cuộc đời, nó làm khô cạn dòng ý thức sinh diệt đang cháy bỏng ở trong ta. Một khi tiếng kêu này cất lên, đẩy lùi sự sai biệt của ý thức, của phiền não tham sân si, tống khứ, xoáy thẳng vào trong tận cùng tâm thức, phá vỡ mộng huyễn tử sinh. Chỉ còn lại âm vang điệp khúc dồn dập, đánh phá liên tục để giác ngộ có cơ may thức dậy.
Bước chân đi về đâu, lên thác xuống ghềnh khi khổ đau, phiền não vẫn còn đè nặng? Làm sao bước đi ấy không còn dọ dẫm, lo sợ bị tước đoạt, đánh mất, và làm sao cất lên là phóng đến đích? Vẫn còn là bí mật phong kín muôn lối, như sự câm nín nào đó ở trong ta.
Bài thơ của Thủy Nguyệt thiền sư dưới đây, như dòng nước thanh lương tưới mát tâm hồn khi đắng cay đang gặm nhấm.
“Núi sông dệt gấm vẽ tranh
Từ nơi suối ngọc chảy thành sữa thơm
Trên bờ oanh hót hoa vàng
Dưới sông cá lội từng đàn thẫn thơ
Ông chài ngủ dưới trăng mơ
Nong tằm phơi nắng hè trưa nực nồng”.
Thủy Nguyệt Thiền Sư
Nguyễn Lang dịch, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận 2, trang 173
(Sơn chức cẩm thủy họa đồ
Ngọc tuyền dũng xuất bạch đà tô
Ngan thượng hoàng hoa oanh lộng ngữ
Ba trung bích thủy điệp quần hồ
Nguyệt bạch đường đường ngư phủ túy
Nhật hồng cảnh cảnh kiển ba phô).
Hình ảnh đẹp là hình ảnh ông chài ngủ dưới trăng mơ, ông quên đi tất cả mọi ưu phiền, quên luôn cả việc ông phải làm, ông ngủ một giấc dài không trăn trở, lấy âm vang sóng nước thành điệu nhạc du dương đưa hồn ông vào giấc ngủ bình yên không mộng mị; và trên kia vầng trăng soi sáng, như tấm chăn thời không sưởi ấm hình hài trong sự phủ vây của vô thường sóng nước.
Thiền sư là kẻ nắm bắt đo lường được vận tốc của tư tưởng, làm chủ được cảm xúc, để từ đó nâng lên bình diện cao mà thời gian không đụng đến được. Nhờ vén mở cái tâm thức giác ngộ, không nằm ở giai tầng phân biệt, đối đãi, nên tử sinh phiền não đành chào thua, thong dong tự tại, rong chơi trên mọi nẻo luân hồi.
“Xăm xăm cát bụi bước vào vòng
Vàng óng đầu mi, rướn rướn trông
Bụng ngựa rong chơi, này xóm Bắc
Thai lừa lạc bước, nọ nhà Đông
Trâu bùn chạy tuốt, roi vàng đuổi
Cọp đá lôi về, giây sắt giong
Rồi một ngày mai băng giá hết
Trăm hoa như cũ, gió xuân nồng”.
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Huệ Chi dịch, Thơ Văn Lý Trần, tập 2 trang 248
(Thiều thiều khoát bộ nhập trần lai
Hoàng sắc my đầu đỉnh đỉnh khai
Bắc lý ưu du đầu mã phúc
Đông gia tán đản nhập lư thai
Kim tiên đả sấn nê ngưu tẩu
Thiết sách khiên trừu thạch hổ hồi
Tự đắc nhất triêu phong giải đống
Bách hoa nhưng cựu lệ xuân đài).
Thơ, không chỉ có nhịp đập của con tim, sự hoạt dụng của khối óc mà còn phủ vây nhiệm mầu của hơi thở, cảm thọ của sự sống. Cái khó của thi sĩ, làm sao đưa tri cảm kẻ thưởng ngoạn xúc tác được với sự vật, để bắt gặp cung nhịp, như thi nhân đã từng nhắn gởi. Khi nào nhận chân được giá trị tận cùng đích thực của sự sống, cũng là lúc buông bỏ hết mọi ưu phiền, quên đi tất cả sự lừa dối biến dạng của ý thức, trải lòng từ bi trên muôn vật, và truy tìm ra căn nguyên của khổ đau để tìm phương vượt thoát. Làm sao đạt được cái tâm bình thường không đắm nhiễm, không nằm ở nơi được mất hơn thua, cái tâm vô phiền, còn gọi là vô tâm?
“Khi mê thấy không sắc
Khi ngộ hết sắc không
Sắc không và mê ngộ
Xưa nay một lẽ đồng
Vọng hiện tam đồ hiện
Chân thông ngũ nhãn thông
Tâm niết bàn tĩnh lặng
Biển sinh tử ngàn trùng
Không sinh cũng không diệt
Không thỉ cũng không chung
Chỉ cần bỏ nhị kiện
Thực tại lộ hình dung”.
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Nguyễn Lang dịch, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận 1, trang 293
(Mê khứ sanh không sắc
Ngộ lai vô sắc không
Sắc không mê ngộ giả
Nhất ly cổ kim đồng
Vọng khởi tam đồ khởi
Chân thông ngũ nhãn thông
Niết bàn tâm tịch tịch
Sinh tử hải trùng trùng
Bất sanh hoàn bất diệt
Vô thỉ diệt vô chung
Đản năng vong nhị kiến
Pháp giới tận bao dung).
Thơ bước đi từ ý niệm, từ cảm xúc nhưng nếu cảm xúc đơn thuần không đưa tri giác ra ngoài vùng cấm thì thơ chỉ dừng ở một định ước nào đó, có thể nhờ ảo tưởng nâng cấp mãnh liệt, nên thơ vượt lên bình diện cao mà ta tạm gọi nghệ thuật về ảo tưởng. Điều quan trọng với thiền sư, thi sĩ, từ những gì mà ta cho là hoang tưởng không thật đó biến thành thật, từ mê mờ đưa đến tỉnh thức giác ngộ. Đây là bí quyết nhà thơ có được; những gì ta cho là hoang tưởng, có thể do mức độ tư duy của ta chưa đạt đến tận cùng, tri giác của ta chưa rời vùng cấm, ý thức của ta chưa ngưng tụ, và thường đóng khung trong lối mòn suy luận. Những gì tầm thường nhất cũng có thể cao siêu nhất và những gì cao siêu biết đâu lại tầm thường? Vấn đề ở chỗ, dù tầm thường hay cao siêu, là khi tâm thức của ta có thật sự giác ngộ được cái cao siêu hay tầm thường ấy? Quật tung khoảng cách này lên không phải một sớm một chiều và ai cũng có thể làm được. Chỉ có những thiền sư, những hành giả làm chủ được tâm ý mới đủ năng lực vô cùng đó.
“Nhạn bay ngang trời
Bóng chìm đầm lạnh
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Nước không có ý lưu giữ bóng hình”.
Hương Hải Thiền Sư
Nguyễn Lang dịch, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận 2, trang 140
(Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thuỷ
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm).
Chiếc bóng chim bay qua sóng nước sẽ chìm khuất trong cõi mênh mông, vô cùng, chim chẳng cần lưu lại dấu, nước chẳng một lần thuỷ chung ôm giữ, tất cả chỉ là mối tương duyên tương hợp của đến đi không nắm bắt. Con người đi qua không biết bao nhiêu núi đồi thung lũng, không biết bao nhiêu cảnh đẹp muôn màu, tâm thức dong ruổi, từ nơi này đến nơi khác, trong từng sát na sinh diệt, nên mãi trôi nổi trong vòng luân hồi đau khổ. Thời gian vẫn là chứng nhân của từng hiển hiện ấy, dù con người khám phá ra vũ trụ, tìm tới đỉnh cao của thiên nhiên, nhưng vẫn bất lực trong việc chinh phục tư tưởng, làm chủ tâm ý và tham sân si, nên mãi cuốn hút vào vòng xoáy của sự biến động trôi lăn trong triền phược. Làm sao ta có thể nắm giữ, làm chủ được chính ta, và thoát ra ngoài vòng luẩn quẩn, để lối vào tâm thức thêm đẹp, và thơ mộng như ý nghĩa uyên nguyên, ban sơ, vô cùng nào đó?
“Ngày tháng xoay vần xuân lại thu
Xăm xăm tóc bạc đáp lên đầu
Giàu sang, nhìn lại một trường mộng
Năm tháng mang theo vạn hộc sầu
Nẻo khổ luân hồi xe chuyển bánh
Sông yêu chìm nổi tợ phù âu
Gặp trường chẳng chịu sờ lên mũi
Vô hạn duyên lành chỉ thế thôi”.
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Thiền Sư Thích Thích Thanh Từ dịch
(Tứ tự tuần hoàn xuân phục thu
Xâm xâm dĩ lão thiếu niên đầu
Vinh hoa khẳng cố nhất trường mộng
Tuế nguyệt không hoài vạn hộc sầu
Khổ thú luân hồi như chuyển cốc
Ái hà xuất một đẳng phù âu
Phùng trường diệt bất mô lai tỷ
Vô hạn lương duyên chỉ ma hưu).
Những ngộ nhận, hay đóng khung thiền vào tháp ngà của tư duy, là mốt của thời thượng, là quái thai biến chứng nổi loạn của tư tưởng, là một cái gì đó mà ý thức không bắt kịp, và càng không thể dùng thiền như là một sự bày biện trang sức cho tư tưởng. Những ước đoán đó đều bị thiền khước từ đẩy bung vào hố thẳm tịch liêu. Chưa một ai và sẽ không một ai có đủ thẩm quyền để khoác lên thiền một định nghĩa. Bởi lẽ thiền vốn vô ngôn chỉ có diệu dụng, và sự khai mở trí tuệ, hành mà vô hành, một sự tĩnh lặng toàn triệt, bặt hết nổi trôi của ngôn từ, ý niệm. Thiền khơi mở cho ta ý nghĩa đích thực của tâm thức giác ngộ, chỉ cho ta sự thức tỉnh vẹn toàn, thôi thúc giúp ta gõ nhịp liên tục, để trông thấy bộ mặt như thật của sinh diệt. Từ đó mở ra khung trời tâm linh tươi sáng mà phiền não khổ đau đành chào thua bất lực.
“Hoa nở xuân mới đến
Lá rụng liền biết thu
Đầu cành sương đọng ngọc
Trên lá tuyết thành châu
Buổi sáng trời quang vẩy rồng hiện
Xế trưa mây tạnh có voi chầu
Vằn cọp ngoằn ngoèo một thứ
Phượng bầy thể tính như nhau
Pháp của Đạt Ma có gì lạ?
Lênh đênh mặt biển cánh hoa lau”.
Tông Diễn Thiền Sư
Nguyễn Lang dịch, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận 2, trang 174-175
(Hoa khai xuân phương đáo
Diệp lạc tiện tri thu
Chi đầu sương oánh ngọc
Ngạc thượng tiết liên châu
Thanh thần vân tán sản long giáp
Bạch nhật hà quang lõa tượng khu
Báo văn tuy kiến nhất
Phụng chúng thể toàn câu
Đạt Ma tây lai truyền hà pháp?
Lô hoa thiệp hải thủy phù phù).
Con người sáng tạo ra thơ, nhưng đối tượng mới chính là thơ, là chất liệu khiến thi nhân bật dậy cảm xúc. Bởi lẽ sự hình thành bài thơ trước hết phải dùng đến cảm xúc, vay mượn đến ngữ ngôn, đến hình ảnh, thì thơ mới hiện hình. Nhưng với một thiền sư đúng nghĩa, một nhà thơ siêu nghệ thuật, khi nhìn muôn vật tức khắc họ trông thấy ngay cái bản thể linh hiện, tuyệt diệu nằm sẵn ở đó, mà không cần đi qua chặng đường sai sử của ý thức. Nhờ huân tập và nhận chân ra được ý nghĩa ban sơ của vô cùng, từ đó khơi mở, vén lên để nó được hiển lộ tròn đầy, đồng nhất, xuyên qua phương tiện của ngữ ngôn. Bởi lẽ cảm xúc và rung động vẫn bị giới hạn, ngôn ngữ bị vô thường chi phối, ý thức luôn sai sử tác động bởi vô minh, phiền não. Vì thế, ta dễ bị lẫn lộn và phần nhiều ghi lại những biến động hưng khởi của vòng tương duyên, tương hợp.
“Lìa tịch mới bàn câu tịch diệt
Được vô sanh, sau nói vô sanh
Làm trai có chí xông trời thẳm
Chớ dẫm Như Lai vết đã qua”.
Thiền Sư Quảng Nghiêm
Thiền Sư Thích Thanh Từ dịch
Nếu thơ là sự phục hoạt vận hành nào đó của sự vật, thì thiền khơi dậy sự bất biến trong ý nghĩa thường hằng của sự vật. Một bên cố gắng khơi dậy sự ngủ yên của muôn vật, đưa tâm trạng và cảm xúc của mình để hình thành, và dừng lại ở đó. Còn bên kia cũng biến cảm xúc của mình, nhưng mở tung thực thể ẩn chứa sâu thẳm bên trong, lôi kéo, phơi bày ra ngoài để nhìn ngắm, quán chiếu và tìm phương vượt thoát. Vì lẽ đối tượng của thơ thiền là tâm cảnh, tử sinh, giác ngộ, một sự giác ngộ trọn vẹn về thể tánh tàng chứa ở con người và muôn vật.
“Học đạo mênh mang ai có hay
Gạch đem mài gạch nhọc nhằn thay
Cửa người anh hãy thôi nương dựa
Một ánh xuân về hoa đó đây”.
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Đỗ Văn Hỷ dịch, Thơ Văn Lý Trần tập 2, trang 233
(Học giả phân phân bất nại hà
Đồ tương linh đích khổ tương ma
Báo quân hưu ỷ tha môn hộ
Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa).
Thơ thiền không nằm ở lằn ranh định mức, không chịu sức ép của tư tưởng và càng không thể dùng tâm phân biệt để định hướng. Nó phá vỡ mọi cấu tạo của ý thức, đập tan những ngăn cách, giới hạn về tư tưởng; là sự bay bổng tâm thức ra ngoài, lật tung xoá nhoà chặng đường dấu vết. Bước đi tận cùng của thi ca là đạo ca, con đường đi đến bản thể như thật. Nhưng tất cả cuối cùng đều trở về uyên nguyên của khởi đầu và kết thúc, một sự lặng thinh bao trùm lên cõi có không vô tận.