Friday, December 15, 2023

Doãn Hưng | Việt Báo: TS Bạch Xuân Phẻ Chia Sẻ Cách Hướng Dẫn Chánh Niệm Cho Tuổi Teen

bach-xuan-phe
Garden Grove (VB)- Vào ngày Chủ Nhật 7 tháng 12 2023, tại Trung Tâm Thực Hành Chánh Niệm Nam Cali (MPC), Tiến Sĩ Giáo Dục Bạch Xuân Phẻ đã có buổi chia sẻ về cách hướng dẫn cho các em tuổi teen thực hành chánh niệm. Cùng tham dự buổi chia sẻ còn có chị Chơn Nguyên, y tá của Học Khu Centralia (Buena Park), huynh trưởng Gia Đình Phật Tử, nhiều bậc phụ huynh có con em đang ở tuổi teen, tăng thân Xóm Dừa, Nụ Hồng…

Thực hành chánh niệm để giảm căng thẳng, điều trị một số triệu chứng bệnh tâm lý, tăng khả năng tư duy trong học tập… đã ngày càng trở nên phổ biến tại Hoa Kỳ trong thập niên qua. Chánh niệm ngày nay xuất hiện trong trường học, bệnh viện, quân đội và cả nhà tù ở Mỹ. Nhiều phụ huynh gốc Việt biết lợi ích của chánh niệm, nhưng không biết làm sao để thuyết phục con em ở tuổi teen chịu thực hành tại nhà. Trong buổi chia sẻ, TS Phẻ và chị Chơn Nguyên đã trình bày một số nét chính về lý do nên thực hành chánh niệm, một số hình thức thực hành phù hợp với tuổi teen, và cách truyền thông giữa cha mẹ và con em.

TS Phẻ dạy môn Hóa tại một trường trung học ở Sacramento. Anh xúc động kể lại câu chuyện về một người học trò của mình tự tử vì cha không chấp nhận sự thật rằng em là người đồng tính. Và trong cuộc đời đi dạy của mình, TS Phẻ còn chứng kiến thêm nhiều trường hợp các em học sinh khác tự sát vì không thể kiểm soát được những cảm xúc tiêu cực về cuộc đời. Điều này thôi thúc anh hướng dẫn cho các em thực hành chánh niệm trong lớp học. Bởi vì nếu có thể kiểm soát được sự căng thẳng, nỗi tuyệt vọng, các em đã không đi đến hành động tự hủy hoại cuộc đời như vậy.

Hiểu một cách đơn giản, chánh niệm là khả năng có thể nhận diện được những thứ diễn ra trong tâm thức của mình ngay trong giây phút hiện tại mà không phán xét. Nếu làm được điều này, các loại cảm xúc tiêu cực giống như những người khách, sẽ đến rồi đi chứ không thể làm chủ được chúng ta, điều khiển chúng ta có hành động ngoài sự kiểm soát của lý trí. Và đây cũng là lợi ích đầu tiên của việc thực hành chánh niệm.

Chơn Nguyên cũng đồng ý với TS Phẻ khi ví chánh niệm giống như cho tâm trí của mình được hưởng một kỳ “vacation”. Một sự tĩnh lặng dù chỉ trong vài phút có thể giúp trí não phục hồi khả năng tư duy nhạy bén, giúp các em học sinh tập trung tốt, từ đó có kết quả học tập tốt hơn. Một số chuyên gia về não bộ cho rằng các em học sinh ở mọi lứa tuổi đều nên thực hành ngồi tĩnh tâm theo dõi hơi thở. Nguyên tắc đơn giản là (Age + 1) các em bao nhiêu tuổi thì có thể ngồi được bao nhiêu phút: 6 tuổi thì có thể ngồi trong 7 phút, 12 tuổi thì ngồi 13 phút… Chơn Nguyên kể rằng khi cho các em thực hành ngồi yên vài phút trước khi giờ học bắt đầu, chính các em cảm nhận lợi ích của việc này, và sau này thỉnh thoảng còn nhắc cô cho thực hành thêm. Các thầy cô giáo khác cũng chia sẻ rằng chỉ sau một vài phút thực hành chánh niệm đầu giờ, các em học sinh ổn định nhanh hơn, giờ học bắt đầu nhanh hơn.

Còn một số nguyên nhân rất hữu lý khác có thể dùng để thuyết phục các em thực hành chánh niệm. Các em muốn học giỏi, mơ ước vào các đại học danh tiếng? Các em có biết rằng đại học Harvard trong năm nay vừa mở một trung tâm thực hành chánh niệm mang tên thiền sư Thích Nhất Hạnh? Các em muốn trở thành bác sĩ, y tá để giúp người trong vấn đề sức khỏe? Các em có biết rằng tại bệnh viện UCLA có hướng dẫn thực hành chánh niệm cho bệnh nhân và y tá?

Lý do để khuyên các em nên thực hành chánh niệm là vậy. Còn các em nên bắt đầu thực hành như thế nào là phù hợp? Theo dõi hơi thở là một hình thức đơn giản nhưng vô cùng hiệu quả để bắt đầu. Hơi thở giống như cái neo để buộc tâm trí dừng lại trong giây phút hiện tại. Theo dõi được hơi thở vào ra một cách nhẹ nhàng, tâm trí sẽ có được những giây phút tĩnh lặng, thảnh thơi hết sức cần thiết. TS Phẻ đã hướng dẫn một số phương pháp theo dõi hơi thở có thể áp dụng cho các em học sinh. Ngồi thẳng lưng nhưng buông lỏng trên ghế, theo dõi hơi thở vào ra để làm tâm lắng xuống. Việc theo dõi hơi thở có thể được kết hợp với nuôi dưỡng lòng yêu thương, từ bi với người khác. Và người đầu tiên mà mình cần thực tập thương yêu đó chính là bản thân mình. Thực tập khi bắt đầu ngồi theo dõi hơi thở với lời cầu nguyện: “ Thở vào, tôi nguyện cho tôi được bình an. Thở ra, tôi nguyện cho tôi được bình an…”. “Thở vào, tôi nguyện cho cha mẹ tôi được bình an…”. “Thở vào, tôi nguyện cho những người chung quanh tôi được bình an…”

Thực hành chánh niệm có thể được thực hiện với những hình thức khác sinh động hơn. Thí như thực hành những động tác thể dục kết hợp với hơi thở điều hòa. Hay đi chậm rãi, theo dõi những bước chân đưa lên, đặt xuống. Chơn Nguyên có hướng dẫn cách ăn một trái quýt trong chánh niệm. Ăn quýt chậm rãi, sử dụng tất cả những giác quan để thưởng thức nó. Mắt nhìn nhận thức màu sắc, hình dạng của trái quýt. Tay bóc trái quýt cảm nhận được vỏ trơn láng, những múi quýt mềm và hơi nhám với những sợi sơ. Mũi ngửi được hương thơm của những trái quýt. Khi cắn vào cảm nhận được được vị chua, ngọt của từng múi quýt. Ăn quýt như vậy sẽ ngon hơn rất nhiều! Và ăn quýt cũng có thể kết hợp với việc nuôi dưỡng lòng biết ơn. Ăn quýt mà nhìn thấy mặt trời, thấy đất, thấy người nông dân… Biết bao nhiêu công sức mới có được trái quýt mà ta đang ăn, từ đó mà biết ơn người, ơn đời.

Cha mẹ nên sử dụng cách thức truyền thông, đối thoại ra sao để khuyên bảo con em mình thực hành chánh niệm? TS Phẻ cho biết nhiều em học sinh tâm sự rằng không thể nói chuyện được với cha mẹ, thường xuyên xung khắc với cha mẹ vì không có sự cảm thông. Nói chuyện còn chưa được, nói chi đến khuyên bảo? Vì vậy, hãy nói với các em bằng lòng yêu thương và sự cảm thông. Và cách thuyết phục hay nhất có lẽ là thân giáo, là hành động của chính bản thân mình. Trẻ em thầm lặng quan sát hành vi của cha mẹ, và bị ảnh hưởng nhiều từ điều này. Vì vậy, để khuyên các em thực hành chánh niệm, cha mẹ cần thực tập trước, và cho thấy điều này đem lại những lợi ích qua cách hành sử thường ngày của chính mình.

Một trong những cách để tương tác với các em hữu hiệu đó là qua các bài hát. Những người Mỹ thực hành chánh niệm theo phương pháp của Làng Mai có những bài hát đơn giản, dễ thương, có ý nghĩa, có thể nhắc nhở các em về chánh niệm. Trong buổi chia sẻ, mọi người hát chung với nhau những bài hát về sự hân hưởng thiên nhiên, là bước khởi đầu của chánh niệm:

Tìm từ cuộc đời nhiều hạnh phúc đáng quí
Có ngay đất này
Tìm từ mặt trời từng hạt nắng lấp lánh
Và dòng nước nói cùng ai
Gió thì thầm điều gì và nước cùng hòa ngàn lời
Hát câu yêu đời

Hay là:

Người là mây bay xanh màu trời ánh biếc
Cất cánh chim ngang trời bay vút xa ngàn khơi
Người là cành hoa thơm ánh mặt trời ấm áp
Trái đất sẽ ươm mầm cho những chồi xanh…

Kết thúc buổi chia sẻ, TS Phẻ kêu gọi mọi người cùng tham gia phổ biến cách thực hành chánh niệm đến với các em tuổi teen. Những buổi hướng dẫn tuổi teen thực hành chánh niệm tại MPC là một dự án trong tương lai, và cần có sự góp sức của nhiều người. Chúng ta giống như những người đi gieo hạt mầm chánh niệm. Nếu đầy đủ các yếu tố thuận lợi, hạt mầm rồi đây sẽ đâm chồi, nẩy lộc thành cây trái. Những khu vườn chánh niệm, là nơi nương tựa bình an cho thế hệ mai sau, đang bắt đầu từ ngày hôm nay.

Doãn Hưng    

Doãn Hưng | Việt Báo    
 

Thursday, December 14, 2023

Thích Viên Lý: Đạo Phật và Giáo Dục | Buddhism and Education

 

Vấn đề giáo dục là vấn đề lớn, là vấn đề lâu dài, trọng đại và là vấn đề thiết cốt trong đời sống của xã hội nhân loại. Khi nói đến vấn đề giáo dục, đặc biệt là sứ mệnh giáo dục trong Đạo Phật, quả thật đó là điều bất khả thuyết vì lẽ nó nhiều đến vô lượng. Bản thân của Đạo Phật tự nó chính là giáo dục, Pháp môn mà đức Phật khai thị là vô lượng (vô lượng pháp môn); tuy nhiên, vì sự giới hạn của thời lượng, do vậy, có 5 đặc điểm chính chúng tôi muốn được chia sẻ với chư vị, đó là:

1/Tiêu đích giáo dục (cứu cánh)

Nền giáo dục của Phật giáo là nền giáo dục cần được hiểu và đánh giá như là chính nó đang là. Giáo dục phải đào tạo được những con người với tất cả ý nghĩa của NGƯỜI, một con người mà từ đạo đức đến trí tuệ đều trở thành nghi biểu mẫu mực cho xã hội, ở mọi thời đại và quốc độ. Một con người sống vì người, cho người, với tất cả ý thức trách nhiệm của một con người. Khi đề cập đến Nghiệp, đức Phật muốn đặc biệt nhấn mạnh đến tinh thần trách nhiệm do ý thức được mình là người thừa tự của chính những hành tác mà mình đã tạo. Nói cách khác, mình là người chịu trách nhiệm hoàn toàn về những gì mà mình nghĩ, nói và hành động. Chúng ta là kết quả của một chuỗi yếu tố và điều kiện (nhân duyên) hỗn hợp được liên kết trùng điệp qua nhiều thời gian. “Duy tuệ thị nghiệp” là tinh thần giáo dục mà ta có thể gọi là một Nền Giáo Dục Toàn Giác, một nền giáo dục Nhất thiết chủng trí. Nếu suy nghĩ thật kỹ, ta sẽ thấy cứu cánh tối hậu hay tiêu đích giáo dục của Đạo Phật được đặt trên nền tảng của hai yếu tính cốt lõi: Thứ nhất: Tịnh hóa tự ngã, và, thứ hai: Lợi tế quầnsanh, nói cách khác, Tự giác, Giác tha và Giác hạnh viên mãn là cứu cánh của một nền giáo dục toàn diện và toàn giác mà Đạo Phật luôn hướng đến. Thiếu những yếu tính quan thiết này, Phật giáo không còn là Phật giáo. Vì Đạo Phật là đạo của Hòa bình, của Từ bi, Trí tuệ, Giác ngộ, Giải thoát. Đạo Phật là đạo của sự sống và sức sống, thế nên, trách nhiệm giáo dục con người có được một đời sống đạo đức tâm linh tốt đẹp, thánh thiện, phù hợp với chánh pháp, chính là đường hướng, là tiêu đích giáo dục thuần chánh của Đạo Phật.

Trên phạm trù thế tục, đối với xã hội, để có được một đời sống thật sự tốt đẹp, đức Phật dạy con người xây dựng sáu mối tương giao giữa Cha mẹ và Con cái; Thầy và Trò; Vợ và Chồng; Cá nhân và Quyến thuộc, Thân hữu, Láng giềng, Đoàn thể; giữa Chủ và Công nhân, giữa Tu sỹ và Cư sỹ[1]

Nhằm duy trì sự thịnh vượng, vững mạnh của một quốc gia, Ngài dạy 7 nguyên tắc xây dựng và phát triển làm nhụt chí những ai muốn cậy vào sức mạnh quân sự để gây hấn, thôn đoạt lãnh thổ và mười chánh sách để có được một chính phủ xứng đáng mà trong kinh Pháp Cú Sớ và Jātakagọi là Thập Vương Tử Pháp.

Ngài cũng dạy về nguyên nhân của nghèo đói và tệ nạn của xã hội đồng thời đề ra phương pháp cải thiện thực trạng xã hội qua việc nâng cao đời sống kinh tế, cải thiện kế hoạch canh tác, cung cấp phương tiện cho giới nông dân, và nguồn vốn đầu tư cho giới thương gia, trả lương xứng đáng cho giới công nhân (Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống, Trường Bộ Kinh 3 số 26).

Ngài dạy về cách chăm sóc và xây dựng hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình, có tay nghề vững, có khả năng điều hành, lãnh đạo tốt, siêng năng, cần mẫn. Biết quân bình ngân sách, biết tạo lập tài sản, biết bảo vệ sức khỏe, biết trưởng dưỡng tuệ giác, biết cải tổ đời sống của xã hội trên mặt vật chất lẫn tâm linh v.v…

Với việc bảo vệ chánh pháp, đức Phật dạy “Thất bất thối pháp” nhằm giúp cho chánh pháp được trường tồn, bảo vệ được hòa khí, giải quyết tận gốc những nan đề phức tạp, 7 pháp Tỳ ni để hóa giải mọi thị phi tranh chấp, 6 phép Hòa kính để chung sống hòa hợp, lâu dài và cả một tạng Luật để sách tấn hàng xuất gia và tại gia có một đời sống thanh tịnh, giải thóat, đó là chưa nói đến Kinh tạng, một kho tàng chân lý đồ sộ mà mỗi chữ mỗi câu đều là những phương pháp giáo hóa vi diệu có khả năng giúp người trút bỏ mọi hệ lụy, ưu não nhằm thăng hoa cuộc sống một cách nhanh chóng và hữu ích.

Với bản thân, đức Phật dạy, cần phải có niềm tin vững chãi vào tự thân mà đừng nương tựa vào một cái gì khác, Đức Phật đã khẳng định:
— “Này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác …

Này Ananda, ở đời, vị Tỷ kheo trú quán trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Trú quán thọ trên các cảm thọ … trú quán tâm trên các tâm, trú quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.

Như vậy này Ananda, Tỷ kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa một cái gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một cái gì khác.

Này Ananda, những ai, hiện nay hay sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa một cái gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi”[2].

Đức Phật còn dạy, “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, vì có Phật tánh nên mỗi một chúng ta đều có khả năng thành Phật và chắc chắn chúng ta sẽ thành Phật trong một ngày nào đó nếu chúng ta dụng công hành trì chánh pháp. Chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào khả năng thành Phật của chính mình và tin tưởng vào khả năng đóng góp của mình vào tiến trình thăng hoa của thế giới nhân loại. Ngoài việc tự tin, Đức Phật dạy chúng ta phải tự chủ, tự độ, tự nguyện, vô chấp và vị tha:

“Không phải chỉ Alara Kalama có lòng tin, Ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ Alara Kalama có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ Alara Kalama có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ Alara Kalama có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ Alara Kalama có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy ta phải cố gắng chứng cho được pháp mà Alara Kalama, sau khi tự tu, tự chứng, tự đạt đã tuyên bố. Rồi này các Tỷ kheo, không bao lâu, Ta tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú”[3]

Kinh Duy Ma dạy rằng Bồ tát hành đạo cần phải vào nơi chốn bùn nhơ tội lỗi; vì những người xấu ác chính là đối tượng cứu độ của Bồ tát. Lời Đại thệ nguyện của Tôn giả A Nan và Bồ tát Địa Tạng đã xác quyết tinh thần vị tha vô ngã của Phật giáo như thế nào, nhất là qua Tứ Hoằng Thệ Nguyện.

Nói chung, không có bất cứ lãnh vực nào trong đời sống mà không được Đạo Phật hướng dẫn một cách cụ thể, nhất là mặt nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, cải thiện xã hội, giải thoát khổ đau, sanh tử cho toàn thể chúng sinh, từ mặt nhân sinh quan đến vũ trụ luận, từ con người đến tất cả sinh loại, từ hữu tình đến vô tình, từ ảo tưởng đến thực tại, từ thế giới nhị nguyên phân biệt đến pháp giới bất nhị bình đẳng vô sai biệt, có thể nói, phương pháp giáo dục của đức Phật là hằng hà sa số thể loại, đó chính là lý do tại sao các nhà học giả tây phương, đặc biệt là những vị giáo sư lỗi lạc tại các trường đại học hiện đại nổi tiếng trên thế giới đã hết sức ngạc nhiên và khâm phục Phật giáo khi nghiên cứu và bắt gặp những điều mà theo họ vượt ngoài sức tưởng tượng của mình. Nói tóm, nền giáo dục của Phật giáo bao gồm cả: Đạo dục, Tâm dục, Trí dục, Tín dục, Kỷ dục và Thể dục 

2/ Phương tiện giáo dục

Phương tiện giáo dục trước hết phải được hiểu như chính là cứu cánh, vì cứu cánh và phương tiện tuy hai nhưng lại là một. Trong cứu cánh vốn tự có sẵn phương tiện và ngược lại. Phương tiện tốt, cứu cánh tốt, phương tiện xấu, cứu cánh xấu. Phương tiện ở đây, trước, trên và quan trọng hơn hết phải là bản thân của những nhà làm công tácgiáo dục, chứ không phải chỉ thuần là những thiết bị giáo dục, dù thiết bị giáo dục là nhữngphương tiện không kém phần quan trọng. Người đóng vai trò giáo dục phải nắm vững mục tiêu giáo dục, phải có chính sách giáo dục tốt, phải tự thấy trách nhiệm, tận tụy với chức năng của mình, thấu triệt những nan đề đặt ra cho bản thân. Người đảm trách sứ mệnh giáo dục theo đức Phật phải cần tự trang bị cho mình một cách đúng mức về Tam Vô Lậu Học (Giới, Định,Tuệ). Trên căn bản của ba môn học này, người làm công tác giáo dục sẽ có đủ 3 tiêu chuẩn tối thiết đó là: Đức năng, Trí năng và Kỹ năng. Đây là những tiêu chuẩn quan yếu mà trong vai trò của một nhà giáo dục cần phải được ưu tiên hàng đầu. Người đóng vai trò giáo dục đúng nghĩa theo Đạo Phật là người luôn thể hiện đúng đắn ba chuẩn mực căn bản: Thân giáo, khẩugiáo và ý giáo, và cần phải Khế thời, Khế Lý và Khế Cơ.

3/ Ưu tiên hóa giáo dục

Đạo Phật đặc biệt quan tâm đến vai trò giáo dục và xem giáo dục như một sứ mệnh ưu tiên hàng đầu. Trong suốt 49 năm ròng rã, không ngày nào đức Phật không giáo hóa. Ngài đã tuyệt đối trung thành với sứ mệnh giáo hóa đến hơi thở cuối cùng mà pháp hội Niết Bàn tại rừng Kushinagar là pháp hội đặc biệt quan trọng. Châm ngôn “Hoằng pháp thị gia vụ, Lợi sanh vi sự nghiệp” đủ nói lên sự quan tâm sâu xa của Đạo Phật đối với sứ mệnh giáo dục như thế nào. Đức Thế Tôn luôn luôn sách tấn đồ chúng là phải nỗ lực tinh cần trong vấn đề tu học, tu học liên tục, thường xuyên không gián đoạn (Ngài thường dùng hình ảnh của một người cọ hai thanh cây để lấy lửa ra ví dụ). Điều này có nghĩa là cần sửa đổi, tu nghiệp, cải tổ, cập nhật hóa… một cách miên tục, không gián đoạn, đặc biệt giáo pháp Tứ Chánh Cần đã chứng minh rất rõ thực tế đã đề cập. Do vậy, đối với Đạo Phật người nắm vai trò giáo dục cần thường xuyên quan tâm cải tổ hệ thống giáo dục, xây dựng một nền giáo dục hiện đại, đa dạng, tiên tiến, toàn diện và luôn phù họp với thời đại. Cần cải thiện kỹ năng và nội dung giáo dục, chấn hưng và thiết định hóa chương trình, tổ chức giáo dục trong tinh thần bình đẳng, cởi mở vì công ích. Chương trình giáo dục phải là một chương trình thù ứng với khả năng của từng đối tượng thụ huấn, phải thực tiễn, khả thi và đáp ứng thỏa đáng nhu cầu xã hội, thời đại, thể hiện cao độ lý tưởng của Bồ tát đạo, đặc biệt giải quyết rốt ráo khát vọng bức thiết của con người: Giải thoát sanh tử, khổ đau, thể nhập Niết bàn an tịnh, hạnh phúc đích thật.

4/ Phương Pháp Giáo Dục

Phương pháp giáo dục của đạo Phật là phương pháp rất hợp lý, khoa học và hết sức thực tiễn, hữu hiệu. Thường thì mỗi khi đức Thế Tôn thuyết giáo, Ngài kiên nhẫn và bi mẫn phân tích vấn đề một cách tỉ mỉ từ phạm trù của hiện tượng giới đến bản chất củasự vật, từ nguyên nhân đến kết quả, từ tục đế đến chân đế. Ngài không chủ trương bóp méo sự thật, ngược lại, trong tâm lượng của một bậc Đạo Sư, Ngài dạy đệ tử của mình phải khảo sát các pháp, tức mọi hiện tượng một cách tường tận và khoa học, khách quan (gạt bỏ mọi thủ kiến) để thể nghiệm chân xác và như thật bản thể hay tự tính của thực tại. Đây là phương pháp giáo dục của bậc Điều Ngự Trượng Phu, bậc Đại Giác.

Đức Phật thường căn cứ vào những sự kiện cụ thể để chỉ dạy, qua những chỉ dẫn của Ngài về giáo pháp Tứ Diệu Đế, Kinh Pháp Cú, Luật Tạng, 12 bộ kinh (chỉ cho thể loại một cách tổng quan chứ nếu nói đủ thì phải nói là vô lượng pháp môn) ta có thể chứng minh được điều đó. Những lời Ngài dạy rất sinh động, cởi mở, đi thẳng vào trái tim của người nghe, nhờ ánh sáng chân lý của bậc tuệ giác siêu việt chiếu vào khiến tâm thức của từng đối tượng tan đi tất cả những vô minh, phiền não. Tác dụng của những lời dạy của đức Phật quả thật rất khó nghĩ bàn, thật cao siêu, màu nhiệm, nhưng luôn luôn có sự tương quan với lịch sử và những chuyển biến mang tính thời sự.

Bốn tiêu chuẩn (nguyên tắc), tức là Tứ Tất Đàn (siddhāntas) mà đức Phật thường xuyên khai thị đã thể hiện rõ điều đó: Thế giới tất đàn, Vị nhân tất đàn, Đối trị tất đàn và Đệ nhất nghĩa tất đàn.Qua bốn Tất Đàn trên, chúng ta thấy rằng:

1/ Tiêu chuẩn thứ nhất căn cứ trên những căn bản nhận thức hoàn toàn thù ứng với thế giới. (Trên phạm trù tục đế dù ta biết mọi hiện tượng đều giả hữu, nhưng nếu không có phương tiện thiện xảo được ứng dụng một cách tuyệt hảo nhằm khai dụng trọn vẹn bi nguyện và trí lực thù thắng thì không thể có được hoạt dụng bất khả tư nghì của chánh pháp giữa một thế giới đầy mộng tưởng, điên đảo và khổ đau.)

2/ Tiêu chuẩn thứ hai căn cứ trên sự nhận thức của thính chúng đương cơ, của con người. Phù hợp với hoàn cảnh, trình độ, ngôn ngữ v.v… (nhưng cũng có người bảo rằng vị nhơn chứ không vị kỷ, ở một trình độ nào đó ta cũng có thể thông cảm được)

3/ Tiêu chuẩn thứ ba: Đối trị cả thân bịnh và tâm bịnh, do đó nền giáo dục của Đạo Phật là nền giáo dục có khả năng giải quyết những vấn đề của xã hội hiện thực từ kinh tế, đến y học, kỹ thuật v.v… Nói chung là làm cho con người hết khổ, có một đời sống hạnh phúc, an tịnh, giải thoát thật sự.

4/ Đệ nhất nghĩa là tiêu chuẩn thứ tư đặt căn bản trên chân đế, thắng nghĩa đế, hay xuất thế gian đế. Đây là tiêu chuẩn tuyệt đối, thực tại siêu việt. Tiêu chuẩn hoàn toàn đặt sự nhận thức trên sự thật như thật.

–  Bốn nguyên tắc quan trọng khác nữa, đó là Tứ y:1. Y pháp bất y nhân; 2. Y nghĩa bất y ngữ; 3. Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa; 4. Y trí bất y thức. Và, còn cả hàng ngàn pháp môn màu nhiệm khác mà chúng ta không thể nói hết và nói đủ. 

5Hiệu năng giáo dục

Đạo Phật đặc biệt nhấn mạnh đến  hiệu năng của  phương pháp hành trì, hay nói khác hơn dụng lực hay công năng của sự tu tập. Đạo phật không chủ trương trao cho con người một số kiến thức vô bổ, cũng không nhằm thỏa mãn nhu cầu tri thức thời đại mà chính là đặc biệt chú trọng đến hiệu năng của tiến trình tu chứng. Đây chính là phương pháp giáo dục đặc thù của Phật giáo.

Nền giáo dục của Phật giáo là nền giáo dục khai phóng, có khả năng giải thoát mọi cá thể ra khỏi mọi phạm trù tri thức ốc đảo. Ở thời đại chúng ta, để kế thừa nền giáo dục siêu xuất đó, trên căn bản của một nhận thức như thật, chúng ta cần phát huy tinh thần giáo dục thù ứng và diệu dụng của Phật giáo, tổng hợp những tinh tủy của mọi nền văn hóa để có thể nhiếp hóa nhằm bồi đắp nhưng đồng lúc triển khai đúng mức bản sắc đặc thù và những tinh hoa đặc hữu của dân tộc nhằm đưa dân tộc đến chỗ tự do, dân chủ, phồn thịnh và hạnh phúc chân thật. Đặc biệt nền giáo dục của Phật giáo là phương pháp giáo dục giúp con người trở thành bậc đại giác, toàn trí, toàn đức, có khả năng mang lại sự lợi ích to lớn và lâu dài cho muôn sinh.

Đạo Phật chủ trương lấy con người làm trung tâm điểm để cải hóa và xây dựng xã hội. Con người tốt, xã hội tốt và ngược lại. Giáo dục con người để trở thành một tài bảo của thế giới nhân loại là bước căn bản và hết sức quan yếu mà Phật giáo gọi là Nhân Thừa trong Ngũ Thừa giáo. Con người là tài nguyên lớn vô giá như Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Nhân thị tối thắng – Con người là trên hết”; do vậy, cần đầu tư vào việc giáo dục con người trên một quy mô quốc gia theo nền giáo dục hiện đại và toàn diện là một nhu cầu bức thiết mà chúngta cần hướng đến. Suốt 49 năm du phương hóa độ, sứ mệnh trung tâm của đức Phật là tuyên giảng con đường giải thoát, đề cao khả tính giác ngộ của mọi cá thể một cách bình đẳng và tuyệt đối.

Truyền thống giáo dục của Phật giáo là truyền thống giáo dục toàn giác. Đức Phật được tôn xưng như là một nhà giáo dục vĩ đại và thánh thiện, là bậc đạo sư tiêu biểu, mẫu mực (bậc Điều Ngự, đấng phước trí vẹn toàn), đức Phật chủ trương giáo dục con người giải thoát mọi kiến thủ để đạt được tuệ giác siêu việt. Ta thường nghe nói nhiều về sự Chứng Đạo, Đạt Đạo, Thành tựu đạo quả v.v… đó là cốt ý muốn nhấn mạnh đến thành quả, hiệu quả, cứu cánh tối hậu chứ không là một lý thuyết thuần túy.

___________________________

[1] Trường III, trang 101, Tương V, 170
[2] Trung I, 164b
[3] Trung I, 164b

Buddhism and Education

Thích Viên Lý

Education is a major, long-term, significant, and essential societal issue. Education, especially the educational mission in Buddhism, is indeed indescribable due to its immense scope. Buddhism itself is education, and the teachings that the Buddha introduced are innumerable (innumerable dharma gates); however, due to time constraints, there are five main characteristics that we want to share with you:

1-Educational Purpose (ultimate goal)

The foundation of Buddhist education needs to be understood and evaluated as it truly is. Education must train people in the complete sense of BEING HUMAN, who becomes a model of morality and wisdom for society in every era and country. A person who lives for others, with others, with all the responsibility of being human. When referring to Karma, the Buddha particularly emphasized the spirit of responsibility arising from the awareness that one is the heir of one’s actions. In other words, one is fully responsible for what one thinks, says, and does. We result from a series of factors and conditions (dependent origination) intertwined over time. “Wisdom is Karma” is the spirit of education called an All-Enlightening Education, an education of Universal Intelligence. If thoughtfully considered, the ultimate goal or the Purpose of Buddhist education is based on two core elements: Firstly, Purifying oneself, and secondly, Benefiting all sentient beings; in other words, Self-Awakening, Awakening others, and the Perfection of Practices are the goals of a comprehensive and enlightened education that Buddhism always strives for. Without these essential elements, Buddhism is no longer Buddhism. Buddhism is the path of Peace, Compassion, Wisdom, Enlightenment, and Liberation. Buddhism is the path of life and vitality. Therefore, the responsibility of educating people to have a good, sacred, spiritual life and conforming to the Dharma is pure Buddhist education’s direction and ultimate goal.

In the secular realm, for a perfect life in society, the Buddha taught people to build six relationships between Parents and Children, Teachers and Students, Husbands and Wives, Individuals and Relatives, Friends, Neighbors, Communities between Employers and Workers, between Monastics and Laypeople[1]

To maintain the prosperity and strength of a nation, He taught seven principles of building and development to discourage those who rely on military power to wage war, annex territories and ten policies for a deserving government as mentioned in the Dhammapada Commentary and Jātaka as the Ten Duties of a King.

He also taught about the causes of poverty and social evils and proposed methods to improve the social situation by improving economic life, agricultural planning, providing means for farmers, and investment capital for merchants, paying fair wages to workers (Wheel-Turning Sage King Sutta, Long Discourses 3 number 26).

He taught me how to care for and build personal and family happiness, have solid skills, good management and leadership abilities, and be diligent and hardworking. Know how to balance the budget, create assets, protect health, nurture wisdom, reform social life materially and spiritually, and so on.

In protecting the Dharma, the Buddha taught the “Seven Principles of Non-Decay” to help preserve the Dharma, maintain harmony, and resolve complex issues, Seven Principles for Monastics to resolve all disputes, Six Harmonies for long-term harmonious coexistence, and a whole Vinaya Pitaka to guide monastics and laypeople to live a pure and liberated life. This does not even mention the Sutta Pitaka, a vast treasure of truth where every word and sentence is a transformation method capable of helping people quickly and effectively elevate their lives by shedding all afflictions and worries.

For oneself, the Buddha taught that one must have strong faith in oneself and not depend on anything else; the Buddha affirmed:
— “Ananda, be a lamp unto yourself (atta-dipà viharatha), rely on yourself (attàsaranà) and not on anything else. Use the Dharma as your lamp, use the Dharma as your refuge, and not anything else, and so on.

Ananda, a monk, dwells in life contemplating the body with ardor, mindfulness, and restraint, overcoming covetousness and grief in the world. He dwells contemplating feelings in feelings – contemplating mind in mind, contemplating phenomena in phenomena, with ardor, mindfulness, and restraint, overcoming covetousness and grief in the world.

Thus, Ananda, a monk, is a lamp unto himself, relying on himself, not depending on anything else, using the Dharma as his lamp, using the Dharma as his refuge, not relying on anything else.

Ananda, those who now or after I am gone, is a lamp unto themselves, relying on themselves, not depending on anything else, using the Dharma as their lamp, using the Dharma as their refuge, not relying on any other Dharma, those, Ananda, are the supreme monks of mine if they are eager to learn”.

The Buddha also taught, “All sentient beings have Buddha nature” because of having Buddha nature, each of us has the potential to become a Buddha, and indeed, we will become Buddhas one day if we diligently practice the Dharma. We must have absolute faith in our potential to become a Buddha and trust in our ability to contribute to the progression of human civilization. Besides self-confidence, the Buddha taught us to be autonomous, self-controlled, voluntary, unattached, and altruistic:
“Not only did Alara Kalama have faith, I also have faith. Not only did Alara Kalama have effort, but I also have effort. Not only did Alara Kalama have mindfulness, but I also have mindfulness. Not only did Alara Kalama have concentration, but I also have concentration. Not only did Alara Kalama have wisdom, but I also have wisdom. So, I must strive to realize the Dharma that Alara Kalama declared after self-cultivation, self-realization, and self-attainment. Then, monks, before long, I self-realized, self-attained that Dharma quickly, I dwelt therein.”

The Vimalakīrti Sūtra teaches that Bodhisattvas must enter the places of heresy and sin because evil people are the objects of salvation for Bodhisattvas. The Great Vows of Ananda and Bodhisattva Ksitigarbha confirmed Buddhism’s selfless and generous spirit, primarily through the Four Great Vows.

In general, there is no aspect of life that Buddhism does not specifically guide, especially in terms of improving public knowledge, training talents, improving society, liberating from suffering, and birth and death for all sentient beings, from humanistic perspectives to cosmology, from humans to all living beings, from conscious to insentient, from illusion to reality, from the dualistic world to the non-dualistic Dharma realm of equality, it can be said that the educational methods of the Buddha are numerous, which is why Western scholars, especially distinguished professors at modern renowned universities around the world, have been amazed and admired Buddhism when they studied and encountered things that they thought were beyond their imagination. In short, Buddhist education includes Moral, mental, Intellectual, Faith, Discipline, and Physical education.

2-Educational Means

First and foremost, educational means must be understood as the ultimate goal itself because the goal and the means are two. In the ultimate goal, the means are inherently present and vice versa. Suitable means good goal; bad means bad goal. The means here, first, foremost, and most importantly, must be the individuals involved in educational work, not just purely educational devices, although educational devices are also important. Those in the educational role must understand the educational goals, have good educational policies, be aware of their responsibilities, be dedicated to their functions, and thoroughly understand their challenges. Those who undertake the educational mission according to the Buddha must adequately equip themselves with the Three Trainings (Precepts, Concentration, Wisdom). Based on these three studies, those in educational work will meet the essential standards: Virtue, Wisdom, and Skill. These are necessary standards that, as an educator, must be prioritized. According to Buddhism, the true educator rightly embodies the three basic standards: Body teaching, Verbal teaching, and Mind teaching, and must be Timely, Reasonable, and Opportune.”

3-Prioritizing Education in Buddhism

Buddhism places particular emphasis on the role of education and considers it a top-priority mission. Throughout his 49 years of ministry, there was not a day that the Buddha did not engage in teaching. He remained faithful to this mission of education until his last breath, with the Nirvana Assembly at Kushinagar being a particularly significant event. The motto’ Propagating the Dharma is the family affair, Benefiting sentient beings is the career’ profoundly illustrates Buddhism’s deep concern for the mission of education. The Buddha always urged his followers to strive diligently in their studies and practice, continuously and without interruption (He often used the image of a person rubbing two sticks together to make fire, for example). This means one needs to continuously refine, cultivate, reform, and update without interruption. The teaching of the Four Right Exertions has especially proven this reality. Therefore, in Buddhism, those who play a role in education must constantly focus on reforming the educational system and building a modern, diverse, advanced, comprehensive education that continuously adapts to the times. It’s necessary to improve skills and educational content, revitalize and standardize programs, and organize education in a spirit of equality and openness for the public good. The educational program must be responsive to the abilities of each trainee, be practical, feasible, and satisfactorily meet the needs of society and the times, reflecting the high ideals of the Bodhisattva path, especially addressing the urgent desires of humanity: Liberation from birth and death, suffering, entering Nirvana, and true happiness.

4-Educational Methodology

The educational Methodology of Buddhism is very rational, scientific, efficient, and effective. Typically, whenever the Buddha taught, he patiently and sensitively analyzed the issue in detail from the realm of phenomena to the essence of things, from causes to effects, from conventional truth to ultimate truth. He did not advocate distorting reality; on the contrary, with the generosity of a great teacher, he taught his disciples to thoroughly and scientifically examine all phenomena objectively (putting aside all prejudices) to experience the authentic nature of reality. This is the educational method of a great sage, an enlightened one.

The Buddha often based his teachings on specific events, and through his instructions on the Four Noble Truths, the Dhammapada, the Vinaya, and the twelve divisions of the scriptures (just a general categorization, if to speak in full, then it would be innumerable dharma gates) we can prove this. His teachings are lively and open and go straight to the listener’s heart, illuminated by the light of supreme wisdom, dissolving all ignorance and afflictions in the audience’s minds. The Buddha’s teachings’ effect is challenging to discuss; they are profound and mysterious, yet always relevant to history and current developments.

The four standards (principles), or the Four Reliances (siddhāntas) that the Buddha often expounded, illustrate this: The Worldly Principle, The Individual Principle, The Counteractive Principle, and The Ultimate Principle. Through these Four Reliances, we see that:

(i) The first standard is based on a complete understanding aligned with the world. (In the realm of conventional truth, even though we know all phenomena are illusory, without the excellent application of means to utilize vows and superior wisdom fully, it is impossible to activate the inconceivable functioning of the true Dharma in a world whole of dreams, delusions, and suffering.)

(ii) The second standard is based on the understanding of the audience, the human condition. Suitable for the situation, level, language, etc. (but some say it’s for others, not for oneself; at some level, we can also understand this)

(iii) The third standard is treating both physical and mental illnesses. Hence, Buddhist education can address real-world issues, from economics to medicine, technology, etc. It frees people from suffering, leading to a happy, peaceful, and genuinely liberated life.

(iii) The Ultimate Principle is the fourth standard based on ultimate truth, superior meaning, or transcendent truth. This is an absolute standard, a transcendent reality. The standard is entirely based on the perception of truth as it is.

Four other important principles are the Four Reliances: 1. Rely on the Dharma, not the person; 2. Rely on the meaning, not on the words; 3. Rely on the definitive meaning, not on the provisional meaning; 4. Rely on wisdom, not on consciousness. And we cannot fully express or exhaust thousands of other mysterious methods.

5-Educational Efficacy

Buddhism emphasizes the Efficacy of the method of practice, or in other words, the power or function of practice. Buddhism does not aim to give people useless knowledge nor to satisfy the intellectual needs of the era. Instead, it focuses on the effectiveness of the process of cultivation and realization. This is the unique educational method of Buddhism.

Buddhist education is a liberating education, capable of freeing every individual from all categories of isolated knowledge. In our era, to inherit this transcendent education based on a proper understanding, we need to promote the responsive and wonderful educational spirit of Buddhism, synthesizing the essence of all cultures to assimilate and cultivate while properly deploying the unique identity and exquisite essence of the nation, leading the nation towards freedom, democracy, prosperity, and genuine happiness. Buddhist education educates people to become great, enlightened beings, fully wise and virtuous, capable of bringing tremendous and lasting benefits to all beings.

Buddhism advocates focusing on the individual as the central point for transformation and building society: good people, good society, and vice versa. Educating people to become a treasure of humanity is a fundamental and crucial step Buddhism refers to as the Human Vehicle in the Five Vehicles. People are a priceless resource, as taught in the Avatamsaka Sutra: “Humans are the greatest”; therefore, investing in human education on a national scale according to modern and comprehensive education is an urgent need that we must strive for. Throughout his 49 years of wandering and teaching, the Buddha’s central mission was to preach the path of liberation, elevating the potential for the enlightenment of every individual equally and absolutely.

The educational tradition of Buddhism is a tradition of complete enlightenment. The Buddha is revered as a great and holy educator, a model teacher (a great master, fully blessed with wisdom), advocating for the education of people to liberate all views to achieve superior enlightenment. We often hear about realizing the path, reaching the fruit of the path, etc., emphasizing the result, the effect, and the ultimate goal, not just a mere theory.

Most Venerable Thich Vien Ly

Nguồn: https://sentrangusa.com/2023/12/14/thich-vien-ly-dao-phat-va-giao-duc-buddhism-and-education/

Wednesday, December 13, 2023

Quảng Pháp Trần Minh Triết: Thay đổi Văn Hóa Tổ Chức cần sự chuyển động. Không phải mệnh lệnh

 

Văn hóa giống như một cơn gió. Nó vô hình nhưng tác động của nó có thể được nhìn thấy và cảm nhận. Khi nó thổi theo hướng của chúng ta, nó sẽ giúp việc chèo thuyền thuận buồm xuôi gió. Khi nó thổi tấp vào chúng ta, mọi thứ sẽ trở nên khó khăn hơn.

Chỉ khi nào, chúng ta có nhận thức rõ rệt Nội Quy và Quy Chế Huynh Trưởng, là hai văn bản xây dựng nền tảng Văn Hóa Gia Đình Phật Tử, thì việc tu chính và san định, mới đầy đủ ý nghĩa và giá trị của nó.

Nay, Tổ chức đang định hướng đổi mới để thích ứng hơn, thay đổi văn hóa là một thách thức gai góc nhất của quá trình chuyển đổi này. Sự đổi mới đòi hỏi những tư duy và hành động mới của các nhà lãnh đạo cũng như mọi thành viên. Nhưng sự thay đổi văn hóa không thể đạt được hiệu quả thông qua nguyên tắc phân quyền từ trên xuống. Nó sinh động trong trái tim và thói quen tập thể của mọi người cũng như nhận thức chung về “cách mọi việc được thực hiện từ trước đến nay và ở đây”. Người trên cấp dù có thẩm quyền yêu cầu một thái độ tuân theo, nhưng không thể điều hướng tinh thần đoàn kết, niềm tin, tính thuyết phục và sự sáng tạo.

G.V. Prasad, Giám đốc điều hành của Dr. Reddy’s, một công ty dược phẩm toàn cầu 33 tuổi có trụ sở tại Ấn Độ chuyên sản xuất thuốc generic giá cả phải chăng. Với nhiều chi nhánh hoạt động tại 27 quốc gia và hơn 20.000 nhân viên, việc đưa ra quyết định trở nên phức tạp và các chi nhánh của tổ chức trở nên bất cập. Trong nhiều năm, công ty Dr. Reddy đã soạn thảo rất nhiều quy tắc điều hành vì nhiều lý do chính đáng. Song, những thủ tục đó chỉ khiến công ty chậm lại và bế tắc.

Bấy giờ, Prasad đã tìm cách phát triển văn hóa của công ty Dr. Reddy để thúc đẩy tiến trình đổi mới, đặc biệt lấy bệnh nhân làm trung tâm. Anh ấy biết cần phải có một hành trình để tạo sự đoàn kết và khích lệ tất cả thành viên. Đội ngũ lãnh đạo của anh bắt đầu bằng việc định hướng. Họ cùng nhau xác định và chắt lọc mục đích của công ty, rút gọn nó thành bốn từ đơn giản lấy bệnh nhân làm trung tâm: “Sức khỏe tốt là không thể chờ đợi”.

Nhưng thay vì hô hào những khẩu hiệu ồn ào, lặp đi lặp lại và tranh cãi trong các cuộc họp chung, đội ngũ lãnh đạo đồng lòng bắt đầu bằng cách âm thầm sử dụng nó để điều hướng các quyết định của chính họ. Mục tiêu là thể hiện ý tưởng này bằng hành động chứ không phải nói về nó. Và như đã trình bày ở trên, đặt đúng trung tâm vào đối tượng phục vụ.

Để vẽ ra sự tương đồng, trong trường hợp này, một sự chuyển động cũng như là một phong trào, nó bắt đầu từ cảm xúc. Sự bất bình lan tỏa với hiện trạng và nhận thức chung chung rằng các thể chế và cơ cấu thượng tầng hiện tại của GĐPT – là Ban Hướng Dẫn Thế Giới và Hải Ngoại – “đang có vấn đề!” Sự bất bình âm ỉ này đang trở thành những tiếng nói nhằm đưa ra tầm nhìn tích cực và con đường phía trước. Tuy bắt đầu ở quy mô nhỏ, từ một nhóm ít những người quan tâm nhưng sẵn sàng hành động nhằm tác động mạnh mẽ. Trong tình huống này, các nhà lãnh đạo không nên quá vội vàng hoặc hời hợt trong việc đưa ra một định chế cứng nhắt, cách tốt nhất là nên tận dụng động lực tích cực và ảnh hưởng để thể chế hóa sự thay đổi trong cơ cấu quyền hạn và các quy tắc của Tổ chức nói chung.

Một khi muốn thay đổi văn hóa tổ chức, chỉ giải thích sự cần thiết phải thay đổi là không hiệu quả. Tạo ra cảm giác cấp bách là hữu ích nhưng có thể nó chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Để khai thác được sự cam kết trọn vẹn và lâu dài của mọi người, phải làm sao để tất cả cảm thấy khao khát sâu sắc và thậm chí có bổn phận và trách nhiệm hiện thực hóa.

Văn hóa và cấu trúc thống trị của các tổ chức thế tục ngày nay được thiết lập hoàn hảo để tạo ra các hành vi và kết quả hiện tại, bất kể những kết quả đó có phải là kết quả chúng ta mong muốn hay không.

Tất nhiên GĐPT không giống như các tổ chức quyền lực thế tục. Chúng ta tuy có quyền, song cũng có hạn, và trên hết là có một nền tảng giáo lý Phật giáo. Điều chắc chắn là không thể hoặc không nên áp đặt một tiến trình thay đổi văn hóa cho các đơn vị hạ tầng. Nói đến sự thay đổi văn hóa, chúng ta nên cân nhắc và làm điều đó một cách cẩn trọng. Thật dễ dàng để lạm dụng quyền lực của mình với hy vọng đẩy nhanh quá trình chuyển đổi, song cũng dễ tạo ra xung đột, vì xét cho cùng, sự hài hòa nói chung là một trạng thái luôn được mọi người yêu chuộng. Và sự thành công của quá trình chuyển đổi tổ chức thường được đánh giá bởi tính chuyển tục của nó.

Tuy nhiên, một khi tiếp cận sự chuyển động để thay đổi, xung đột là điều tất yếu, và mức độ xung đột vừa phải là tích cực. Sự vắng mặt hoàn toàn của ma sát có nghĩa là thực sự có rất ít thay đổi. Hãy mạnh dạn đối mặt với lực cản và sự ma sát, qua đó nhận ra hướng đi phát triển.

Và hãy nhớ rằng sự thay đổi văn hóa chỉ xảy ra khi mọi người cùng hành động. Vì vậy hãy bắt đầu từ đó. Mặc dù việc nêu rõ sứ mệnh và thay đổi cấu trúc Tổ chức là quan trọng nhưng đồng lòng thường là cách tiếp cận thành công để giải quyết các loại vấn đề thay đổi mà chúng ta mong muốn.

Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, các tổ chức phải đối mặt với nhiều vấn đề. Khả năng giải quyết những khác biệt về địa lý, văn hóa và nhân sự ở từng quốc gia cụ thể rất quan trọng và phức tạp.

Khi sử dụng thuật ngữ “tổ chức quốc tế (TG)”, chúng ta đang đề cập đến các hoạt động xuyên biên giới quốc gia. Điều dễ gây nhầm lẫn là nhiều tổ chức có thể được biết đến, tưởng là một tổ chức quốc tế, nhưng thực chất nên hiểu nó là những “tổ chức liên chính phủ”, được thiết lập với một bộ quy tắc chung giữa các quốc gia tôn trọng và thực thi. Các ví dụ như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Y tế Thế giới, OECD, INTERPOL và NATO v.v…

Vậy, ở đây (nếu) chúng ta đưa ra ý tưởng xây dựng một cơ chế Ban Hướng Dẫn GĐPT Thế Giới, dựa trên mô hình của Liên Hiệp Quốc chẳng hạn, đó lại là chọn lựa nhằm thiết kế một Tổ Chức Liên Quốc Gia, từ đây định hướng cho việc tu chính Nội Quy và Quy Chế, nghĩa là chỉ nên soạn thảo một Bộ Quy Tắc Chung, những điều khoản có thể thực hiện nhằm mang lại lợi lạc chung mà không phi phạm các văn kiện pháp quy của từng quốc độ khác nhau làm nền tảng. Tất nhiên, Bộ Quy Tắc Chung này là một phần bổ túc cho Nội Quy và Quy Chế, để phong phú hóa, linh động hóa và hiệu quả hóa nguyên tắc điều hành, nhưng không phá vỡ nền tảng vốn là nền nếp văn hóa, truyền thống của các đơn vị Châu Lục, Quốc gia đã hoạt động nửa thập niên qua.

Nhiều phương tiện, công nghệ chức năng điện toán và online hiện nay có thể giúp xây dựng và điều hành những cơ chế tổ chức, đơn giản mà hoạt động hiệu quả, và thật không khó để nghiên cứu và tìm ra mô hình cũng như cách điều hành của những Tổ chức Quốc tế, kể cả một tổ chức Tôn giáo hay Phật giáo. Qua đó cho thấy một điểm chung rằng, quá trình lý tưởng của quốc tế hóa của bất kỳ tổ chức nào, được mô tả tốt nhất là sự độc lập trong việc ra quyết định ở cấp độ quốc gia cụ thể, mặc dù nằm trên sứ mệnh tổng thể của một tổ chức tầm quốc tế.

Tất nhiên, thực hiện lý tưởng trên, chúng ta cũng cần nắm vững và đối diện với những mặt tiêu cực và tích cực của nó. Tiên liệu một danh sách ưu và khuyết bao giờ cũng là điều cần thiết để chúng ta đo lường, xác định tổ chức hiện đang ở đâu, nhưng cũng hình dung ra nơi cần hướng tới trong tương lai.

Trở lại, chỉ khi nào chúng ta học thuộc và trả lại sự thiêng liêng và giá trị nhân văn cho hai văn bản Nội Quy và Quy Chế Huynh Trưởng GĐPT Việt Nam, dù áp dụng ỏ quốc độ chung hay riêng, trong hay ngoài đều có ý nghĩa giá trị bình đẳng như nhau; chỉ khi nào chúng ta hiểu đó là nền tảng Văn Hóa-Truyền Thống của một Tổ Chức có chiều dài gần một thế kỷ bằng xương máu và nước mắt của bao thế thệ tiền bối chứ không để xưng tán sáo rỗng mà vô tình biến thành phương tiện thống trị và đối trị như một hội đoàn thế tục, thì bấy dự thảo tu chính tự sẽ dễ dàng thành tựu.

Thay đổi Văn Hóa Tổ Chức cần một sự chuyển động. Không phải là một mệnh lệnh.

Thay đổi Nội Quy và Quy Chế Huynh Trưởng là thay đổi Văn Hóa. Trong hay ngoài nước, điều gì củng cố một thông điệp về sự đoàn kết và lòng cam kết, thì đó là điều mà tất cả Anh-Chị-Em lam viên nên sát cánh cùng nhau để theo đuổi và hoàn thành.

Nam Mô Thường Hoan Hỷ Bồ Tát Ma Ha Tát.

Chốn Bụi, ngày 13 tháng 12 năm 2023

Quảng Pháp Trần Minh Triết

______________________

Tham khảo:
1. Change Management | Harvard Business Review
2. Org Strategy, Org structure
3. Brooke Schedneck | Buddhist International Organizations, 

Nguồn: https://sentrangusa.com/2023/12/13/quang-phap-tran-minh-triet-thay-doi-van-hoa-to-chuc-can-mot-su-chuyen-dong-khong-phai-mot-menh-lenh/

Tuesday, December 12, 2023

Huệ Trí Nguyễn Gia Hải: 3 Bài Học Lãnh Đạo Vượt Thời Gian Từ Thầy Nhất Hạnh: Bậc Thầy Tình Thương | 3 Timeless Leadership Lessons from Thich Nhat Hanh: A Master of Love

 

Thầy, như được biết đến, là một Thiền sư, một nhà lãnh đạo tinh thần toàn cầu và nhà hoạt động vì hòa bình, nổi tiếng với những lời dạy ý nghĩa về Phật giáo nhập thế và những bài thực tập về chánh niệm và an lạc.

Thầy cũng là mẫu mực của sự lãnh đạo thời hiện đại, một người coi tình thương là lý tưởng của cuộc sống và sự nghiệp của mình. Sự lãnh đạo lấy tình yêu làm trung tâm, như Thầy đã làm thúc đẩy các giải pháp bất bạo động nhằm giải quyết xung đột và nâng cao nhận thức về mối tương sinh quan của tất cả chúng sinh. Di sản của Thầy để lại, mời gọi chúng ta làm sáng tỏ những niềm tin và nguyên tắc chỉ đạo trong hành động tự giác và giác tha.

3 bài học lãnh đạo nổi bật từ Thầy

  1. Hãy thực hành tính hòa nhập. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận mọi người, kể cả những ai đối lập, cạnh tranh khốc liệt nhất của bạn. Hãy cho tất cả cơ hội thành công và sống bình yên như bạn hằng mong ước. Hãy hỏi: “Làm thế nào chúng tôi có thể giúp bạn tận hưởng sự bình an? Vui lòng nói với chúng tôi.”
  2. Hãy chấm dứt bạo lực trong suy nghĩ của bạn. Khi bạn nhận ra mầm mống bạo lực bám rễ trong suy nghĩ, niềm tin, lời nói và hành động của mình, bạn có thể thức tỉnh và trở nên khác biệt. Hãy hỏi: “Tôi có nghĩ rằng để sinh tồn, phải đấu tranh (cạnh tranh) không? Tôi có muốn đè bẹp đối thủ cạnh tranh của mình để chiếm lĩnh vị trí, hay ảnh hưởng?”
  3. Hãy là chính mình (Hải đảo tự thân). Đừng lệ thuộc mọi thứ bạn đã học được từ các nguồn bên ngoài. Mục đích duy nhất của chúng ta là đánh thức sự vô minh, thèm muốn, nỗi sợ hãi của mình và tìm thấy sự giác ngộ ngay tại đây, ngay trong thời điểm hiện tại. Hãy hỏi: “Tôi là ai mà không bị đồng nhất với bất cứ người khác hay bất cứ điều gì?”

___________________

* Bài viếdựa theo “The Amare Wave” –  Moshe Engelberg