Tuệ Sỹ: Tư Tưởng Là Gì?
Tư tưởng không dẫn đến kiến thức như là khoa học;
Tư tưởng không mang lại một sự khôn ngoan có ích cho sự xử thế;
Tư tưởng không giải quyết một bí ẩn nào của Thế giới;
Tư tưởng không trực tiếp mang lại những thế lực cho hành động.
M. HEIDEGGER Qu’ appelle-t-on Penser[1]
Tư tưởng không mang lại một sự khôn ngoan có ích cho sự xử thế;
Tư tưởng không giải quyết một bí ẩn nào của Thế giới;
Tư tưởng không trực tiếp mang lại những thế lực cho hành động.
M. HEIDEGGER Qu’ appelle-t-on Penser[1]
Để đi vào lãnh vực thâm sâu và tăm tối mà ở đó câu hỏi trong tiêu đề của bài này được nêu lên, chúng ta hãy lấy thí dụ.
Tạp chí này mang nhãn hiệu Là TƯ TƯỞNG. Và trong những số của bộ mới, mỗi số trình bày một chủ đề. Cố nhiên, tất cả chúng ta đều hiểu rõ rằng mỗi chủ đề đều mang một ý hướng nào đó. Nếu chúng ta có thể nói rõ hơn, thì trên mọi ý hướng, cái ý hướng then chốt là «đặt lại giá trị của…» Nói khác đi, đó là cái ý hướng nhằm phả hủy những giá trị đã cũ của một cái gì đó và mang lại cho cái gì ấy một giá trị mới. Phải chăng giá trị của một sự thể chính là biểu lộ bản tính của sự thể ấy; biểu lộ như là xuất hiện, hiện diện với Hiện tại?
Trong bước đầu của sự đặt lại, cái ý niệm về sự đặt lại đã hàm ngụ rằng vấn đề được đặt ra đã hiện diện, đã gây một ảnh hưởng nào đó trên đời sống tri thức của chúng ta, và nói rộng thêm, trên đời sống thực hành của chúng ta. Cái có thể gây ra một ảnh hưởng như thế chắc chắn là cái xuất hiện với tư cách một chủ thể tác động. Cái làm cho chủ thể tác động có thể xuất hiện để mà tác động được gọi là THỂ tính. Cái đó không là gì cả; chúng ta không thể nhìn thấy nó trong toàn thể tính của nó từ một thời phần hay một phương vị nào đó; nhưng vì điều chắc chắn đối với ta rằng cái đó nó đã gây nên một hiệu quả mà chúng ta có thể nhận ra được, cho nên chúng ta biết rằng có cái đó. Thể tính được biểu lộ bằng tác dụng của nó, nghĩa là bằng dự tính. Và, tác động ấy được nhận ra bằng hiệu quả của nó. Trong chiều hướng này, sự biểu lộ của Thể tính, đối với chúng ta; cũng là sự biểu lộ của cái đã xong, đã tựu thành.
Như vậy, đặt lại giá trị của một cái gì đó cũng có nghĩa là đặt lại một thể tính đã xong. Sự đặt lại như vậy cũng có nghĩa như là sự di chuyển. Chúng ta di chuyển một thể tính đã xong từ vị trí này sang vị trí khác; bởi vì, trước kia nó đã được đặt không đúng chỗ.
Chúng ta gọi cái chưa xong là khả thể và cái đã xong là hữu thể.Thể tính đã xong là hữu thể (étant); đó là thể tính luôn luôn như thế. Chúng ta không bằng lòng về hũu thể đó; chúng ta không bằng lòng về tác động mà nó gây ảnh hưởng trên đời sống hiện tại của mình, cho nên chúng ta muốn sửa đổi nó. Bởi vì nó luôn luôn như thế, nên chúng ta chỉ có thể sửa chứ không thể đổi, nghĩa là chúng ta sửa lại vị trí của nó. Hoặc giả, đổi ở đây cũng mang ý nghĩa thay đổi, tức là thay thế cái này bằng một cái khác, thay thế hữu thể này bằng hữu thể khác.Trong ngôn ngữ thường nhật, khi chúng ta nói rằng: «kẻ ấy đã làm xong cuộc đời của nó», là chúng ta muốn nói rằng kẻ ấy đã chết; bất cứ chết theo nghĩa nào:
Thôi còn chi nữa mà mong.
Đời người đến thế là xong một đời.
(Kiều)
Thôi còn chi nữa mà mong.
Đời người đến thế là xong một đời.
(Kiều)
Đời sống được coi là chấm dứt. Cái chưa đến không trông mong gì nó sẽ đến, vĩnh viễn sẽ không đến, cho nên cái đã qua cũng vĩnh viễn qua luôn. Những ngày còn lại là một cuộc phấn đấu cho cái đã qua trở lại, trở lại trong sự phản phục miên trường. Không trở lại như là cái đã xong và đã mất nay trở lại. Nghĩ rằng mình đã chết, nhưng vẫn thấy rằng mình đang sống. Cái gì chứng tỏ cho ý thức rằng dù là đã chết nhưng lại đang sống; cái gì biểu lộ cho một tổng hợp kỳ diệu của đời sống như thế ? Ấy là:
Chữ trinh còn một chút này.
(Kiều)
Chữ trinh còn một chút này.
(Kiều)
Tấm lòng trinh bạch thì đã chừa từ lâu, nhưng chữ trinh thì lại vẫn còn mãi mãi. Thể tính tự biểu lộ trong sự khép mở của nó là thể tính của cái đến để mà đi, và đi là đi mất. Thể tính không biểu lộ thì không tồn tại, cho nên vẫn còn ở đó; không phải ở đó trong chiều hướng không và thời gian của tri thức thường nghiệm, mà ở đó là vì ở trong sự phơi mở- phơi mở nhưng không biểu lộ như là xuất hiện – của Thể tính. Nhưng con người đã không cưu mang thể tính trong vực thẳm tịch ngôn của nó; và thể tính bây giờ phải tự biểu lộ trong tư thế khép mở của nó. Từ đó, thể tính là cái xuất hiện một lần là xuất hiện vĩnh viễn. Đấy là thể tính của cái đã xong, cái đã chết.
Sự chết còn biểu lộ một sự hoang vu; chúng ta nói: «phong cảnh chết chóc» chính là muốn nói đến phong cảnh hoang vu. Phong cảnh hoang vu là nơi vắng bặt dấu vết của con người.
Chúng ta đặt lại một sự vụ, chính bởi sự vụ ấy đã và đang tạo nên một phong cảnh hoang vu không có bóng dáng con người trước mắt chúng ta. Chúng ta dời đổi sự vụ ấy đi nơi khác, và thay vào đó một sự vụ mới; dù sao, sự vụ mới mẻ này cũng phải là một sự vụ đã được làm xong, đã được thiết định xong. Chúng ta không ngớt đặt lại vấn đề, ngay cả trong đời sống thường nhật. Chúng ta cần có nhiều dữ kiện mới mẻ để đặt lại vấn đề. Dữ kiện dù có là mới mẻ cũng là cái đã xong. Thế giới của chúng ta được thiết định bằng tất cả những dũ kiện như thế; và như vậy, thế giới mà chúng ta đang sống trong đó là một sa mạc; «Sa mạc lớn dần… khổ thay cho những ai ôm giữ sa mạc.» (NIETZCHE, do Heidegger trích dẫn trong sđd)
Thế giới của chúng ta là một phong cảnh hoang vu không có bóng dáng của con người. Chúng ta sống và chỉ ý thức mình sống trong tương quan với hữu thể; chúng ta xử sự với hữu thể và hữu thể. Chúng ta tư tưởng, nghĩa là chúng ta cưu mang điều gì đó với tư cách là điều đã được thiết định như là dữ kiện.
Có một tấm lòng trinh bạch thì đã chừa rồi, nhưng còn một chữ trinh ở đâu? Chúng ta tư tưởng, nghĩa là cưu mang, cái đã qua. Sự đặt lại của chúng ta là nhắm đến một chủ đích ở phía trước, và cung cách đặt lại của chúng ta là lùi lại phía sau. Thể tính là một vực thẳm mịt mù. Chúng ta như những con chim đêm trước ánh sáng ban ngày. «L’Etre de i étant est le plus brillant, et pourtant nous ne le voyons pas du tout… »(Sdd.. tr. 85)
Tiếp tục thí dụ, chúng ta bước tới bước thứ hai.
Hành vi đặt lại của chúng ta bắt nguồn từ một tư tưởng nào đó, nghĩa là chúng ta đang tư tưởng. Chúng ta tư tưởng về hiện trạng thế giới chúng ta, và tư tưởng ấy thúc đẩy chúng ta hãy làm một cuộc sửa đổi thực tiễn; bắt đầu bằng sửa đổi lý thuyết rồi áp dụng lý thuyết vào thực hành.
Nói theo văn mạch kể từ trên thì chúng ta đang tư tưởng trong một thế giới hoang vu vắng bặt bóng người.
Cũng theo văn mạch ấy, và đây là điều có vẻ ngược ngạo, rằng chúng ta không tư tưởng. Chúng ta không tư tưởng vì chúng ta không là con người trong thể tính người. Chúng ta là con người của định nghĩa cổ điển: con người là con vật (có lý tính) L’homme est l’animal non encore déterminé;l’ animal rationnel n‘ est pas encore mis dans la plénitude de son être. (Sdd. tr. 54)
Chúng ta không tư tưởng. không phải vì rằng chúng ta không có cái tư tưởng để mà tư tưởng, nhưng vì cái đó lẫn tránh chúng ta. Bởi vì cái tư tưởng đích thực thì ẩn dấu, lẫn khuất, không biểu lộ; cái biểu lộ chỉ là tác dụng, công dụng, của nó. Chúng ta đặt lại vấn đề; và chủ dích được nhắm đến là hiệu quả của cung cách đặt lại vấn đề sẽ xảy ra như thế nào. Mọi cái xuất hiện cho ta chỉ có ý nghĩa ở cái công dụng của nó, nghĩa là chúng xuất hiện với tư cách là Dung tính (Zuhandensein) chứ không như là Thể tính. Chúng ta tư tưởng, nói thế cũng có nghĩa là chúng ta cưu mang dụng tính, nghĩa là cưu mang tính cách ích dụng mà một sự thể, một vật hay một người, có thể mang lại cho ta. Nói cách khác, chúng ta cần đến những máy móc hơn là cần đến con người trong thể tính người của nó. Nếu chúng ta nói: chúng ta tư tưởng về cái tư tưởng, cố nhiên cái tư tưởng ấy xuất hiện trong thể tính của nó, dù là xuất hiện trong tư thế lẫn khuất, ẩn dấu của nó; nhưng thực sự, cái ấy không xuất hiện như là thể tính mà xuất hiện như là dụng tính, do đó, không phải rằng chúng ta đang tư tưởng mà thực sự là chúng ta đang tính toán.
Đặt lại vấn đề là nhắm đến một chủ đích nào đó ở phía trước, nhưng cung cách đặt lại thì lui về sau. Càng đặt lại, càng lui về sau (régression à l’infini). Ở đây chúng ta đang nói đến sự vắng bóng của con người, nghĩa là đang nói đến cái không-tư-tưởng. Và như thế, nếu nói ở đây chúng ta đang tư tưởng, thì cái tư tưởng để chúng ta tư tưởng là cái không tư tưởng. Đây là một bước nhảy lùi trong cung cách tư tưởng của chúng ta. Bước nhảy lùi ấy cũng nằm trong cung cách đặt lại vấn đề của chúng ta.
Bây giờ chúng ta trở lại thí dụ như trên dể có thể nói thêm về cái không tư tưởng ấy. Cái tư tưởng của chúng ta là cái không tư tưởng, bởi vì chúng ta đến với nó với nhãn hiệu của nó chứ không phải đến với chính nó. Nếu có thể nói rõ hơn, thì chúng ta đến với hiệu quả của nó chứ không với chính nó. Thí dụ của chúng ta là tờ báo TƯ TƯỞNG. Chữ tư tưởng ở đây là một nhãn hiệu, như nhãn hiệu thuốc bổ Révitalose chẳng hạn. Tác dụng của nhãn hiệu là mời gọi, nhưng không cần phải có người mời gọi. Một nhãn hiệu không mang một ý nghĩa nào hết, nhưng nó hứa hẹn một hiệu năng nào đó. Hiệu năng của Révitalose là bồi bổ sức khỏe chẳng hạn. Không có cái-Révitalose đích thực mà chỉ có nhãn hiệu Révilalose. Cũng thế, ở đây không có cái-TƯ TƯỞNG đích thực (authentique) mà chỉ có nhãn hiệu TƯ TƯỞNG. Chúng ta là một nhãn hiệu, một dấu hiệu, không có ý nghĩa. (Sdd. tr. 28 30).
Chúng ta đã đưa ra một thí dụ dài như trên hầu đủ để nhấn mạnh trên điểm nói rằng, như ngay ở lời mở đầu, lãnh vực tư tưởng là lãnh vực thâm sâu và tăm tối. Bởi vì những bước đi của chúng ta trong cung cách đặt lại vấn đề là những bước thụt lùi. Và bởi vì cái tư tưởng ở đây là cái không-tư-tưởng; lãnh vực của tư tưởng ở đây là lãnh vực không-tư-tưởng. Người viết TƯ TƯỞNG, người đọc TƯ TƯỞNG, tất cả đều chứng tỏ rằng nhãn hiệu TƯ TƯỞNG nói lên cái không tư tưởng. Tiến thêm một bước, nghĩa là thụt lùi một bước nữa, chúng ta nói, người đọc TƯ TƯỞNG và người viết TƯ TƯỞNG, tất cả đều mang cái-không-tư- tưởng lại cho TƯ TƯỞNG.
«Làm thế nào để đặt lại…?» Và nói rõ hơn: «Làm sao để đặt lại vấn đề ?» Câu hỏi của chúng ta mang hai khía cạnh: nó được diễn ra trong tính cách biểu lộ của cái được nói đến, và diễn ra trong chính thể tính của cái được nói đến. Tất cả những câu hỏi chỉ có thể hình thành nếu nó diễn ra trên một căn bản thể luận và chỉ được nhận thức bằng nhận thức thể luận (connaissance ontologique).
«Làm sao để đặt lại vấn đề?» Câu hỏi này không mang một hình thức thể luận (questioi ontologique), nhưng chắc chắn là nó được đặt trên căn bản thể luận (ontolgie fondamentale): bởi vì, nó là cung cách biểu lộ bằng tác dụng của một mệnh đề thể luận chứ không phải là thể tính của chính mệnh đề thể luận ấy.
Thế nào là một vấn đề, một câu hỏi, nghĩa là vấn đề được biểu lộ như thế nào? Nói một cách tổng quát: Cái ấy được biểu lộ như thế nào? Trên phạm vi vật thể luận (on- tique), Cái ấy được xác định như là hữu thể(étant); nghĩa là, Cái ấy, cái xuất hiện ở đó trong tính cách vĩnh viễn như thế là như thế (vĩnh viễn như bây giờ và ở đây, Nunc stant). Hữu thể ở đây được coi như là tồn thể, l’être-subsistant. Cái (hữu thể) được biểu lộ như thế mới có thể biểu lộ cho tri thức thường nghiệm. Tương quan giữa cái ấy và ta là một tương quan ngoại tại, tương quan giữa cái này nằm cạnh cái kia. Do đó ta như một chủ thể đặt vấn đề, và cái ấy, như là cái được hỏi, cả hai đều là những vật thể cố định; bởi do tính cách xuất hiện đó, cái này cạnh cái kia trong thế giới vật thể, tương quan giữa ta và cái ấy hoàn toàn là tương quan tác dụng; và bởi vậy, mọi câu hỏi của chúng ta đều nhắm đến công dụng của cái được hỏi. Ở đây là tác dụng trong một chiều hướng đã được thiết định xong, cho nên tương quan của nó cứng đọng như tương quan của các bộ phận trong một cái mày. Bởi vì ở đây là thể tính đã thiết định xong, thể tính cố dịnh, cho nên thể tính ấy không dung chứa nổi xúc cảm sâu xa của đời sống; cái xúc cảm biết mình sẽ chết và đang sống :
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất tri lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc sảng nhiên nhi lệ hạ.
(Trần Tử Ngang)
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất tri lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc sảng nhiên nhi lệ hạ.
(Trần Tử Ngang)
Và đấy cũng là xúc cảm về một hình ảnh bất định màkhông gian và thời gian trong tri thức thường nghiệm không thể xác định nổi, nhưng chúng ta cảm nghiệm được bằng một tổng hợp kỳ diệu của nhận thức thể luận. Đấy là hình ảnh của một quá khứ bỗng nhiên sừng sững trong hiện lại âm thanh của nó vang vọng từ xa nhưng bóng đáng của nó mông lung như trước mặt:
Dường như bên ốc bên thềm
Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng.
(Kiều)
Dường như bên ốc bên thềm
Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng.
(Kiều)
Cái bất định của một hình ảnh như thế cũng là tính cách bất định của thể tính. Thể tính là cái nhờ đó mà tính cách bất định có thể có, và ta có thể nhận thức được; mà thể tính ấy vẫn còn là một vực thẳm tịch nhiên. Về phía chúng ta, chúng ta chỉ nhìn qua tính cách bất định, rồi mới cảm nghiệm thể tính bất định của tịch nhiên bằng tương quan tác dụng:
Dường nhừ bên ốc bên thềm
Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng
Bởi lòng ghi tạc đá vàng
Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây.
(Kiều)
Dường nhừ bên ốc bên thềm
Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng
Bởi lòng ghi tạc đá vàng
Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây.
(Kiều)
Nếu ta hiểu tương quan tác dụng ở đây trong lãnh vực giao hoán của xã hội, trong lãnh vực kiến thức khoa học, trong phạm vi xử thế, thì lời thơ ấy chỉ có thể là một lời thơ đẹp, một thứ đẹp hời hợt, không có chất sống. Và nếu phải nói có, thì đấy chỉ có sự sống trong một môi trường cố định. Từ đó, Daseinchỉ có thể hiện-thể trong một không gian ba chiều. Bởi vì, Daseinhiện thể trong một không gian ba chiều nên thể tính của hiện thể Dasein là một hiện thể vật thể. Đây là Dasein xuất hiện như là dữ kiện thường nghiệm, chứ không phải Dasein với tư cách là hiện thực con người xuất hiện trong nguồn suối lưu lộ của Thể tính. Dữ kiện thường nghiệm ấy là một vật thể không có sự sống, và bởi thế cái đẹp ở đây không lộ diện trong ánh sáng của Thể tính. «Cái đẹp là vận mệnh của thể tính chân lý, ở đó chân lý có nghĩa là sự bộc lộ của cái đang lẫn khuất.» (Sid. tr 31) Nhưng, cái đẹp ở đây, cái đẹp của dữ kiện thường nghiệm, không lộ diện trong ánh sáng của Thể tính, cho nên, Thể tính vẫn còn là một vực thẳm xa lạ, xa lạ theo nghĩa kỳ quái, không phải xa lạ theo nghĩa như là huyền thể nguyên sơ. Thực sự, đấy là một thứ hiện thể của hữu thể vật thế. Nghĩa là, bằng tương quan tác dụng được hiểu như vậy, chúng ta chỉ mới có thể nhận thấy được cái hiện hữu (qui, existence), nhưng không thấy được cái ấy hiện hữu bằng cách nào (quoi, subsistauce). Ngay trên bình diện vật thể luận, đối với chúng ta, hiện thể không xuất hiện, do thiếu cách thể xuất hiện của nó dù là xuất hiệnnhư một tồn thể, cho nên chúng ta không thể nhìn thấy hiện thể như là hiện thể để rồi có thể đi đến nhận thức về Thể tính của hiện thể.(L‘ Être et leTemps, trang. 45).
Trong trình bày như thế, chúng ta cố gắng để nhận thấy rằng vấn đề được đặt lại thực ra chưa được đặt lại gì cả. Bởi vì chúng ta chưa đủ khả năng làm cho cái được đặt vấn đề xuất hiện với khả tính của chính nó.
Vả lại, một vấn đề không phải là một nghi đề. Một vấn đề cần phải có câu trả lời tương xứng, tức là ta làm sao để cho hiện thể tự trả lời. Hiện thể tự trả lời là cái được hỏi, cái ấy không mang một tiền đề ( présupposition) nào cả.
Nói một cách vắn tắt, chỉ trong viễn tượng thể tính, vấn đề mới có thể được đặt ra một cách đích thực. Ở đây, đối với chúng ta, Thể tính vẫn còn là một viễn tuợng mà thôi.
Không ý thức nổi sự vụ như thế, không cưu mang nổi sự vụ như thế, dù chúng ta có tha thiết vấn đề bao nhiêu, đây cũng chỉ là sự tha thiết hời hợt. Bởi vì tham vọng là hướng đến con người, nhưng vấn đề lại được đặt ra trong một thế giới hoang vu không có bóng dáng con người. Trong thế giới hoang vu không người ấy, chỉ có những câu hỏi được nêu lên mà không có một câu trả lời tương xứng nào đáp ứng cả. Với vấn đề được đặt ra như thế, làm sao chúng ta có thể nhận thức được hiện thể trong hiện hữu và yếu tính của nó? «Une question est une recherche qui s’efforce de connaitre l’étant selon son existence et son essence.» (l’Etre et le Temps, 2. La structure formelle de la question du sens de .l’Etre). Đặt lại vấn đề trong một khoảng trời mênh mông; không gò ép mình vào trong một thế giới chật hẹp; nói khác đi, không yên ngủ trong một mớ kiến thức làm bằng những dữ kiện; đấy chỉ là bước đầu để có thể thấy được vai trò hiện tượng luận của Heidegger trong viễn tượng truy tầm Thể tính. Bởi vì, về phía chúng ta, và trong trường hợp của chúng ta ở đây, cái được đặt lại là phenomenonvà cung cách đặt lại là logos; và bởi vì), ở đây, logos được hiểu theo nghĩa của động từ legein; và bởi vì thế, không những chúng ta có thể đặt lại vấn đề mà chúng ta còn có thể nói về sự vụ đặt lại ấy, trong ý nghĩa của leigein: legein ti kata tinos (Platon), = nói gì về cái gì là nêu lên, để xuống hay đặt ra cái gì đó, nghĩa là để cho cái đó tự bộc lộ. Danh mà có là do bởi sự; sự mà được bộc lộ là do bởi Danh. Danh là Lý, và Lý là Luận, đấy là Hiện tượng Luận. Hiện tượng luận ở đây không nhất thiết là nói về cái xuất hiện như là mô tả, không phải là hiện tượng luận theo nghĩa logos của phainomenon, mà theo nghĩa danh nêu lên sự và sự để ra danh, nghĩa là, không những chỉ là logos của phainomenon mà còn là phai- nomenon của logos. Chính ở trong chiều hướng của hiện tượng luận như thế chúng ta mới có thể đặt được một câu hỏi đích thực. Và như thế, chỉ có hiện thể Dasein với tư cách là hiện thực con người mới đủ khả tính và hiện tính để trả lời cho câu hỏi đích thực ấy mà không bị chi phối bởi bất cứ một tiền đề nào cả. Chỉ có con người trong Thể tính người mới đủ khả tính và hiện tính để bộc lộ tính thể con người; do đó, câu hỏi mới có thể có câu trả lời tương xứng.
Bấy giờ thì câu hỏi Tư tưởng là gì? cần phải đổi lại thể điệu của nó để có thể có câu trả lời tương xứng: Gọi tư tưởng là gì? Trong thể điệu mới này, chúng ta muốn gọi tên cái được hỏi; gọi tên, nhưng gọi sao cho xứng hợp với nó, để cho danh nêu lên sự và sự đề ra danh, với cung cách gọi tên như vậy, không những chỉ riêng ta gọi cái ấy đến để mà đặt tên cho nó, nhưng về phía nó, nó cũng mời gọi ta đến với nó trong danh lý (logos) của chính nó, nghĩa là nó mời gọi ta lên đường; bởi vì tư tưởng là con đường. Cũng như con đường mời gọi khách bộ hành đến để mà đi trên nó và do bởi nó được đi lên nên nó được gọi là con đường; cũng vậy, chúng ta cưu mang vận mệnh của hiện thể Dasein và do bởi Dasein tự bộc lộ nên ta mới có thể cưu mang, nghĩa là chúng ta mới có thể tư tưởng.
Tư tưởng là con đường; và bởi vì tư tưởng là con đường cho nên tư tưởng mời gọi ta hành động; và bởi vậy, do bởi hành vi tư tưởng, cho nên hành động mới mang một ý nghĩa mới. Nếu ta nói hành động là đời sống thì cũng vì thế mà đời sống lại diễn ra trong một chiều hướng mới. Ở đây, điều quan trọng trong hành động không phải là kỹ thuật, nhưng là làm sao để nhìn thấy ánh sáng Thể tính để mà hành động. Nghi-vấn-từ «làm sao» tất nhiên lại yêu cách một kỹ thuật nào đó. Tuy nhiên, tính thể của kỹ thuật lại không phải là kỹ thuật; bởi vì sự phối trí, cung cách phối trí ở đây không như trong một hộp cạt tông. Do đó, sự đặt lại của chúng ta mới không là công việc của chuyên viên người máy, đánh mất tính thể legein nên logos trở thành logique của những bàn hội nghị.
Đối với chuyên viên người máy, cung cách đặt vấn đề của chúng ta là một trò đùa không dẫn tới đâu cả. Với chúng ta, sự vụ ấy dẫn chúng ta lên đường để đến với cái đang mời gọi chúng ta lên đường.
Trong sự biến thiên của các câu hỏi như thế, trên cơ cấu (căn bản) thể luận, chúng ta nói, hiện thể (étant) xuất hiện cho chúng ta với tư cách là hữu thể tồn tại: existenlia có nghĩa lá être-subsistant (L’Être et le Temps, tr.4). Nói cách khác, hiện thể luôn luôn xuất hiện trong chiều hướng không gian không gian là sự xuất hiện của hiện thể. Nhưng do liên quan với Ta, ta như là hiện thể Dasein, mà vũ trụ không phải là một hộp cạt tông phối trí từng sự vật. «Ta ở ngoài vũ trụ, và vũ trụ ở trong ta», nói như Merleau-Ponty chẳng hạn. Chúng ta có thể ví vũ trụ như một quán trọ chứng kiến sự đi và đến của khách bộ hành là ta. Vũ trụ là quán trọ cho nên vũ trụ ởngay trong quán trọ. Nhưng để cho khách bộ hành có thể đến và đi với quán trọ, nên quán trọ chỉ nằm trong một khoảng nhỏ của vũ trụ. Chúng ta nói quán trọ ấy chứng kiến sự đi và đến của lữ khách, nói thế tức là nói rằng chính quán trọ ấy là ta. Lữ khách bấy giờ là hạt bụi từ trời đất mênh mông ngoài kia gió cuốn tạt vào quán trọ trong phút chốc, rồi lại theo gió bay đi. Xúc cảm về một cuộc sống phiêu hốt như thế, ấy bởi vì chính ta là quán trọ, chính ta là hạt bụi và cũng chính ta là cả trời đất nữa :
Thiên địa nhất nghịch lữ
Đồng bi vạn cổ trần.
(Lý Bạch)
Thiên địa nhất nghịch lữ
Đồng bi vạn cổ trần.
(Lý Bạch)
Đấy là không gian tính giống như không gian của sự vật trong một tấm kính, và nói như Merleau-Ponty: (bởi vì thể tính của hiện thể chính là sự xuất hiện của nó. Nghĩa là, hiện tính là không gian tính, cho nên) mỗi đối tượng (mỗi sự vật xuất hiện trong tương quan với ta») là tấm gương phản chiếu tất cả những đối tượng khác. Chaque objet est le miroir de tous les autres. (Phénoménologie de Perception, tr.83)
Bởi vậy, theo quan điểm của một tri thức thường nghiệm, ta chỉ có thể như một hiện thể xuất hiện trong không gian cố định của hộp cạt tông, nhưng nếu quan điểm ấy được nâng lên hàng thể luận, và nói rằng chúng ta đứng trong một vị trí không gian là đứng trong tất cả vị trí không gian, thì sự xuất hiện của ta là một tổng hợp kỳ diệu. Ta xuất hiện ở đó mà đồng thời lại ở trong tất cả. Dasein, hiện thể được bộc lộ ở đó ở trong một vị trí của thời-không, mà đồng thời nó lại tự bộc lộ trong tất cả. Đấy là ý nghĩa của Dasein, hiện thể xuất hiện ở đó. Bởi vậy, Dasein, trong vận mệnh của nó, là một tổng hợp kỳ diệu, và chính do bởi tổng hợp này mà Thể luận tìm thấy căn cơ của nó.
Tóm lại, hiện thực con người được gọi là Dasein bởi không gian tính trong tính cách xuất hiện của nó. Dasein và vũ trụ của Dasein là một tổng hợp kỳ diệu. Bởi vì đấy là một tổng hợp kỳ diệu trên nền tảng thể luận, cho nên Thể tính phơi mở. Bởi sự phơi mở của Thể tính, cho nên hiện thể xuất hiện như là Tiếng Gọi. Đấy là Dụng của Thể, là Zuhandensein: Ce qui est zur Hand,c’est-à-dire «sous-la-main », possède une proximité. (L‘Êtrè et le Temps, tr. 102)
Thứ đến, bởi vì Dụng của Thể như là Thời tính chứ không phải là Dụng của Tồn thể, hay hiện thể tổng quát, tổng thể, cho nên sự phơi mở của Thể tính là sự Mời Gọi. Nghĩa là Tư Tưởng. Và bởi thế, thể điệu của câu hỏi Tư tưởng là gì? ở đây lại là Gọi tư tưởng là gì? thay vì Qu’est-ce que la Pensée? thì ở đây lại là Qu‘ appelle-t-on Penser?
Thứ đến nữa, chúng đi vào Thể tính bằng Dụng của Thể tính, và nếu ta thực sự đủ khả răng để đi, ở đây đi bằng và đi trên con đường tư tưởng, thì chúng ta cũng cỏ thể có đủ khả năng mang lại cho hành động một ý nghĩa mới: đó là sự tựu thành tất mệnh của hiện thể Dasein trong ánh sáng của Thế tính.
Sau hết, chúng ta không thể trả lời thẳng cho câu hỏi tư tưởng là gì cho nên câu hỏi được đặt lại cách khác: Gọi tư tưởng là gì? Và câu hỏi cuối cùng này đề cập đến cung cách đặt vấn đề, lúc là, nó điển hình trong sự biểu lộ của hiện thể Dasein.
Nhưng, không thể hỏi hành động là gì? mà chỉ có thể hỏi để có câu trả lời tương xứng là hỏi rằng: làm thế nào để hành động? Chỉ có hành động mới trả lời tương xứng cho hành động. Như vậy, tất cả các câu hỏi của chúng ta không thể vượt ngoài yêu sách kỹ thuật, không thể vượt ngoài lãnh vực tư tưởng tính toán. Chúng ta chưa bắt gặp được bóng dáng con người, hỏi vì Dasein chưa xuất hiện trong sự tựu thành tất mệnh của nó. Bởi vậy:
Tư tưởng không dẫn đến kiến thức như là khoa học;
Tư tưởng không mang lại một sự khôn ngoan có ích cho sự xử thế;
Tư tưởng không giải quyết một bí ẩn nào của Thế giới;
Tư tưởng không trực tiếp mang lại những thế lực cho hành động.
Tư tưởng không mang lại một sự khôn ngoan có ích cho sự xử thế;
Tư tưởng không giải quyết một bí ẩn nào của Thế giới;
Tư tưởng không trực tiếp mang lại những thế lực cho hành động.
Mà tư tưởng là Con Đường – là Đạo và là Tiếng Gọi mời ta lên đường. Chính bằng và trên Con Đường ấy chúng ta mới có thể bắt gặp được bóng dáng con người.
TUỆ SỸ
[1] Theo bản dịch Pháp văn của A. Becker và G. Granel : 2è -ed. PUF, Paris 19-67. Những ghi chú (sđd) ở sau đều chỉ cho tác phầm này.