Monday, March 9, 2020

Tuệ Sỹ: Phương Tiện Quyền Xảo*


Phương Tiện Quyền Xảo*

Tuệ Sỹ


(trích Chương II, DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT, Hán dch: Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập (KUMĀRAJĪVA). Tuệ Sỹ dịch và chú. Hương Tích xuất bản. In lần thứ nhất, nxb Phương Đông, 2008. Tái bản, nxb Phương Đông, 2011)
PHƯƠNG TIỆN QUYỀN XẢO[1]
Bấy giờ, trong thành Tỳ-da-ly có vị trưởng giả[2] tên Duy-ma-cật, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật và trồng sâu gốc rễ thiện, chứng đắc vô sinh pháp nhẫn,[3] có tài biện thuyết vô ngại,[4] hiện du hí thần thông,[5] nắm vững các tổng trì, đạt được vô sở úy;[6] khuất phục mọi thù nghịch và quấy nhiễu của Ma,[7] đã đi vào cửa Pháp sâu thẳm,[8] thiện xảo trong trí độ,[9] thông suốt các phương tiện, hoàn thành đại nguyện.[10] Ông biết rõ xu hướng của tâm của chúng[11] sinh, có thể phân biệt căn tính bén nhạy hay chậm lụt. Đã từ lâu tâm của ông đã thành thục trong Phật đạo,[12] đã quyết định nơi Đại thừa. Mọi hành động của ông đều dựa trên tư duy chân chính.[13] An trú trong oai nghi của Phật,[14] tâm trải rộng như đại dương.[15] Được chư Phật ca ngợi; Đế Thích, Phạm thiên, Thế chủ đều kính phục.
Vì để hóa độ nhiều người, bằng vào phương tiện thiện xảo, ông cư trú trong thành Tỳ-da-ly.
Bằng gia sản bất tận của mình, ông bao bọc người cùng khổ. Bằng giới thanh tịnh, ông bao bọc người hủy phạm cấm giới. Bằng sự nhu thuận của nhẫn[16], ông bao bọc người sân hận hung dữ. Bằng đại tinh tấn,[17] ông bao bọc người biếng nhác. Bằng nhất tâm, thiền định, tịch tĩnh,[18] ông bao bọc những kẻ có tâm ý tán loạn. Bằng tuệ quyết định,[19] ông bao bọc những hạng vô trí.[20]
Tuy là hàng bạch y[21] ông vẫn tuân hành mọi luật tắc thanh tịnh của Sa-môn.[22] Tuy là cư sỹ ông vẫn tự tại không vướng mắc ba cõi. Tuy thị hiện có vợ con ông luôn sống đời tịnh hạnh.[23] Tuy hiện thân giữa các thuộc hạ, vẫn thường vui thú viễn ly.[24] Tuy mang ngọc vàng châu báu nhưng trang điểm thân mình bằng tướng hảo.[25] Dù thụ hưởng các thức ăn uống nhưng chỉ thưởng thức vị ngon của thiền.[26] Đến phường cờ bạc để đưa người vượt thoát. Tiếp nhận dị đạo mà không hủy chính tín. Thông hiểu kinh điển thế gian, nhưng thường hâm mộ Pháp Phật. Ai gặp ông cũng đều kính nể, tôn kính vào hàng bậc nhất.[27]
Ông giữ chấp trì luật pháp,[28] duy trì trật tự dưới trên. Hợp tác hài hòa trong tất cả sự nghiệp buôn bán, tuy cũng gặt hái những tài lợi thế tục, ông không lấy đó làm mừng.[29] Rong chơi trên các ngõ đường để giúp ích mọi người. Vào chốn công đường[30] để bảo vệ kẻ thế cô. Tham gia các luận nghị để đưa người vào Đại thừa. Đến các trường học để khai sáng tâm mọi người. Vào nơi kỹ viện để cho thấy tai họa của dục vọng. Vào trong tửu lâu để khiến mọi người giữ vững ý chí.[31]
Trong hàng trưởng giả, ông được các trưởng giả tôn kính để diễn thuyết những pháp tối thắng.[32] Trong hàng cư sỹ, ông được cư sỹ tôn kính để dạy họ dứt trừ tham đắm thế tục. Trong hàng sát-lị, ông được các sát-lị tôn kính để dạy họ biết nhẫn nhục. Trong giới Bà-la-môn, ông được các Bà-la-môn tôn kính để dạy họ đoạn trừ ngã mạn. Trong các Đại thần, ông được các Đại thần tôn kính để dạy họ pháp luật công chính. Trong các Vương tử, ông được các Vương tử tôn kính để dạy họ đạo trung hiếu.[33] Trong chốn cấm cung, ông được các nội quan tôn kính để giáo hóa hết thảy cung nữ đức hạnh.
Vào trong hạng thứ dân, ông được thứ dân tôn kính để khích lệ họ vun trồng phước đức. Trong hàng Phạm thiên, ông được các Phạm thiên tôn kính, hiển hiện cho họ huệ tối thắng.[34] Trong hàng Đế Thích, ông được Đế Thích tôn kính, chỉ họ thấy rõ tính vô thường.[35] Trong hàng Hộ thế,[36] ông được các vị Hộ thế tôn kính, khiến họ bảo vệ hết thảy chúng sinh.
Trưởng giả Duy-ma-cật đã bằng vô lượng phương tiện[37] như vậy làm lợi ích cho chúng sinh.
Nay, bằng phương tiện, Ông hiện thân có bệnh. Vì ông bệnh mà Quốc vương, Đại thần, Trưởng giả, Cư sỹ, Bà-la-môn v.v… cho đến các Vương tử cùng các thuộc hạ, vô số hàng ngàn người, đã đến thăm viếng ông.
Duy-ma-cật nhân nơi tật bệnh của tự thân mà thuyết pháp[38] một cách rộng rãi cho những người đến thăm.
Ông nói:
“Các Nhân giả, thân này[39] là vô thường, không vững mạnh, yếu đuối, cũng chẳng bền lâu; là pháp chóng mục nát, không đáng tin cậy. Nó là sự khổ, là sự ưu não, là nơi tập hợp của các loại tật bệnh.
“Này các Nhân giả, thân này không phải là chỗ đáng nương tựa cho người minh trí. Thân này như đống bọt, không thể vốc nắm. Thân này như bong bóng nước, không tồn tại lâu. Thân này như quáng nắng[40] bốc từ khát vọng yêu đương. Thân này như cây chuối, ruột không lõi chắc. Thân này[41] như huyễn, hình thành bởi ý nghĩ đảo điên. Thân này như giấc mộng, do hư vọng mà thấy có. Thân này như bóng, theo duyên là nghiệp mà có.[42] Thân này như tiếng vang, tùy thuộc nhân duyên. Thân này như đám mây trôi, chợt biến chợt diệt. Thân này như ánh chớp lóe, thoáng chốc tiêu tan. Thân này không chủ tể, như đất.[43] Thân này không tự ngã, như lửa.[44] Thân này không thọ mạng,[45] như gió. Thân này không con người, như nước.[46] Thân này không thật, lấy bốn đại làm nhà.[47] Thân này rỗng không, không ngã cũng không ngã sở. Thân này vô tri, như cỏ, cây hay gạch ngói. Thân này không động, chỉ chuyển động vì sức gió. Thân này bất tịnh vì chứa đầy uế tạp. Thân này hư ngụy, tuy nhờ bởi tắm rửa, y phục, ẩm thực, rồi sẽ trở về tàn hoại diệt vong. Thân này nhiều tai họa, bị gây rối bởi một trăm lẻ một thứ tật bệnh.[48] Thân này như cái giếng trên gò,[49] vì sự già bức bách. Thân này vô định, nhất định sẽ chết. Thân này như rắn độc,[50] như kẻ thù,[51] như xóm hoang;[52] nó được tập thành bởi các uẩn, các giới, các xứ.
“Chư Nhân giả, thân này đáng chán như vậy, ta nên tầm cầu thân Phật. Vì sao? Vì Phật thân tức Pháp thân, sinh từ vô lượng công đức và trí tuệ; sinh từ giới, định, huệ, giải thoát và tri kiến giải thoát; sinh từ từ, bi, hỷ, xả; từ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, nhu hòa, cần hành tinh tấn, thiền định giải thoát, tam muội; sinh từ đa văn, trí tuệ, các ba-la-mật; sinh từ phương tiện; sinh từ sáu thông; sinh từ ba minh; sinh từ ba mươi bảy đạo phẩm; sinh từ chỉ quán; sinh từ mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng; sinh từ sự đoạn trừ hết thảy pháp bất thiện, tập hết thảy pháp thiện; sinh từ sự chân thật; sinh từ sự không buông lung. Từ vô lượng pháp thanh tịnh như vậy sinh ra thân Như Lai.
“Các Nhân giả, nếu muốn được thân Phật hầu chấm dứt hết thảy tật bệnh của chúng sinh, các ngài nên phát tâm cầu giác ngộ tối thượng”.
Trưởng giả Duy-ma-cật giảng Pháp cho những người đến thăm bệnh như vậy, khiến cho vô số nghìn khách viếng phát tâm vô thượng bồ-đề.*
___________________________________
[1] Ckh.: Thiện quyền phẩm 善權品. Lth.: Phương tiện phẩm 方便品. Htr.: Hiển bất tư nghị phương tiện thiện xảo顯不思議方便善巧品. VKN: Acintyopāyakauślyaparivarta.
[2] Htr.: Bồ-tát thuộc dòng họ Li-thiếp-tì tên là Vô Cấu Xưng 菩薩離呫毘種名無垢稱. VKN: Vimala-kīrti nāma licchaviḥ.
[3] Ckh.: đắc pháp nhẫn 得法忍. VKN: pratilabdhakṣāntiko, vị đã chứng đắc nhẫn.
[4] Htr.: đắc diệu biện tài 得妙辯才, sở đắc tài biện thuyết vi diệu; cf. Đại phẩm Bát-nhã, quyển 8, “Phẩm huyễn thinh”; Đại Bát-nhã kinh, quyển 499. VKN: labdhapratibhāna.
[5] Ckh.: thần thông bất hý 神通不戲. VKN: mahā-bhijñāvikṛḍtaḥ, bằng đại thần thông mà du hý.
[6] Đây chỉ 4 vô sở úy của Bồ-tát, bodhisattvānāṃ catvāri vaiśāradyāni.
[7] Lth.: hàng ma lao oán 降魔勞怨; Htr.: tồi ma oán lực 摧魔怨力. VKN: nihatamārapratyarhiko.
[8] VKN: gambīradharmanayasupraviṣṭaḥ, đã khéo léo đi vào nguyên lý của pháp sâu thẳm.
[9] Ckh.: xuất ư trí độ vô cực 出於智度無極. Lth.= Htr.: thiện ư trí độ 善於智度. VKN: prajñāpāramitā-nirjātaḥ, đã xuất sinh Bát-nhã ba-la-mật. Xem cht. 10 dưới.
[10] Ckh.: “Do thiện quyền phương tiện mà thâm nhập rộng rãi vào trong các đạo để thành tựu sở nguyện.” VKN: prajñā-pāramitānirjātaḥ/ upāyakauśalyagatiṃgataḥ prati-bhānasamanvā-gataḥ, “phát xuất từ Bát-nhã ba-la-mật, ông đã vận dụng thông suốt tính linh động của phương tiện, và thành tựu biện tài vô ngại.
[11] Hán: minh liễu chúng sinh tâm chi sở thú 明了眾生心之所趣. Ckh.: nhân căn danh đức sinh nhi cụ túc人根名德生而具足. Htr.: minh liễu hữu tình ý lạc cập hành明了有情意樂及行.VKN: sattvāśayacaritakuśalaḥ, thiện xảo về các chí hướng và hành vi của chúng sinh.
[12] Htr.: trí độ thành biện thuyết pháp thuần thục智度成辦說法淳熟. VKN: yathāpratyarhadharmadeśakaḥ, sự thuyết pháp của ông thích hợp theo từng đối tượng.
[13] Lth.= Htr. VKN: kṛtaniścayaḥ kṛtaśramaḥ, quả quyết, kiên trì nổ lực trong mọi hành vi.
[14] Ckh.: Phật Thánh thiện hành giai dĩ đắc lập 佛聖善行皆已得立 Lth. & Htr.: trụ Phật oai nghi 住佛威儀. VKN: buddheryāpathapratiṣṭhitaḥ, cử chỉ uy nghi đồng với chư Phật.
[15] Ckh.: giác ý như hải. Htr.: nhập tâm huệ hải. VKN: sāgaravarabuddhyanupraviṣṭaḥ, thâm nhập giác huệ bao la như đại dương.
[16] Lth.: nhẫn điều hạnh 忍調; Htr..: điều thuận nhẫn 調順忍. VKN: kṣamadamaprāpto.
[17] Ckh.: bạch y tinh tấn (avadāta-vīrya = udāta-vīrya?); VKN: uttapta-vīrya, dũng mãnh tinh tấn.
[18] Lth.: thiền tịch. Htr.: an trú tĩnh lự, chính niệm, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí. VKN: dhyānasmṛtisamādhisthito.
[19] Lth.: quyết định tuệ 決定慧; Htr.: chính quyết trạch 正決擇. VCS.: chính quyết trạch, chỉ tuệ vô lậu. VKN: prajñāniścayaprāpto, bằng quyết đoán của trí tuệ.
[20] Htr.: để nhiếp ích vọng kiến và ác tuệ. VKN: duḥprajñāna, ác huệ.
[21] Bạch y 白衣, “người bận áo trắng,” chỉ người thế tục. VKN: avādatavastradhārī.
[22] VKN: śramaṇeryāpathasaṃpanna, đầy đủ cử chỉ uy nghi của sa-môn.
[23] Phạm hạnh 梵行, Skt. brahmacārī, đời sống tuyệt dục. CDM.: Phạm hạnh, là hạnh thanh tịnh vô dục.
[24] Thường lạc viễn ly 常樂遠離, thường vui thú ẩn dật. Skt. vivekacārī.
[25] Lth. & Htr., đồng. VKN: sadā ca lakṣaṇaparicchinna, nhưng luôn luôn dứt bỏ ngoại hiện.
[26] Thiền duyệt vi vị 禪悅為味. Htr.: tĩnh lự đẳng chí vi vị 靜慮等至為味. VKN: vyānāhāraḥ, thức ăn là hơi thở của thiền, một trong năm loại sinh khí luân lưu trong cơ thể.
[27] Htr.: bậc Thượng thủ trong hàng thuyết giáo. VKN: sarvasaṃgaṇikāsu ca saṃdṛśyate sarvatra cāgrapūjitaḥ, ông xuất hiện trong tất cả chúng hội, trong tất cả mọi nơi đều được tôn kính bậc nhất.
[28] VKN: dharmavādī, người phát ngôn của công lý.
[29] Htr.: “Tuy không mong cầu tài bảo thế gian, vẫn tỏ ra sành sõi các lợi lộc thế tục.” VKN: sarva-vyavahārodyuktaśca na ca lābhabhogābhilāṣī, “tuy cùng tất cả hợp tác kinh doanh, nhưng không tham cầu thụ hưởng thế lợi.”
[30] Nguyên Hán: trị chính pháp. CDM, Triệu nói: “Chỉ quan chức thi hành pháp luật công chính.” Htr.: lý chư vương vụ 理諸王務, “giải quyết các công việc của triều đình.”
[31] Htr.: “để khiến mọi người an trụ chính niệm chính trí.” Htr.: “khiến họ phát khởi ý hướng thù thắng tu tương tợ phước.”
[32] Hán: thắng pháp 勝法. VKN: śreṣṭhadharma, nghĩa vụ của hàng trưởng thượng.
[33] Ckh.: “Để sửa đổi ngay thẳng tâm chí họ, bằng trung hiếu, khoan nhân, mà giáo hóa thói tục khinh bạc.” VKN: rājabhogaiśva-ryābhilāṣavinivarttanāya, khiến họ dứt bỏ tham cầu quyền lực vua chúa.
[34] Htr.: “chỉ cho thấy những sai biệt của tĩnh lự.” VKN: viśeṣajñānasandarśanāya, để khai thị trí tuệ thù thắng.
[35] VKN: aiśvaryānityatvasaṃdarśnāya, để chỉ cho thấy trạng thái vô thường của quyền lực chúa tể.
[36] Ckh.: Tứ thiên vương 四天王. VKN: Lokapāla.
[37] Htr.: “bằng cửa trí tuệ với vô lượng phương tiện thiện xảo bất khả tư nghị.”
[38] VKN: imam eva mahābhautikaṃ kāyaṃ ārabhya dharmaṃ deśayati sma, “ông thuyết pháp bắt đầu với thân thể được cấu thành bởi bốn đại chủng này.”
[39] Htr.: “Thân được cấu thành bởi bốn đại chủng này.”
[40] Viêm 炎. Luận Đại trí độ 6 (T25n1509, tr. 102b2): “Hơi nóng (viêm), đây là gió bụi bốc lên trong nắng, trông giống như ngựa nhảy giữa đồng trống, nên gọi là ngựa đồng (dã mã).” Từ dịch mượn của Trang Tử, Nam hoa kinh, Tiêu dao du: dã mã dã, trần ai dã. Sinh vật chi dĩ tức tương xuy dã, “Ngựa đồng, chính là bụi, do sinh vật lấy hơi thở thổi nhau.” Ckh.: như dã mã 如野馬. Htr.: như dương diệm 如陽焰. VKN: marīcyupama.
[41] VKN: yantrabhūto batāyaṃ kāyo sthisnāyuvinibandhaḥ, xương này như bó củi yếu ớt được ràng buộc bởi xương, gân. Thí dụ này khuyết trong các bản Hán.
[42] VKN: pūrvakarmapratibhāsatayā, do bởi ảnh tợ của nghiệp quá khứ.
[43] VKN: asvāmiko ‘yaṃ kāyaḥ nānāpratyayasaṃbhūtaḥ; nirvyā-pāro yaṅ kāyaḥ pṛthivisadṛśaḥ, “thân này không chủ tể, sinh ra từ nhiều duyên; thân này vô dụng, như đất.”
[44] Ckh.: “thân này là phi thân, như lửa.” Htr.: “… vô ngã, như nước.” VKN: anātmo ‘yaṃ kāyaḥ apsadṛśaḥ.
[45] VKN: nirjīvo.
[46] Htr.: “… không có hữu tình, như lửa.” Htr. còn thêm một dụ nữa không có trong Lth.: “Thân này không bổ-đặc-già-la (Skt. pudgala), đồng đẳng với hư không.” VKN: niṣpudgalo’yaṃ kāyaḥ vāyusadṛsaḥ; niḥsvabhāvo’yaṃ kāyaḥ ākāśasadṛśaḥ, “thân này không có con người, như gió; thân này không có tự thể, như hư không.”
[47] VKN: mahābhūtānām ālāyaḥ, là kho tích lũy (a-lại-da) bốn đại chủng.
[48] Htr.: “tập thành bởi 404 thứ bệnh.” VKN: caturuttaraiś caturbhī rogaśataiḥ, với hơn bốn trăm thứ bệnh.
[49] Hán: khâu tĩnh 丘井; CDM, Thập nói, “giếng trên gò, tức là giếng khô nơi gò nổng 丘墟 枯 井.” Htr.: “… dễ sập như đường hầm có nước 如水隧.” VKN: jīrṇodapānasadṛśo, như giếng khô.
[50] Rắn độc, thí dụ cho bốn đại, các giới (dhātu).
[51] Oán hại 怨害. VKN: vadhaka, kẻ sát nhân. Thí dụ cho uẩn (skandha).
[52] Không tụ 空聚, chỗ bọn cướp thường tụ tập. Thí dụ cho xứ (āyatana).
* Bản Hán, Htr., hết quyển 1.