Friday, May 8, 2020

Thích Nguyên Siêu (2006): Chứng Nhân của Chặng Đường Lịch Sử Hiện Đại

Sau biến cố 1975, Viện Cao đẳng Phật Học Hải Đức Nha Trang phải đóng cửa. Ban Giáo sư tự động giải tán. Anh em học Tăng, một số trở về chùa Thầy Tổ; một số hoàn tục kiếm kế sinh nhai. Một số không chấp nhận chính sách đảng trị của cộng sản Việt Nam nên bất chấp hiểm nguy để rồi bị tù đày và ra đi vĩnh viễn. Một số còn lại tại Viện thì đi lao động sản xuất trong các hợp tác xã cho qua ngày tháng. Đây là một thực trạng mà ai trong chúng ta đã sống trong những tháng năm của thời gian đó đều thấu rõ.
Để hòa mình vào cộng đồng xã hội của một đất nước trong bối cảnh lịch sử đen tối, Thầy cũng không ngoại lệ, cũng phải lên rừng làm rãy, cuốc đất, đào mương để trồng khoai, tỉa bắp, chăm sóc ruộng vườn cho qua ngày tháng. Nhưng chí nguyện của kẻ sỹ, lý tưởng của người xuất gia không cho phép Thầy chôn chân, cày sâu cuốc bẫm nơi rừng sâu, núi thẳm để ẩn cư mà quên đi hạnh nguyện độ sinh, hay tiếp tay xây dựng để vực dậy một quê hương, dân tộc đang bị đọa đày lầm than cơ cực. Vì thế, cho dù ngô khoai đang tươi tốt, bí cà đang đơm bông, mạch sống của rẫy vườn đang đâm chồi nảy lộc, cũng không đủ sức mạnh giữ chân Thầy nơi chốn núi rừng thiên nhiên, u tịch đó. Thầy tiếp tục đi theo chí nguyện bình sinh, mộng kiêu hùng của phương trời viễn mộng. Để rồi từ đó, tự thân Thầy cũng nổi trôi theo vận nước suốt 30 năm qua.
Chặng đường lịch sử đó đã ghi tên tuổi Thầy đậm nét trên các hệ thống truyền thông báo chí, các diễn đàn chính trị quốc tế, Liên Hiệp Quốc, Hội Ân Xá Quốc Tế… rằng, người tù mang bản án tử hình của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Bản tin ấy đã truyền đi khắp nơi, từ trong nước đến hải ngoại làm mọi người bàng hoàng, sửng sốt. Có lý nào, một thiên tài của đất nước, một Tăng sĩ uyên thâm Phật pháp nơi chốn thiền môn lại lãnh một bản án tử hình như vậy? Người người như đồng cảm, nhất tâm đứng dậy, đồng loạt đấu tranh đòi tự do và lẽ sống cho Thầy. Ngay cả 10 ngàn dân vượt biên tị nạn của trại Palawan, Phi Luật Tân, cũng được vận động đứng lên trương biểu ngữ chống án lệnh tử hình của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Tất cả các Hội đoàn, Đoàn thể người Việt quốc gia, các Tự viện, các cơ quan bảo vệ nhân quyền, tự do, dân chủ trên khắp năm châu bốn bể đều lên tiếng can thiệp. Nhà nước cộng sản Việt Nam đã phải lùi bước trước áp lực quốc tế, giảm bản án tử hình xuống 20 năm tù ở.
Ngày tháng âm thầm lặng lẽ trôi qua, Thầy như người ngồi đếm thời gian, chứng kiến bao hoang tàn đổ nát đang từng ngày diễn ra trên quê hương. Nỗi oan khiên, nghiệt ngã giáng xuống đầu người dân vô tội, từ những em bé thơ ngây trong trắng cho đến những cụ già gầy ốm hom hem. Là nạn nhân của chế độ khắc nghiệt, người dân thấp cổ bé miệng đành câm nín mỏi mòn trong tủi nhục.
Ngồi bên trong chắn song tù, nhưng Thầy không ngừng theo dõi mọi Phật sự của Giáo Hội và lo lắng cho tiền đồ đạo pháp ở bên ngoài. Thầy tự đặt mình trong trách nhiệm dấn thân phụng sự đạo pháp; cứu nguy Giáo Hội trong lúc nguy nan, phò trì dân tộc trong thời nhiễu nhương, khốn đốn.
Từ trại giam Xuân Phước, Thầy gởi Tâm thư đến Hòa thượng Thích Huyền Quang, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, nêu lên những nhận định và lập trường của Thầy trong hiện tình Giáo Hội đang bị vây khổn. Thầy đề nghị Đại Hội VIII tập trung thảo luận vào hai chủ đề chính:
  1. Pháp lý tồn tại của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong truyền thống dân tộc và trong cộng đồng thế giới.
  2. Sứ mệnh hiện tại của Phật Giáo Việt Nam trước sự sinh tồn và tiến bộ của dân tộc và trong nền văn minh dân chủ của nhân loại.
Đây là hai chủ đề trọng đại liên quan đến vận mệnh của đạo pháp trên quê hương và cộng đồng thế giới. Ưu tư lo lắng cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Thầy đã nêu lên 4 điểm để Chư Tăng Ni và các đại biểu Phật tử cùng gia tâm thảo luận hầu mang lại kết quả tốt đẹp cho Đại Hội:

THƯ CỦA THƯỢNG TỌA THÍCH TUỆ SỸ VIẾT TỪ TRẠI GIAM XUÂN PHƯỚC

Kính gởi: Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN
Kính bạch Hòa Thượng,
Dưới sự kiểm soát và can thiệp trực tiếp vào nội bộ Tăng Già, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đang là công cụ đắc lực cho sách lược thống trị của những
người cộng sản Việt Nam. Sách lược đó đã từng được ông Nguyễn Văn Linh, nguyên Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam vạch rõ. Phật Giáo Việt Nam là chỗ dựa cho những người Cộng Sản Việt Nam làm cách mạng. Và đó cũng là sách lược mà Lenin đã chỉ thị: Đảng phải thông qua tôn giáo để tập hợp quần chúng.
Trước tình trạng vong thân đó, chúng con vô cùng hoan hỷ được biết Hòa Thượng thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện quyết định triệu tập Đại Hội VIII Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất; kêu gọi toàn thể Tăng già và Phật tử hãy hiến dâng tâm tư và nguyện vọng của mình cho Đại Hội VIII, bằng cách tham luận, khảo cứu, hội thảo, tọa đàm… Đó là những Phật sự cần thiết; là thuận duyên để Phật tử Việt Nam bằng tiếng nói trung thực của chính mình xác định vị trí của Phật Giáo Việt Nam trong lòng dân tộc và Nhân loại.
Chúng con mặc dù đang sống dưới sự giam cầm khắc nghiệt, nhưng bất chấp mọi nguy hiểm trực tiếp đe dọa tính mệnh, cố vượt qua mọi chướng ngại, kính trình lên Hòa Thượng và Chư tôn Trưởng lão Hội Đồng Lưỡng Viện một số đề nghị sau đây, gọi là dâng cả tâm nguyện chí thành cho Đại Hội.
Đề nghị Đại Hội VIII sẽ tập trung thảo luận trên hai chủ đề chính:
  1. Pháp lý tồn tại của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong truyền thống dân tộc và trong cộng đồng thế giới.
  2. Sứ mệnh hiện tại của Phật Giáo Việt Nam trước sự sinh tồn và tiến bộ của dân tộc và trong nền văn minh dân chủ của nhân loại.
Để chuẩn bị đầy đủ cơ sở dữ kiện cho Đại Hội, xin đề nghị 4 điểm mà toàn thể Tăng già và Phật tử có thể tham gia thảo luận trong quá trình chuẩn bị Đại Hội:
  1. Việc nhà nước chuẩn y và phong tặng các phẩm hàm Hòa Thượng, Thượng Tọa cho các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni là một xúc phạm đối với Giáo chế của Đức Phật được truyền thừa trong Luật tạng. Việc làm đó còn bộc lộ ý đồ rằng vị ngọt của Danh và Lợi biến một số Tỳ kheo và Tỳ kheo ni biến chất phải trung thành với Đảng Cộng Sản Việt Nam hơn là lý tưởng phụng sự Chánh Pháp.
  2. Luật điển Ba La Đề Mộc Xoa cấm các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni tham gia các cơ cấu quyền lực; nói theo ngôn ngữ hiện đại, đó là đại biểu Quốc hội. Các vị ấy như thế đang tự mình làm môi giới nối dài cánh tay quyền lực lung lạc Giáo Hội, khoa trương chính sách mị dân và củng cố chế độ độc tài đảng trị.
  3. Nhà nước Cộng sản bằng cái gọi là Pháp chế Xã Hội Chủ Nghĩa đặt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam làm một thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Như thế, chỉ công nhận Giáo Hội tồn tại như một hội đoàn thế tục ngang hàng với các hội đoàn khác dưới quyền lãnh đạo của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Về mặt pháp lý, Phật Giáo Việt Nam đang bị đặt trở lại đạo dụ số 10 của chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Phật tử Việt Nam đã hy sinh thân mình để đốt cháy đạo dụ ấy. Đó là nỗi đau của dân tộc và đạo pháp.
  4. Bằng lý tưởng Tịnh độ dân gian, bằng giáo lý Phật tính bình đẳng. Phật tử Việt Nam bằng tinh thần hy sinh vô úy, khẳng định minh bạch sứ mệnh của mình trong thời đại văn minh dân chủ; Giáo Hội phải nêu cao ngọn đuốc từ bi và trí tuệ, lãnh đạo Phật tử tiến tới và xây dựng một xã hội an lạc, bình đẳng và nhân ái.
Cầu nguyện Đại Hội thành tựu viên mãn.
Kính chúc Hòa Thượng và Chư Tôn Trưởng Lão Hội Đồng Lưỡng Viện Pháp thể khinh an, chúng sanh dị độ.
Phật lịch 2537
Trại tù Xuân Phước ngày 15 tháng Giêng, 1994
Tuệ Sỹ
Kính bạch
Từ bản án tử hình còn 20 năm tù ở, Thầy đã đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi cùng với anh em bạn tù của chế độ. Dù thân mình bị giam hãm trong sự tù túng, thiếu ăn, thiếu ngủ nhưng thâm tâm Thầy vẫn lao lung cùng đạo pháp và quê hương.
Hòn Ngọc Viễn Đông Việt Nam, đang lùi dần, tụt hậu, nghèo nàn, đất đai bị cắt bán. Miền Tây là vựa lúa trù phú nuôi sống cả Miền Nam nước Việt, nhưng nay đã không còn trù phú như xưa. Các tài nguyên thiên nhiên bị hủy hoại vì đói kém, rừng cây gỗ quý bị chặt đốn, xuất cảng bừa bãi, cho những lợi nhuận riêng tư. Vì không còn cây rừng ngăn chận nguồn nước thượng ngàn nên tạo thành những trận lụt hàng năm cuốn trôi nhà cửa, dân làng, thiệt hại biết bao nhiêu tài sản của người dân vốn đã nghèo khó lại thêm nghèo khó hơn.
Từ ngàn xưa, tiền nhân đã tốn bao công khó, bao xương máu để mở mang bờ cõi tiến dần về phương Nam, để bảo vệ giang sơn gấm vóc, cho đồng lúa thêm xanh tươi, cho quốc gia dân tộc được phú cường thịnh vượng. Quê hương Việt Nam đã nuôi lớn bao anh hùng liệt nữ, mong xây dựng một đất nước thái hòa ngõ hầu theo kịp đà văn minh phát triển cùng các quốc gia trên giới. Ai ai trong chúng ta cũng mong muốn bảo vệ quê hương đất nước của Cha Ông để lại. Thế nhưng, nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa đã không màng đến công sức tiền nhân, mà cắt đất bán biển cho ngoại nhân.
Sống trong một quê hương với bao nỗi thăng trầm, điêu linh, Thầy cũng lênh đênh theo vận nước:
“Tiếng trẻ khóc ngân vang lời vĩnh cửu
Từ nguyên sơ sông máu thắm đồng xanh
Tôi là cỏ trôi theo giòng thiên cổ
Nghe lời ru nhớ mãi buổi bình minh.”
(Bình Minh – Tuệ Sỹ)
Từ thuở khai sơn phá thạch, từ thời mở nước hơn 4000 năm trước của dân tộc đến nay, tất cả hình ảnh ấy vẫn như còn hiển hiện trong tâm tư mỗi người con nước Việt. Sự kiện lịch sử hôm nay, luôn đánh thức chúng ta nhớ về tinh thần bất khuất quật cường, anh dũng của giống nòi. Tiếng nấc, uất nghẹn trào tuôn của ai đâu đó thầm tưởng về cái buổi ban sơ. Đó là tình tự được nối kết suốt theo dòng lịch sử mà chưa một thời nào bị lãng quên, lạt phai của tính mệnh và sử mệnh quê hương. Thầy luôn mang tự tình đó, luôn cất cao lời kêu gọi tất cả mọi người dân hãy nhớ đến quê hương, bảo vệ quê hương và cùng sống chết cho quê hương, mà không quay lưng trốn tránh, chối từ nhiệm vụ:
“Người đi đâu bóng hình mòn mỏi
Nẻo tới lui còn dấu nhạt mờ Đường lịch sử
Bốn ngàn năm dợn sóng
Để người đi không hẹn bến bờ.”
(Tĩnh Thất 24 – Tuệ Sỹ)
Cho một quê hương, là nỗi thao thức miệt mài trong tâm tưởng, trong ký ức muôn đời của dân tộc, là giải trừ nỗi khốn cùng của quốc nạn để xây dựng lại thời vàng son của đất nước trong cảnh thanh bình thịnh trị, có được như vậy, quê hương không thể thiếu vắng các vị khai quốc công thần, các vị hứng chịu đầu tên mũi đạn, các vị quên thân mình để hy sinh cho đất nước, đại cuộc:
“Từ những ngày Thái Bình Dương dậy sóng
Quê hương mình khô quặn máu thù chung
Nàng không mơ những chiều phơi áo lục
Mơ Trường Sơn vời vợi bóng anh hùng.”
(Cô Gái Trường Sơn – Tuệ Sỹ)
Ấy là cho một quê hương hôm nay.
Còn dân tộc thì sao? Có lẽ quá ư là thiếu thốn và hầu như mất tất cả. Mất đi một nền văn hóa dân tộc:
Phủ nhận giá trị đạo đức, lương tâm giữa người với người. Cấm đoán tình tự viếng thăm giữa Thầy với trò, tông môn, làng nước, qua những ngày lễ lộc của dân tộc. Phá hủy và triệt tiêu hầu hết tất cả các chứng tích lịch sử: Đền đài, miếu mạo, đình làng, chùa viện để biến thành các công trình có tính cách thời thượng xã hội hiện nay. Thay tên các đường phố mang danh các vị anh hùng liệt nữ của một thời chống giặc ngoại xâm giữ yên bờ cõi. Từ những chủ trương thâm độc của người cộng sản, cố tình tẩy não người dân để không còn nhớ tưởng về quá khứ, không còn lưu lại một hình ảnh kiêu hùng mang nét đặc thù của giống nòi Đại Việt.
Người cộng sản Việt Nam chủ trương chế độ quản lý hộ khẩu, kinh tế buộc bụng. Đảng san bằng đẳng cấp người dân để chỉ còn: giai cấp lãnh đạo và quần chúng. Giai cấp lãnh đạo đảng viên thì giàu có, quan liêu, thụ hưởng vật chất dư thừa, trong khi đại đa số người dân thì buôn gánh bán bưng, nghèo khó, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, bán máu nuôi gia đình, để từ đó sanh ra mọi tệ nạn xã hội: Buôn người ra ngoại quốc, xuất cảng lao động, đủ các loại bệnh tật giết hại đời sống con người. Văn hóa suy đồi, vong thân…
Giáo dục học đường suy kém, thiếu thực tiễn, dân trí thấp kém không theo kịp đà văn minh tiến bộ của thế giới mà được gọi là nền giáo dục tẩy não, nhồi sọ với khẩu hiệu: “mười năm trồng cây, trăm năm trồng người” để đi theo con người của xã hội chủ nghĩa. Sinh viên tốt nghiệp ra trường đa phần không có việc làm, nếu không phải là con cháu đảng viên, không có chỗ ứng dụng và từ đó vùi mình trong nếp sống thị thành, với bóng đêm, với những xa hoa phù phiếm bên ngoài.
Nền giáo dục bao cấp, ưu tiên cho con cháu cán bộ cắp sách đến trường, trong khi con dân thì lang thang đầu đường xó chợ, nhặt lon, ve chai, bao nhựa… sống đời lam lũ; nhưng nào ai có màng đến đời sống của người dân cùng khổ đó. Vừa không được cắp sách đến trường, vừa không có công ăn việc làm, vừa bị đẩy lùi ra khỏi thành phố, lang thang bên lề xã hội không chút tình thân. Mọi việc đều do nhà nước cai quản, người dân chỉ còn biết nuốt tủi nhục vào lòng.
Cuộc sống đầy những khó khăn thiếu thốn, có làm nhưng không được hưởng theo công sức, chỉ những người may mắn có gia đình ở hải ngoại thì đời sống tương đối không đến nỗi thiếu trước hụt sau. Nguồn ngoại tệ từ nước ngoài gửi về giúp thân nhân đã giúp cho nền kinh tế Việt Nam cũng như giúp cho các cấp lãnh đạo của nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam có đời sống vật chất hoang phí, mặc cho dân khốn khó.
30 năm đã qua, đất nước Việt Nam vẫn yếu kém, tụt hậu, các ngành khoa học, kỹ thuật, công nghệ, công nghiệp… ngay cả nghành nông nghiệp cũng không được phát triển đúng mức mặc dù Việt Nam là nước nông nghiệp, vì thế đại đa số quần chúng vẫn đói nghèo.
30 năm sống trên quê hương cùng chia sẻ những nỗi khó khăn với dân tộc, Thầy đã chứng kiến những khuôn mặt tái xanh vì thiếu ăn suy dinh dưỡng của những em bé lang thang đầu đường xó chợ. Những khuôn mặt măng sữa ngơ ngác khi bị bán ra ngoại quốc, bán thân để nuôi sống gia đình. Đó chính là một trong những thảm trạng của xã hội trên chặng đường lịch sử quê hương hôm nay.